Skip Navigation LinksHome > Học Phật > Tự Điển Phật Học

Tự Điển Phật Học

A Á Â Ă B C D Đ E É È Ê G H I Í J K L M N O Ó Ô Ơ P Q R S T U Ú Ù Ư V W X Y Ý

Pháp Hoa Bát Giảng


(法華八講) Cũng gọi Ngự bát giảng hội, Ngự bát giảng. Gọi tắt: Bát giảng. Tiếng dùng của Phật giáo Nhật bản. Chỉ cho pháp hội giảng diễn cúng dường kinh Pháp hoa. Bộ kinh Pháp hoa có 8 quyển, được chia ra 8 tòa giảng thuyết, mỗi tòa giảng thuyết một quyển, vì thế gọi là Pháp hoa bát giảng. Loại pháp hội này có nguồn gốc tại Trung quốc, sau thịnh hành ở Nhật bản. Cứ theo truyện Tuệ minh đời Đường trong Pháp hoa truyện kí quyển 3 (Đại 51, 58 trung) ghi: Người trời nói: Tôi muốn trở về cõi trời gấp, xin sư hãy chia bộ kinh ra giảng làm 8 lần. Ngài Tuệ minh nói: Trì tụng 7 quyển thì chia làm 7 tòa giảng, cần gì phải chia làm tám? Người trời đáp: Đức Phật nói kinh Pháp hoa trong 8 năm, nếu giảng 8 năm thì lâu quá. Tôi muốn mở 8 tòa giảng coi như là nói 8 năm, như vậy có thể tóm lược ý chỉ của Phật. Ngài Tuệ minh chấp nhận, bèn chia 7 quyển kinh làm 8 hội giảng. Đó là nguồn gốc của việc chia kinh Pháp hoa làm 8 hội để giảng. Ngoài ra, tại Nhật bản, có nơi thêm kinh Vô lượng nghĩa vào phần mở đầu và kinh Quán phổ hiền vào phần kết thúc của 8 quyển kinh Pháp hoa mà chia làm 10 tòa để giảng thuyết, gọi là Pháp hoa thập giảng. Cũng có khi thêm kinh Vô lượng nghĩa và kinh Quán phổ hiền vào 28 phẩm kinh Pháp hoa, rồi mỗi ngày giảng 1 phẩm thành 30 hội giảng, gọi là Pháp hoa tam thập giảng; hoặc cũng có ngày giảng 2 phẩm. Những pháp hội này đều gọi là Pháp hoa hội, Pháp hoa vấn đáp giảng. [X. Duệ sơn đại sư truyện, Nhật bản kỉ lược hậu thiên Q.13, Phù tang lược kí Q.23, 26, 29; Nguyên hanh thích thư Q.2; Thất đại tự niên biểu].