Home > Khai Thị Niệm Phật
Sự Lý Viên Dung
Thượng Tọa Thích Tâm Hải


Nỗi thao thức trong mỗi chúng ta là làm sao giải quyết được sinh tử bởi vì còn sinh tử thì chúng ta cứ mãi trôi lăn trong vòng luân hồi của lục đạo hết sức khổ sở. Vì sinh tử, chúng ta cứ mãi vô ra trong bào thai đầy hôi tanh máu mủ, nhơ nhớp của người mẹ, có khi nằm trong bào thai của con chó, con heo, con cá v.v… cứ mãi quay đi lộn lại trong vô lượng kiếp như vậy, thật là ghê rợn. Vì sinh tử mà làm đảo lộn luân thường đạo lý, ví dụ như cha lấy con, con lấy cha, mẹ lấy con, con lấy mẹ, chị lấy em, cầm dao giết con vật để ăn, không ngờ ta giết cha mẹ, anh, chị, em, thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp mà không hay không biết.

Vì sinh tử, chúng ta không chỉ làm khổ cho mình mà còn làm khổ đến cho tất cả mọi người như là làm khổ vợ, khổ chồng, khổ con, khổ cha mẹ v.v… trong vô lượng kiếp như vậy.

Ôi! Nghĩ đến sinh tử thật là kinh hoàng, mà chúng ta không giác ngộ tu hành hay sao, chúng ta không gấp rút hay sao, đợi đến chừng nào đây?

Thật là may mắn thay, chúng ta được làm thân người, sớm lại được gặp Phật pháp. Đặc biệt, chúng ta lại gặp được Pháp môn Tịnh độ, nhờ tha lực bản nguyện của Phật A Di Đà mà chúng ta được liễu sinh thoát tử vãng sinh về thế giới Cực lạc.

Để cho chúng ta luôn thức tỉnh, tu hành một cách nghiêm mật, thì chúng ta phải luôn nghĩ đến sự vô thường, sự trống vắng, ngắn ngủi của kiếp người.

Khi đề cập đến việc được làm thân người, được gặp Phật pháp là khó hay dễ, thật là khó vô cùng. Như chúng ta thường nghe: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”, nghĩa là: thân người khó được, Phật pháp khó nghe.

Thật là khó được gặp mà hôm nay chúng ta đều gặp được cả.

Chúng tôi thầm nghĩ, chắc có lẽ chúng ta từ vô lượng kiếp đã từng tu tạo phước đức cho nên hôm nay mới gặp được quả tốt như thế này, bằng ngược lại thì chúng ta không dễ gì mà gặp được đâu.

Vì vậy, chúng ta phải luôn thường xuyên nghĩ đến sự vô thường, trống vắng, mỏng manh của cuộc đời mà tinh tấn tu hành, chứ trong thời gian ngắn ngủi này, chúng ta không chịu tu sửa thì thật uổng phí cả một kiếp người.

Đức Phật đã dạy: “Mỗi khi chúng ta đánh mất thân này, thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được”. Cũng giống như đức Phật ví con rùa mù hai mắt, sống tận dưới đáy biển, cứ một nghìn năm khúc gỗ trôi qua biển thì con rùa mù hai mắt nổi lên liền chui vào đúng bọng cây. Phật mới bảo các vị Tỳ Kheo, các thầy thấy con rùa mù hai mắt chui được vào bọng cây khó hay là dễ? Các thầy Tỳ kheo trả lời: “Kính bạch Thế Tôn, thật là khó vô cùng”. “Cũng vậy, được làm thân người lại là khó gấp mấy lần con rùa mù hai mắt chui vào bọng cây”.

Có vị Tổ dạy rất độc đáo: “Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhân thân vạn kiếp nan”, nghĩa là: nghìn năm cây sắt nở hoa còn dễ hơn, mỗi khi chúng ta đánh mất thân người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được.

Như chúng ta đã biết, có khi nào cây sắt nở hoa không? Không bao giờ có chuyện đó, khó như vậy đó, được làm thân người còn khó hơn cây sắt nở hoa nữa.

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, có đoạn ghi: “Đức Phật lấy ít đất để lên móng tay, rồi bảo Ca Diếp Bồ Tát rằng:

- Đất ở mười phương thế giới nhiều hay đất ở móng tay ta nhiều?

- Bạch Thế Tôn, đất ở móng tay không thể nào sánh bằng đất ở mười phương thế giới.

- Đúng thế, này thiện nam tử! Có người đã chết trở lại được thân người, bỏ thân trong ba đường ác mà được thân người, căn thân đầy đủ, được sinh nơi trung quốc, có đủ chánh tín, có thể tu tập đạo hạnh, có thể tu tập chánh đạo, có thể được giải thoát, có thể nhập Niết bàn, được như trên đây thật là hy hữu, như số lượng đất trên móng tay”.

Qua những dẫn chứng trên, chư Phật, chư Tổ thường nhắc nhở chúng ta có được thân người thật là khó vô cùng. Khi đã có rồi thì chúng ta phải biết quý trọng, bảo vệ nó, mượn nó để tu hành, chớ không nên buông lung, để rồi chúng ta đánh mất nó, trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được.

Chúng ta phải luôn thức tỉnh cái chết đến cận kề bên ta. Thân này thật là mỏng manh, giả hợp, chỉ cần chúng ta hít vào mà không thở ra thì ta đã qua đời khác rồi, như bông hoa sớm nở tối tàn, có gì mà vui đâu. Cho nên, vào một hôm, đức Phật hỏi các vị Tỳ kheo rằng: “Mạng người sống trong bao lâu?”.

- Có vị trả lời là mạng sống con người trong khoảng vài ngày, bị đức Phật chê trách, ông chưa hiểu đạo, ông chỉ hiểu cái da của Phật pháp.

- Có vị trả lời: Mạng sống con người trong khoảng bữa ăn, bị đức Phật chê trách, ông mới hiểu được cái xương của Phật pháp.

- Có vị trả lời: Mạng sống con người trong một hơi thở. Vị này được đức Phật ca ngợi và tán thán là ông đã hiểu tận xương tủy của Phật pháp.

Vì thế đức Phật thường dạy: “Tất cả vạn vật hiện hữu trên vũ trụ này đều là giả tạm vô thường, không có gì là bền chắc đâu, chỉ có tu nhân tích đức mới là cái thật để cho chúng ta mang theo”.

Khổng Tử cũng nói: “Thế thượng vạn ban đô thị giả, nhân sinh đạo đức quả duy chân”, nghĩa là: tất cả vạn vật hiện hữu trên thế gian này đều là vô thường, duy chỉ có đạo đức mới trường tồn vĩnh cửu.

Chúng ta thường biết được thân này là vô thường, là giả tạm, không có cái gì là ta cả, nghĩ như thế chúng ta mới quên mình tu được, còn ngược lại chúng ta không hay không biết, cứ cho cái thân này là thường còn, cuộc đời này là đẹp đẽ, chấp cái ta này là thật có thì quý vị cứ mãi tham đắm bả ngũ dục giả tạm ở thế gian, suốt cả cuộc đời làm nô lệ cho cái giả, suốt cả cuộc đời làm nô lệ cho ăn, uống, ngủ nghỉ, mà không hay không biết, thật là khổ đau vô cùng.

Để đối trị lại những dục vọng tham muốn ở đời, đức Phật đã chỉ dạy chúng ta trong “Tứ niệm xứ” là phải luôn quán thân này là bất tịnh, là hôi thối.

Kinh Trung Bộ I có đoạn ghi: “Này các vị Tỳ kheo, hãy quán thân này từ gót chân cho đến đỉnh đầu là một bọc da chứa đựng toàn là những đồ bất tịnh hôi thối như là: tóc, lông, móng, máu, mủ, đờm, nước miếng, nước tiểu, phân v.v…”.

Đức Phật muốn cho chúng ta thấy được thật tướng của thân thể này, để chúng ta khỏi phải mê lầm về nó. Như quý vị thường thấy, hằng ngày trong thân thể của chúng ta có chín cái lỗ thường chảy ra những đồ bất tịnh hôi tanh. Vì thế, các vị Tổ ví chín cái lỗ này chảy ra những đồ bất tịnh hôi thối gấp mấy lần mùi hôi ở những cống rãnh của thành phố chảy ra. Chín lỗ đó là gì? Hai tai chảy ra ráy, hai mũi chảy ra nước mũi, miệng chảy ra nước miếng, hai mắt chảy ra ghèn, đường tiểu tiện chảy ra nước tiểu, đường đại tiện thải phân.

Khi chúng ta đi ngang qua những cống rãnh ở thành phố, thì chúng ta cảm thấy thế nào? Thối hay thơm? Thật là thối vô cùng, các cống rãnh đã thối như thế, chư Tổ ví thường ngày thân thể chúng ta chảy ra những đồ bất tịnh hôi thối gấp mấy lần mùi hôi ở cống rãnh.

Chúng ta tu hành thì phải thấy được thật tướng của thân thể này là vô thường, là giả tạm, là bất tịnh. Khi chúng ta nhận chân được thực tướng rồi, chúng ta không dại gì làm nô lệ cho nó nữa, mà chúng ta chỉ biết mượn nó làm phương tiện để tu tập. Cho nên chúng ta không khổ vì nó. Còn ngược lại, đối với những người không nhận chân được thực tướng của thân thể này là bất tịnh, là vô thường, là giả có, thì người ta cứ mải mê làm nô lệ cho cái thân này hoài. Cứ cho thân này là có thật, là trong sạch, người ta cứ vỗ béo, ăn cho ngon, mặc cho đẹp, đánh phấn son cho cái thân này, chải chuốt cho cái thân này, không ngờ họ đã đánh phấn son, vỗ béo, chải chuốt cho bọc da hôi thối mà họ không hay không biết, thật là đáng thương tâm cho họ.

Trong cuốn Sa Di Luật Giải, đức Phật dạy: “Cái khổ của con lừa, con lạc đà chở nặng, cái khổ của những kẻ trôi lăn trong sinh tử luân hồi chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi ấy mới gọi là khổ”.

Tại sao đức Phật nói cái chở nặng của con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chưa gọi là khổ? Là bởi vì con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chỉ khổ một đời thôi, còn đối với những người ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi thì họ sẽ bị trôi lăn mãi mãi trong vòng sinh tử luân hồi mà không khi nào ra khỏi.

Đạo Phật chúng ta cho thân này là vô thường, là giả hợp, là bất tịnh, hiểu như vậy có phải một cách yếm thế hay không? Thưa là không phải. Nhờ chúng ta biết được thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có cho nên ngày nào còn sống thì ngày đó ta nên sống đẹp và sống tốt, làm lợi ích cho mọi người.

Chúng ta không nên hiểu một cách yếm thế, cho thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có rồi chúng ta chán đời, ưng làm gì thì làm, bỏ bê thân này, chích xì ke, ma túy, quấy phá xã hội. Những ai mà hiểu như vậy hoàn toàn sai lệch với ý của chư Phật dạy. Chúng ta là những Phật tử đã hiểu đạo, thì phải luôn tỉnh thức sự sống chết đến với chúng ta rất mau, cái chết nó không hẹn một ai hết, nó đến với chúng ta một cách bất đắc kỳ tử.

Có khi nào cái chết đến với chúng ta mà ta hẹn là cho tôi sống thêm khoảng 5, 6 ngày nữa rồi tôi chết, không bao giờ có hẹn như vậy được.

Bình nhật thường ngày chúng ta cũng đã từng chứng kiến biết bao nhiêu là sự chết chóc của mọi người, có người thì chết trẻ, có người thì chết già v.v…, đã từng chứng kiến như vậy mà tại sao chúng ta không chịu giác ngộ để sớm tu hành, còn đợi đến chừng nào nữa đây. Chúng ta nên biết rằng: mỗi khi đánh mất thân người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được. Cho nên chúng ta phải thương mình lo tu hành đi, đừng có ham gì bả danh lợi giả tạm của thế gian.

Kinh Tạp A Hàm, đức Phật đưa ra bốn hình ảnh con ngựa để ví dụ bốn hạng người như sau:

- Con ngựa thứ nhất chỉ thấy bóng roi đã chạy.

- Con ngựa thứ hai, nhịp roi lên lưng mới chạy.

- Con ngựa thứ ba, đánh cho thật đau mới chạy.

- Con ngựa thứ tư, đánh chết bỏ, lúc lắc chớ không chịu chạy.

Qua hình ảnh bốn con ngựa, đức Phật chỉ rõ cho chúng ta thấy được bốn hạng người:

- Hạng người thứ nhất, chỉ nghe tiếng đồn có người chết là giác ngộ tu ngay.

- Hạng người thứ hai, chỉ chứng kiến một người chết thôi là giác ngộ tu liền.

- Hạng người thứ ba, đã chứng kiến khoảng 1, 2, 3 người chết, lúc đó mới chịu tu.

- Hạng người thứ tư, tuy đã chứng kiến vô số người chết mà không hề nhúc nhích, họ cứ cho là cái chết của người ta chớ đâu phải cái chết của mình.

Qua bốn con ngựa trên, đa số chúng ta rơi vào con ngựa thứ tư, ít có ai mà rơi vào con ngựa thứ nhất, hai, ba.

Vậy, chúng ta sớm tỉnh giác, thân mạng của chúng ta vô thường, ngắn ngủi, thật chi là trống vắng không có gì là chắc đâu.

Cho dù làm vua, làm quan đi nữa, khi chết cũng để lại đống tro nhơ mà thôi. Như chúng ta đã biết, sống lâu như ông Bành Tổ là 800 năm, nay đâu còn, giàu sang như Vương Khải, Thạch Sùng rồi cũng xuôi tay mà thôi.

“Bao bì cốt nhục nung huân huyết

Cưỡng tác kiều yêu cuống hoặc nhân,

Thiên cổ anh hùng giai nhân tận

Bách niên đồng tác nhất khanh trần”.

Nghĩa là:

“Máu mủ thịt xương một túi nhơ

Tô điểm chi mong gạt tình hờ

Vạn thuở anh hùng giai nhân tận

Trăm năm để lại đống tro nhơ”.

Chúng ta đã hiểu rõ được thật tướng của thân thể mình rồi. Ngày nào còn sống thì chúng ta phải tinh tấn tu hành ngày đó, chớ đừng hẹn lần hẹn lữa. Chớ để cơn vô thường đến cướp ta đi thì trăm nghìn muôn kiếp không có cơ hội để tu.

Ngày xưa các vị Tổ trong lúc tu hành các Ngài thường luôn để ý đến sự vô thường và luôn xem sinh tử là sự đại. Khi một ngày trôi qua, các vị Tổ thường than rằng: “Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi mà ta chưa làm được gì cả!”. Quý Ngài rất quý thời gian tu vô cùng. Để cho sự tu tập một cách nghiêm mật, các vị Tổ làm một cái hòm nhỏ để bên gối nằm. Khi nào các Ngài cũng liếc mắt nhìn cái hòm, ám chỉ là cái chết kề cạnh bên ta, chỉ cần sơ suất một chút thôi là ta nhảy vào đó liền. Chính cái hòm nhỏ này có một tác dụng lớn lao, nhờ nó mà giúp cho các vị Tổ tinh tấn tu hành một cách nghiêm mật, không bao giờ xao lãng.

Như chúng ta đã biết, trong kinh công phu chiều có đoạn:

“Thị nhật dĩ quá,

Mạng diệc tùy giảm

Như thiểu thủy ngư

Tư hữu hà lạc

Đại chúng đương cần tinh tấn

Như cứu đầu nhiên

Đản niệm vô thường

Thận vật phóng dật”.

Nghĩa:

“Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi,

Mạng sống theo đó mà giảm dần

Như cá ở ao cạn nước

Có gì vui đâu

Đại chúng nên cần tinh tấn

Như cứu lửa cháy trên đầu

Luôn nhớ nghĩ vô thường

Chớ nên phóng dật”.

Chúng ta sống cao nhất là khoảng 50 tuổi đến 100 tuổi, đây là số tượng trưng thôi, cũng có người 1 tuổi chết, có người sống đến 10 tuổi chết, có người sống 20, 30 tuổi… là chết.

Ví dụ tuổi thọ của chúng ta là 50 tuổi, cứ một ngày trôi qua thì tuổi thọ giảm còn lại 49 tuổi, cứ như thế mà giảm dần, cho đến khi ta mất mạng. Tục ngữ có câu: “Nước chảy đá mòn”, cũng giống như cá ở ao mà cạn nước, như chúng ta đã từng thấy trong các ao hồ, cứ mỗi ngày mặt trời lên, thì nước trong ao hồ đều bốc hơi, nước cứ mỗi lần bốc hơi như vậy làm cho nước ở ao hồ cạn dần, thì mạng sống của những con cá ở trong đó cũng theo đó mà giảm dần.

Qua bài thơ trên đây, cho chúng ta thấy được mạng sống của kiếp người thật là ngắn ngủi, thật là trống vắng vô cùng. Vì vậy, chúng ta nên sớm tỉnh ngộ đến sự vô thường, xem sinh tử là việc lớn mà một lòng siêng năng, tinh tấn, gấp rút tu hành, chớ nên buông lung giải đãi mà bỏ phí qua một kiếp người thật là oan uổng vô cùng.

Chúng ta phải luôn tỉnh giác, gấp rút tu hành như hình ảnh cứu lửa cháy trên đầu.

Có khi nào lửa đang cháy trên đầu mà chúng ta hẹn là hãy đợi tôi một hai phút rồi tôi dập tắt sau. Không bao giờ hẹn được, lửa vừa cháy là chúng ta nhanh chóng dập tắt liền, còn nếu chậm trễ một chút thôi thì nó thiêu đốt chúng ta ngay. Cũng vậy, qua hình ảnh này ngụ ý cho ta thấy được: nếu chúng ta không chịu gấp rút tu hành thì quỷ vô thường đến cướp ta ngay. Lúc này, cho dù chúng ta than van, kêu trời kêu đất, cầu khẩn một cách tha thiết đi nữa thì cũng đã muộn màng lắm rồi. Cổ đức dạy rằng: “Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, quỷ sứ đòi khóc một khóc hai”, hay là: “Mạc đãi lão lai phương niệm Phật, cô phần đa thị thiếu niên nhân”, nghĩa là: chớ để tuổi già mới niệm Phật, mồ hoang lắm kẻ tuổi còn xanh. Vì vậy, chúng ta nên sớm giác ngộ vô thường mà gấp rút tu hành, chớ đừng để luống qua một kiếp người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được. Chúng ta đã hiểu như thế nào là vô thường, cũng đã thấy rõ được thật tướng của thân thể mình, thì chúng ta phải sống như thế nào đây, để chuẩn bị cho ngày ra đi của mình một cách êm đẹp. Phải hiểu rằng, chúng ta sống hôm nay là để chuẩn bị cho ngày ra đi, chớ ta không nên ham sống mà bỏ quên đi ngày nhắm mắt xuôi tay, đây là điều tối quan trọng, chúng ta nên nhớ mãi.

Sống như thế nào để trở thành một người lương thiện có đạo đức, có tu tập. Trước hết, chúng ta phải nên quy y Tam bảo.

Theo tư tưởng của kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Muốn sinh về Cực lạc, phải tu ba phước:

- Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành.

- Thọ trì Tam quy, giữ kỹ các giới, không phạm oai nghi.

- Phát lòng Bồ đề, tin lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành”.

Ba thứ phước này là chánh nhân Tịnh nghiệp của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Đây là nói về dùng phước lực để vãng sinh.



Kinh Sách Liên Quan

 
1.    Khuyên Người niệm Phật cầu sinh tịnh độ, Chu An Sĩ | Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến, Việt Dịch
2.    Kinh Điển Y Cứ Của Pháp Tu Tịnh Độ Và Các Nhân Vật Tiêu Biểu Thực Hành Pháp Tu Tịnh Độ, Nguyễn Tiến Sơn
3.    Kinh Thần Chú Bát Cát Tường, Khuyết Danh | Thích Nguyên Lộc, Việt Dịch
4.    Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
5.    Lá Thư Tịnh Độ, Đại Lão Hòa Thượng Thích Ấn Quang | Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Việt Dịch
6.    Long Thư Tịnh Độ, Vương Nhựt Hưu | Đại Lão Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Việt Dịch
7.    Luận Sử Tông Tịnh Độ, Hòa Thượng Thích Đổng Minh | Nhiều Dịch Giả, Việt Dịch
8.    Luận Tịnh Độ, Đời Đường, Thích Ca Tài ở chùa Hoằng Pháp Kinh đô | Giới Niệm - Diệu Thảo - Chúc Đức, Việt Dịch
9.    Lược Luận Về Nghĩa An Lạc Tịnh Độ, Nguyên Ngụy Huyền Trung Tự sa-môn Đàm Loan | Sa Môn Thích Bửu Hà, Việt Dịch
10.    Nghi Thức Tịnh Độ, Khuyết Danh, Việt Dịch
11.    Ngũ Kinh Tịnh Độ, Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Việt Dịch
12.    Niệm Phật Sinh Tịnh Độ, Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm | Thượng Tọa Thích Chân Tính, Việt Dịch
13.    Pháp Môn Hạnh Phúc, Đại Lão Hòa Thượng Thích Tinh Vân | Nguyên Phố, Việt Dịch
14.    Pháp Môn Tịnh Độ, Hòa Thượng Thích Trí Thủ
15.    Phật Giáo Nhân Gian Của Pháp Môn Tịnh Độ, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Minh Chánh, Việt Dịch
16.    Phật Giáo Và Cuộc Sống, Đại Sư Thích Ấn Thuận | Thượng Tọa Thích Hạnh Bình, Việt Dịch
17.    Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký, Cư Sĩ Lưu Thừa Phù | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
18.    Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Diệu Âm, Việt Dịch
19.    Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Tam Tạng Cương Lương Da Xá Gốc Người Tây Vực | Cư Sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Việt Dịch
20.    Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Ký, Lão cư sĩ Từ Tỉnh Dân | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch