Người học Phật Pháp cần phải luôn luôn thành thật dụng công mà tu hành, như hai chân đứng vững trên mặt đất (cước đạp thực địa), không được mưu đồ hư danh. Ham thích hư danh thì chẳng ích lợi gì cho việc tu Ðạo. Muốn làm những việc "hữu thực vô danh" thì không được tham cầu chuyện "hữu danh vô thực"; nghĩa là không tham cầu cái danh giả dối, có tiếng mà không có miếng. Còn như làm những việc chân thật được biểu hiện ra ngoài thì được gọi là "hữu thực vô danh"! Các vị đừng nên tham cầu cái hư danh; mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều phải chân thật. Lòng tâm chân thật, làm việc chân thật....
Đọc Tiếp
|
Nói về khoảng thời gian chúng ta ở tại thế, nó qua nhanh chỉ trong nháy mắt. Vậy mà không ai buông xả được, cứ ôm cứng lấy, chấp đông chấp tây, coi thế giới này là chân thực, từ đó mà ra công tranh danh đoạt lợi, quẩn quanh hoài trong vòng lợi danh, vì lợi danh mà làm những hành vi điên đảo, trái lương tâm. Kết quả tối hậu cũng chỉ là vì danh mà chết với danh, vì lợi mà chết với lợi. Một đời, tôi tranh anh đoạt, vì lợi danh mà quay cuồng điên đảo, nguyên nhân là sao vậy ? Bởi vì người ta chưa nhận thức được ba độc là tham sân si. Loại độc này còn ghê gớm hơn bội phần các thứ thuốc độc khác.....
Đọc Tiếp
|
Tôi muốn nhắn nhủ bạn đọc hãy cẩn thận đừng tạo ác mà hãy chuyên hành thiện.
Đọc Tiếp
|
Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Nhưng tại sao phải chia ra nhiều pháp môn như vậy? Căn tánh mỗi người không giống nhau, sở thích không giống nhau, hứng thú không giống nhau, lại còn thiện căn khác nhau, trình độ khác nhau, nhất định phải lựa chọn pháp môn phù hợp điều kiện của bản thân, thì học mới thuận lợi. Nhất đinh phải tôn trọng những pháp môn ta không học, vì sao vậy? Đều là lời Phật dạy. Nếu như nói pháp môn tôi là số một, pháp môn khác không được, coi thường người khác, như vậy gọi là đại bất kính, đại bất hiếu. Quí vị khinh thường người khác, chính là khinh thường Phật Thích....
Đọc Tiếp
|
Quý vị đừng nên biết quá nhiều chuyện, biết nhiều sẽ lắm phiền não! “Thức nhân đa xứ, thị phi đa”(biết nhiều người, thị phi càng lắm). Quý vị quen biết nhiều người, thị phi sẽ nhiều. Người chẳng bắt buộc phải quen biết thì chẳng cần thiết, biết họ vô ích! Như vậy thì mới có thể thường giữ gìn cái tâm thanh tịnh của quý vị. Nay quý vị thật sự muốn gìn giữ cái tâm thanh tịnh, nói cách khác, quý vị đừng coi TV, đừng nên nghe radio, đừng đọc báo chí, tâm bèn thanh tịnh. Suốt ngày hôm nay, chuyện gì cũng đều chẳng có, thiên hạ thái bình, tâm rất thanh tịnh, rất tự tại. Hễ quý vị xem những thứ ấy,....
Đọc Tiếp
|
Nếu bạn muốn thân thể khỏe mạnh thì phải hết sức cẩn thận khi ăn thức ăn. Nếu bạn muốn cả đời bình an, thì lời nói của bạn phải cẩn thận, quyết định không nên tổn người, quyết định không nên tạo ác nghiệp. Phải giữ lấy không vọng ngữ, không vọng ngữ thì có lợi ích lớn đối với chính mình. Không hai lưỡi, quyết không nên khiêu khích phải quấy, cho dù xem thấy có những sự việc không đúng pháp, chúng ta không chân thật hiểu rõ chân tướng sự thật thì không được tùy tiện mà nói ra. Nhất định phải đem chân tướng sự thật làm cho rõ ràng, đáng nên nói thế nào thì mới nên nói như thế đó. Chúng ta là....
Đọc Tiếp
|
Trong kinh giáo đại thừa, Phật nói ba nghiệp đều là nói thân, khẩu, ý, nhưng ở bổn kinh này Phật lại nói là khẩu, thân, ý. Đem khẩu nghiệp để thứ nhất, đây là có ý nghĩa đặc biệt. Vì sao? Vì khẩu nghiệp rất dễ dàng phạm. Cho nên khẩu nghiệp có tới bốn điều, còn thân nghiệp chỉ có ba điều, ý nghiệp cũng là ba điều, nhưng khẩu là bốn điều. Chính vì khẩu nghiệp rất dễ dàng phạm nên người học Phật, người niệm Phật, công đức đã niệm đều từ trong miệng lưu xuất ra, nhưng nếu vẫn không thể bao dung, không thể dung nhẫn, ưa thích phê bình, thì niệm Phật cả đời vẫn không thể vãng sanh.
Đọc Tiếp
|
phạm mà bản thân họ lại không biết. Cho nên thiện hộ tam nghiệp đầu tiên là khẩu nghiệp, “thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá”. Người khác phạm lỗi tí ti liền ác ý phê phán, quá đáng lắm. Không có lỗi lầm liền đặt ra lời đồn, đó là tội càng nặng hơn nữa. Cổ nhân nói rất hay: “oan gia nên giải không nên kết”, trong đời này không kết oán với người khác. Bất luận họ phạm tội lỗi gì thì đó đều là việc rất bình thường thôi. Cho nên chúng ta nhất định phải đầy đủ điều kiện Phật A Di Đà cho chúng ta. Điều kiện này là tin thật nguyện thiết, chân niệm Phật!
Đọc Tiếp
|
Bịnh trầm kha của con người là thích tìm tòi những giải đáp thắc mắc cao siêu để thỏa mãn óc hiếu kỳ mà thiếu thực tế với đời sống, thích luận bàn những việc xa vời viễn vong không tưởng hơn là thực hành để đem lại an lành hạnh phúc bản thân. Chứng bịnh trầm kha nầy đã đẩy con người sống chơi vơi trong huyền đàm phiếm luận của thiết thực đến đời sống đạo đức tiến bộ. Vì vậy số người mang danh hành đạo thì nhiều mà chứng đạo thì gần như gợn mây mỏng trong bầu trời giáo pháp. Để tránh mắc phải bịnh năng thuyết bất năng hành, cổ đức đã khuyên: Muốn đạt thành tâm nguyện tiến bộ thì cần phải “tri....
Đọc Tiếp
|
Thật Hiền tôi, một kẻ xuất gia phàm phu, đã bất tiếu lại ngu hèn, khóc mà lạy, khẩn thiết khuyến cáo đại chúng hiện tiền, cũng như nam nữ có đức tin thuần thành trong thì vị lai. Xin quý vị thương xót, gia tâm một chút mà nghe và xét cho.
Tôi từng nghe, cửa chính yếu để nhập đạo thì sự phát tâm đứng đầu, việc khẩn cấp để tu hành thì sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập thì chúng sanh độ nổi, tâm phát thì Phật đạo thành được. Cái tâm quảng đại không phát, cái nguyện kiên cố chẳng lập, thì dẫu trải qua đời kiếp nhiều như cát bụi, cũng y nhiên vẫn ở trong phạm vi luân hồi. Tu hành dẫu có, cũng....
Đọc Tiếp
|
Ngày nay, người học Phật không tin và cũng không chịu tiếp nhận kinh Phật nữa, họ chỉ thích nghe những lời dụ hoặc của người thế gian. Cho nên, dù họ cũng tu Phật pháp, nhưng chẳng thể thực hành đúng theo pháp lý mà Phật đã chỉ dạy. Sự thật ấy đã phơi bày rõ ràng, Phật pháp ngày nay đang đi đến chỗ tận diệt đúng như lời Đức Phật đã cảnh báo trong Phẩm Như Nghèo Ðặng Của Báu của kinh Vô Lượng Thọ: “Ta vào Niết-bàn, kinh đạo lần diệt, nhân dân tà ngụy lại làm điều ác, năm thiêu năm khổ lâu sau càng nguy. Các ông thay nhau, khuyên lơn nhắc nhở, y kinh pháp Phật, chớ nên trái phạm.”
Đọc Tiếp
|
Mười Niệm Tất Vãng Sanh
| Dịch Giả : Diệu Âm Trí Thành
3/8/2023
| Xem 39
Nguyện thứ 18 của Phật A Di là: “Lúc con làm Phật, chúng sanh mười phương, nghe danh hiệu con, chí tâm tin vui, có được căn lành, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh nước con, cho đến Mười Niệm, nếu không được sanh, con thề quyết không giữ ngôi Chánh Giác, duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.” Thế nào gọi là “Mười Niệm Tất Vãng Sanh”? Chữ “niệm” ở đây là chỉ cho xưng câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Ðà Phật.” Ðọc hết sáu chữ ấy một lần là một niệm, đọc hết mười lần là mười niệm. Câu “cho đến Mười Niệm” là nói về mức độ thấp nhất, dẫu chỉ xưng niệm danh hiệu Phật có mười lần cũng được vãng sanh. Còn....
Đọc Tiếp
|
Sám Hối Được Vãng Sinh
| Dịch Giả : Diệu Âm Trí Thành
3/8/2023
| Xem 41
Từ vô thủy đến nay, chúng ta vốn đã tạo ác nghiệp vô lượng vô biên nên kinh Hoa Nghiêm dạy: “Giả sử ác nghiệp có hình tướng thì mười phương hư không cũng chẳng thể chứa đựng được.” Chư Tổ sư Đại đức bảo: Người tu trì nếu chân thành cung kính, không dối trá thì có thể chuyển hóa được ác nghiệp của mình; chuyển quả báo nặng nề lẽ ra phải lãnh chịu trong đời sau trở thành quả báo nhẹ trong đời này.
Con mắt thịt của phàm phu chúng ta chỉ thấy được những sự thực của thiện ác hiện tại, nhưng chẳng thể biết nhân quả quá khứ và vị lai như thế nào? Chúng ta lại không có tha tâm đạo nhãn, nên cũng....
Đọc Tiếp
|
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trước khi Phật chỉ bày phương pháp tu hành để loại trừ vọng tâm sanh diệt, tức là cội nguồn của sanh tử khổ đau mà thấy được Chân tâm thường trú, Phật gạn hỏi ông A Nan đến bảy lần về bản tâm. Ông A Nan tuy theo chân đức Phật suốt hai mươi lăm năm và được Phật khen ngợi là đệ tử đa văn bậc nhất, nhưng ông chỉ thích học rộng nghe nhiều, tuy ông A Nan có thu tóm cả biển Phật pháp trong tâm, nhưng do ông không chịu tu chứng Thánh quả, nên tâm của ông chưa được thanh tịnh, rỗng rang như các vị A la hán, những bậc đã phá được tâm chấp ngã, chấp tướng. Bởi tâm của ông A....
Đọc Tiếp
|
Người ta thường nói những câu như là: “Có tiền mua tiên cũng được,” “ăn ngon, ngủ kỷ là tiên trên đời,” “ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật, ở nhà Tây” v.v... Điều đó cho ta thấy, người đời rất coi trọng phước báu nhân gian, ngũ dục lục trần; cho nên cả đời phải làm lụng vất vả để mong sao đạt được những thứ này.
Trong kinh Đức Phật bảo: “Giàu sang, thương muốn không thể bền giữ, phải nên lánh xa, chẳng thể an vui.” Giàu sang, thương muốn chính là ngũ dục lục trần, là cái nhân sanh ra ác đạo và luân hồi sanh tử, nên Phật bảo chúng ta chẳng nên dích mắc vào đó, chỉ phải nên tinh tấn niệm Phật cầu sinh....
Đọc Tiếp
|
Bồ Tát tu bố thí đối với tất cả chúng sanh. Bồ Tát Phổ Hiền không phải tu bố thí, mà Ngài tu cúng dường. Bồ Tát thông thường, người thông thường cũng như vậy, đối với Phật, đối Bồ Tát, đối với trưởng bối thì mới cúng dường, còn đối với đồng bạn, đối với mọi người thông thường thì đều là bố thí. Kỳ thật bố thí và cúng dường chỉ là một việc nhưng tâm thì không như nhau, một là có tâm cung kính, một là không có tâm cung kính. Không có tâm cung kính thì là bố thí, có tâm cung kính thì là cúng dường. Tâm cung kính không đạt đến được tiêu chuẩn của Phổ Hiền vẫn gọi là bố thí, vẫn không phải là cúng....
Đọc Tiếp
|
Nhớ chúng sanh khổ thì lòng đại bi của chính chúng ta mới có thể sanh khởi ra được. Bạn xem thấy những chúng sanh khổ nạn, bạn muốn giúp đỡ họ thì bạn không thể không chăm chỉ nỗ lực tu học. Nếu như không thể thành tựu đức hạnh của chính mình, không thể thành tựu học vấn của chính mình, không thể thành tựu năng lực của chính mình thì bạn làm sao đi giúp người? Cho nên hy vọng các vị đồng tu phải nhìn thấy chúng sanh khổ nạn trên toàn thế giới, vì những chúng sanh khổ nạn này, chúng ta phải vùi đầu kham khổ mà làm, phải cố gắng nỗ lực tinh tấn, hy vọng chúng ta sớm một ngày thành tựu thì những....
Đọc Tiếp
|
Trước hết là lợi ích về sức khỏe. Lạy Phật là một động tác dưỡng sinh rất tuyệt vời, nó giúp ta vận động toàn bộ cơ thể, nó giúp cho máu huyết được điều hoà, bệnh tật khó xâm nhập cơ thể, nhờ lạy Phật thường xuyên, những bệnh đã có sẽ được tiêu trừ, những bệnh chưa sanh thì khó có cơ hội phát sanh. Việc lạy Phật còn giúp ta tiêu diệt bệnh hôn trầm, giúp cho tinh thần ta sảng khoái. Sau mỗi thời lạy Phật, cơ thể ta như khỏe mạnh thêm ra. Ai lạy Phật đều đặn, thường xuyên thì sẽ có một cơ thể rất rắn rỏi, dẻo dai, cân đối. Nếu việc lạy Phật chỉ có những lợi ích này thôi thì cũng đáng cho ta lạy....
Đọc Tiếp
|
Góp phần bàn luận về ý nghĩa cầu siêu trong Phật giáo, nay xin dẫn Tương ưng bộ kinh (Saṃyutta Nikāya), phẩm Tương ưng thôn trưởng để phân tích về vấn đề này.
Nguyên văn:
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba.
Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn trú đất phương Tây, mang theo bình nước, đeo vòng hoa huệ (sevāla), nhờ nước được thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một người đã chết, đã mệnh chung, họ nhắc bổng và mang vị ấy....
Đọc Tiếp
|
Tu đà hoàn là quả vị của những chúng sanh phàm phu bắt đầu nhập vào hay dự vào dòng Thánh đạo nên bắt buộc hành giả phải đi ngược dòng sanh tử; do đó, đức Đạo sư gọi bước đi của họ là nghịch lưu, có nghĩa là đi ngược dòng sinh tử để đi đến Thánh đạo, tức là hành giả muốn đạt được quả vị này phải đoạn trừ sạch Kiến hoặc ba cõi (một trong ba hoặc của vô minh là kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc). Tư đà hàm là quả vị của những hành giả dục giới cùng cõi trời Dục lúc đã đoạn trừ được tư hoặc sáu phẩm trước trong chín địa của dục giới và chỉ còn một lần sanh trở lại nhân gian nữa, cho nên cũng gọi....
Đọc Tiếp
|
1. Nam mô Phổ Quang Phật (Samanta-prabha Buddha)
Nam Mô (Namo) là Quy mệnh xưng lễ
Phật (Buddha) là một trong mười Hiệu
Phổ Quang (Samanta-prabha) là tên riêng của Đức Phật, đều có xưng, cho nên phần sau đều dựa theo điều này.
Nói Phổ Quang: Ấy là Hóa Thân trăm ức, ánh sáng chiếu soi Đại Thiên
2. Nam mô Phổ Minh Phật (Samanta-prabhāsa Buddha)
Phổ Minh (Samantābhāsa): ấy là tướng tốt đẹp của Báo Thân tướng tốt đẹp phóng vô biên ánh sáng, sáng tỏ như mặt trời sáng rực.
Đọc Tiếp
|
Cả cuộc đời của tôi, hầu như ai cũng nghĩ rằng tôi có rất nhiều tiền, nhưng không đâu, thật ra tôi luôn lấy thanh bần làm chí hướng. Thuở nhỏ, gia cảnh tôi nghèo xơ nghèo xác, nhưng lạ lùng thay, thay vì nghĩ rằng mình là đứa trẻ nghèo khó thì trong tâm trí tôi lại cảm thấy mình cực kỳ giàu có và đầy đủ. Đến khi già yếu rồi, đại chúng đều nghĩ rằng tôi rất sung túc, có biết bao nhiêu thứ từ trường lớp, nhà xuất bản, bằng cấp học vị cho đến thành lập các tổ chức, hội, quỹ, v.v… Tuy vậy, riêng tôi luôn rõ biết rằng bản thân mình hoàn toàn trắng tay, bởi vì tất cả mọi thứ đều thuộc về mười phương....
Đọc Tiếp
|
Lớn lên, thái tử thông minh xuất chúng, văn võ toàn tài, không ai sánh kịp. Vua Tịnh Phạn không thể giữ Ngài lại với cuộc sống nhung lụa, với ngôi báu quyền uy tột đỉnh. Công chúa Gia Du Đà La cũng không ngăn được bước chân Ngài hướng về con đường giải thoát.
Trải qua 5 năm tìm đạo, 6 năm khổ hạnh ở chốn rừng sâu, không giúp Ngài tìm thấy chân lý. Ngài từ bỏ tất cả pháp tu sai lầm của ngoại đạo. Ngài tham thiền dưới cội bồ-đề liên tục trong 49 ngày và đắc quả Vô thượng Bồ-đề, trở thành bậc Toàn trí Toàn giác.
Đọc Tiếp
|
Đàn Dược Sư về hình thức giống nhau, nhưng kết quả thì khác nhau ở chỗ chúng ta làm đúng hoàn toàn, hay đúng phân nửa, hoặc chỉ đúng một phần, hay là sai. Vì vậy, việc cầu nguyện có kết quả hay không tùy ở người dự đàn, tùy ở cách tổ chức đàn. Điều quan trọng này tôi muốn lưu ý các Phật tử. Đàn Dược Sư tổ chức đúng thì phải kết nối được với mười phương Phật, nhất là từ thế giới Ta-bà này đến thế giới Tịnh Lưu Ly ở phương Đông cách xa mười muôn ức Phật độ mới gặp được Đức Phật Dược Sư. Như vậy, Phật Dược Sư cách chúng ta quá xa, phải trải qua 7 vòng thế giới khác mà chúng ta thường thờ 7 Phật....
Đọc Tiếp
|
Đức Phật dạy chúng ta chuyển nghiệp là tu, vì con người khổ hay vui đều do nghiệp quyết định, không phải thần linh quyết định. Vì vậy, Phật giáo chủ trương thực tập giáo pháp để chuyển đổi được ác nghiệp thành thiện nghiệp là chúng ta tự thay đổi được cuộc đời mình trở thành tốt đẹp. Còn người không biết chuyển nghiệp thì cuộc sống tốt của họ lần trở nên xấu.
Nghiệp tốt nghĩa là đời trước mình đã biết tu, nên tạo được thiện nghiệp; nhờ vậy, đời này mình được sanh làm người. Thật vậy, rất khó có được thân người, trong các loài hữu tình, phải có phước lớn mới sanh làm người, sanh vào các loài....
Đọc Tiếp
|
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… là chỉ cho những bậc cầu đạo, cầu đại giác, bậc có tâm lớn cầu đạo. Bodhi (Bồ-đề), có nghĩa là giác (giác ngộ), là trí (trí tuệ), là đạo. Sattva (tát-đỏa), có nghĩa là chỉ cho chúng sanh, hữu tình. Vậy nguyên ngữ Bodhi-sattva có nghĩa là giác ngộ chúng sanh, hay giác ngộ hữu tình, tức là Bồ-tát trong hiện tại, trên dùng trí cầu Bồ-đề vô thượng; dưới dùng bi hóa độ chúng sanh, hữu....
Đọc Tiếp
|
Hôm nay chúng ta có khóa tu niệm Phật, kèm theo trai đàn chẩn tế bạt độ. Tại sao chúng ta làm như vậy. Khi ta niệm Phật mời gọi tất cả hương linh sanh trên đất nước này và chết trên đất nước này bằng nhiều cách khác nhau. Họ còn nhiều điều bất bình trong lòng nên thường tác động đến người thân còn sống làm cho bất an. Thật vậy, ai cũng có bà con quyến thuộc chết oan ức tác động người sống khiến cho bất an; cho nên việc quan trọng chúng ta muốn giải oan khiên này, mới tổ chức trai đàn bạt độ, lấy pháp môn Tịnh độ để giải oan, chủ yếu làniệm hồng danh Đức Phật A Di Đà.
Đọc Tiếp
|
Theo Trí Giả đại sư, Bổn môn Pháp hoa kinh gồm phẩm thứ 15 đến phẩm thứ 28. Theo Ngài Nhật Liên, Bổn môn Pháp hoa gồm nửa phẩm 15, nửa phẩm 17 và một phẩm 16.
Nhưng tôi thấy cách phân chia như vậy hơi khó hiểu nên tôi đã biên soạn Bổn môn Pháp hoa kinh bằng tâm, bằng độ cảm do tôi trì tụng Pháp hoa, trực nhận được nghĩa lý kinh này và gặt hái được kết quả tốt đẹp trên bước đường hành đạo của mình.
Tuy nhiên, cứ coi pháp Phật như ngón tay chỉ mặt trăng thì dù là pháp chân thật chăng nữa cũng vẫn là phương tiện giúp chúng ta chứng ngộ yếu lý mà Phật dạy, chứ không phải là lý thuyết suông.....
Đọc Tiếp
|
Trong phẩm 16, khởi đầu Phật gọi Di Lặc Bồ-tát và 8.000 hằng sa Bồ-tát nghe pháp. Điều này chúng ta phải tự nâng cái thấy của mình lên để cảm nhận được điều Phật nói rằng Trời, Người, A-tu-la là chúng sanh còn trong sáu đường sinh tử, chúng ta chưa đắc quả vị nào, là phàm tăng, nên chúng ta sẽ thấy Phật như con người bình thường. Nghĩa là Trời, Người, A-tu-la thấy Phật xuất thân từ dòng họ Thích, đến cội bồ-đề gần thành Già Da mà thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Phật này là của loài người, chư thiên, quỷ thần, nói chung là bát bộ chúng còn trong sáu đường sinh tử thấy Phật như vậy.
Đọc Tiếp
|
Kết thúc danh hiệu Phật trong phần Hồng danh sám hối là Pháp giới tạng thân A Di Đà Phật. A Di Đà nghĩa là vô lượng quang, vô lượng công đức và vô lượng thọ. Vô lượng quang tiêu biểu cho trí tuệ. Vô lượng thọ tiêu biểu cho thọ mạng vô cùng. Vô lượng công đức tiêu biểu cho phước đức đầy đủ. Đức Phật A Di Đà có đủ ba điều tốt đẹp tuyệt đỉnh như vậy, Ngài mới kiến tạo được thế giới an lành, chỉ toàn là niềm hỷ lạc cao tột, nên gọi là Cực lạc.
Từ công đức vô lượng mà Phật nhìn lại cuộc đời, Ngài nhận thấy con người trên thế gian này, đa số chỉ nghĩ làm sao có nhiều tiền, được sống lâu, được địa....
Đọc Tiếp
|
Lễ cầu an là truyền thống của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ ngày mùng một Tết vía Đức Di Lặc kéo dài suốt tháng Giêng, Phật tử thường đi hành hương trẩy hội. Tuy nhiên, muốn cho lễ cầu an được thể hiện đúng ý nghĩa, mang lại kết quả tốt đẹp, quý Phật tử cần phải cân nhắc việc làm này.
Riêng tôi có một số kinh nghiệm về việc hành lễ cầu an đầu năm để tìm được sự an lạc cho chính mình và ảnh hưởng sự an lành đó cho những người hữu duyên. Tôi muốn chia sẻ những thành quả này với hội chúng để tất cả chúng ta cùng thực hiện và đạt được sự an lạc hoàn toàn trong cuộc sống đúng theo Chánh pháp.
Đọc Tiếp
|
Tu có kết quả theo Thanh văn là chứng được Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Theo Bồ-tát hạnh phải trải qua từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng đến Thập địa, đó là lộ trình tu Phật vẽ ra cho chúng ta, gọi là Tam thừa giáo.
Thanh văn lấy hạnh xuất gia là chính, nhưng Bồ-tát thừa hay Đại thừa nhiếp được cả hai chúng xuất gia và tại gia. Vì vậy, Thanh văn lấy hạnh xuất gia là chính và tính tuổi hạ theo năm tháng tu hành. Nhưng Đại thừa tính từ khi phát tâm tu là Bồ-tát.
Đọc Tiếp
|
Bát chánh đạo là hành pháp thứ bảy trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Hành pháp Bát Chánh Đạo là pháp môn thật tiễn đại biểu đặc trưng tối quan trọng cho những lời dạy của đức Đạo sư trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Vì pháp môn này là một phương pháp chính xác để hành giả hướng đến Niết-bàn giải thoát, là một con đường ngắn nhất đưa hành giả đến chỗ an vui tịch tĩnh, là con đường được Đạo sư nói ra lần đầu tiên sau khi Ngài thành Đạo tại vườn Nai cho năm anh em Kiều Trần Như bạn tu của Ngài trước đó để tránh xa hai thái độ sống cực đoan giữa đau khổ (khổ hạnh) và, khoái lạc (hạnh phúc) đưa hành....
Đọc Tiếp
|
Ngũ căn và ngũ lực là hai hành pháp thứ tư và thứ năm thuộc bảy hành phẩm trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Năm căn và năm lực ở đây thuộc nền tảng căn bản thúc đẩy để từ đó phát sinh ra kết quả tùy thuộc vào tác nhân tạo ra chúng hoặc thiện hoặc ác, hoặc tốt hoặc xấu … Năm căn là nền tảng có khả năng sản sinh và tăng thượng các thiện nghiệp, thì năm lực chính là sức mạnh để chận đứng, triệt tiêu các thế lực vô minh phiền não bất thiện và, tác dụng các khả năng tăng thượng các pháp lành.
Đọc Tiếp
|
Hiện tướng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay, kẻ đó không biết được hòa âm vũ trụ trong trò chơi này. Nói thế không có nghĩa là bản thể vũ trụ ở trong tình trạng phân sáp làm đôi và đối lập nhau; nhưng nó chỉ là một. Tuy thế, về mặt tùy thể, chúng ta nhìn bản thể vũ trụ như là một phức thể, tùy theo kiến giác của mỗi chúng ta. Vì tùy thể này, nói lên được sự hiện hữu của duyên....
Đọc Tiếp
|
Khi thấy người thân sắp chết, do bệnh, già hoặc tai nạn v..v...Người nhà cần phải ở gần bên an ủi 5 điều chính giúp cho họ :
1/ Ðừng sợ chết: vì làm người ai cũng phải chết, và chết không phải là hết, đó chỉ là xả bỏ cái thân già nua, mục nát này mà thôi.
2/ Sanh tâm lìa bỏ, nhàm chán thân tứ đại, già nua, bệnh hoạn, đau đớn, và xem nó như cái áo cũ rách.
3/ Không nên quyến luyến gia đình quyến thuộc, vì sẽ khó ra đi nhẹ nhàng.
4/ Nhắc nhở những điều phước thiện mà họ đã làm trong đời như quy-y, bố thí, cúng dường, giúp đỡ người khác...
5/ Phát tâm nương cầu nơi Đức Phật A Di Ðà và cảnh....
Đọc Tiếp
|
Trong một cuộc thử nghiệm, giáo sư Masaru Emoto đã nhờ 500 người dân sống ở các vùng khác nhau trên nước Nhật tham gia. Vào một thời điểm nhất định được thông báo trước, giáo sư Emoto đặt một ly nước lên bàn rồi yêu cầu mọi người nghĩ đến tình thương và cầu nguyện cho ly nước đó trở nên trong sạch.
Nếu mẫu nước lấy từ vòi nước công cộng bị ô nhiễm ở quận Shinagawa, Tokyo, sau khi được làm đông đặc và chụp hình thì cho thấy tinh thể có dạng "méo mó, kỳ quái". Cũng từ mẫu nước trên, sau khi được 500 người ở những nơi khác nhau cùng chú nguyện bằng tình thương thì ảnh chụp tinh thể nước đá cho....
Đọc Tiếp
|
Luân hồi là một thể tài rất sinh động và rất quan tâm đối với con người. Chết rồi sẽ đi đâu về đâu? Tại sao sinh, rồi tái sinh? Có cõi âm hay không? v.v... Ðó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm của phần lớn nhân loại. Các nền tín ngưỡng và tôn giáo trên thế giới đều có những quan niệm khác nhau về luân hồi. Riêng đối với Phật giáo, luân hồi không phải là một giáo lý đặc thù, cũng không phải là một vấn đề triết học cơ bản, nhưng nó là một sự thật hiển nhiên đối với những con người còn bị trầm luân trong sanh tử khổ đau. Do đó, trong các kinh điển của cả Nam tạng và Bắc tạng đề thảng hoặc đề cập....
Đọc Tiếp
|
Trong truyền thống tu tập Việt Nam, pháp môn Lạy Phật là một pháp môn rất phổ biến được thực tập trong hàng xuất gia cũng như tại gia. Trong các chùa cứ vào những ngày mười bốn và ba mươi âm lịch đều có các buổi lạy Hồng Danh Sám Hối.
Bây giờ tại hải ngoại chúng ta cũng vẫn tiếp tục tu tập theo truyền thống đó. Như thế đủ chứng minh tính mầu nhiệm của pháp môn này.
Đọc Tiếp
|
Giới: Tiếng Phạn Sila, theo nghĩa, dịch là giới. Giới [theo nghĩa hẹp] là những điều cấm chế, có công năng làm cho hành giả đề phòng, chế ngự thân, tâm, không cho phạm vào lỗi lầm (Hán: phòng phi chỉ ác). Giới là tiêu chuẩn quy định đệ tử Phật hành động thế nào là đúng pháp, hành động như thế nào là không đúng pháp.
Giới còn có nghĩa là "mát mẽ (Hán: thanh lương)". Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) giống như cơn lửa phiền não đốt cháy hành giả, còn giới thì có thể dập tắt cơn lửa phiền não, làm cho hành giả mát mẽ, cho nên gọi là "thanh lương".
Giới là bậc thang cho tất cả pháp lành, trong đó có....
Đọc Tiếp
|
Đối với dân tộc Việt Nam, lễ Vu Lan không còn là ngày lễ của riêng Phật giáo nữa mà đã ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng và từ lâu đã trở thành ngày lễ hội chung của nhiều người, dù người đó có theo Phật giáo hay không.
Vu Lan, gọi cho đủ là Vu Lan Bồn, phiên âm từ tiếng Sanskrit là Alambana, hay Avalamba. Người Trung Quốc dịch nghĩa là Giải-đảo-huyền, có nghĩa là giải cái tội treo ngược. Lễ hội Vu Lan khởi nguyên từ việc tôn giả Đại Mục-kiền-liên với lòng hiếu thảo đã cứu mẹ mình thoát ra khỏi cảnh khổ đau của chốn ngạ quỷ tối tăm.
Đọc Tiếp
|
Thành ngữ Việt Nam có câu: “Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó”, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu đề tài ý nghĩa và tác dụng của lễ bái.
Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là lễ? Thế nào là lễ bái?
Lễ, theo Tự điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học Việt Nam, là phép tắc phải tuân theo khi thờ cúng tổ tiên, quỷ thần, hoặc giao tế trong xã hội. Nói một cách rộng rãi dễ hiểu hơn, đây là những quy tắc nhất định của cung cách, đi đứng, nói năng trong Quan, Hôn, Tang, Tế, nhằm thể hiện sự cung kính và bao gồm cả những phép lịch sự chào hỏi nhau để biểu lộ sự thân thiện quen biết. Nó còn là một phương....
Đọc Tiếp
|
Mặt khác, tuy các pháp là như huyễn nhưng vì chúng ta chưa hoàn toàn giác ngộ, bằng chứng là khi đói cần phải có cơm ăn, khi khát cần phải có nước uống nếu không chúng ta sẽ không chịu đựng nỗi, vì vậy chúng ta bắt buộc cần phải làm lành lánh dữ để gặt hái quả báo tốt đẹp và tránh quả báo xấu.
Hơn nữa, khi chúng ta làm ác thì tâm chúng ta sẽ phải chịu nhiều phiền não, khổ đau nên khó phát sanh trí tuệ giải thoát, còn khi chúng ta làm lành thì tâm chúng ta sẽ an vui, thơ thới nên rất dễ phát sanh trí tuệ.
Chính vì vậy, tuy các pháp là như huyễn, không thật nhưng chúng ta vẫn phải luôn....
Đọc Tiếp
|
Các kinh điển thuộc văn hệ A-hàm và Nikàya là những kinh điển được các Thánh đệ tử kết tập bằng trùng tụng và bằng văn bản sớm nhất, sau khi đức Phật Niết-bàn so với các kinh điển thuộc văn hệ Phương đẳng, Bát nhã, Hoa nghiêm, Pháp hoa và Niết-bàn. Ở trong các kinh điển thuộc văn hệ A-hàm và Nikàya ấy, ta có giáo lý nói về Tứ Thánh hướng và Tứ Thánh quả của các hàng đệ tử đức Phật chứng ngộ.
Trong giáo lý ấy nói rằng, Thánh quả A-la-hán là Thánh quả giải thoát cao nhất. Khi một vị tu tập Tứ Thánh đế hiện quán một cách sâu sắc, vị ấy có khả năng chiến thắng và diệt trừ sạch hết thảy các....
Đọc Tiếp
|
Đức Phật là bậc Thầy vĩ đại của Trời và người. Trong kinh có kể, Ngài thường hóa thân lên các cõi trời thuyết giáo cho chư Thiên. Trong pháp hội của Ngài ở thế gian, giữa chúng Tỳ kheo và cư sĩ, thường có chư Thiên hiện diện để bảo hộ Ngài và cùng nghe pháp.
Một lần nọ, Tôn giả Xá Lợi Phất cung kính đảnh lễ Đức Phật Thích Ca và bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Chư Phật khắp mười phương, ở cả ba đời quá khứ - hiện tại - vị lai, không ai có trí tuệ và sự chứng đắc siêu việt bằng Thế Tôn”. Đức Phật Thích Ca trả lời: “Này Xá Lợi Phất, đừng nói quá lời như thế. Tất cả chư Phật đều bình đẳng ở trí tuệ....
Đọc Tiếp
|
Kinh Kim cang là một trong những bản kinh quan trọng và sớm nhất trong kinh điển Phật giáo Đại thừa. Ở đây, chúng ta sẽ trình bày ý nghĩa của đề kinh Kim cang từ nguyên gốc tiếng Phạn và từ được dịch sang tiếng Hán. Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau. Prajñāpāramitā phiên âm tiếng Hán là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nó có khả năng cắt chém như kim cang, hay chính xác: như sấm sét (búa thiên lôi).
Đọc Tiếp
|
Thế nào gọi là tâm Bồ Đề? Chúng ta cần phải nhận biết rõ ràng, tâm Bồ Đề là chân tâm. Ai có tâm Bồ Đề? Bồ Tát mới có tâm Bồ Đề. Ở trong nhà Phật chúng ta, A La Hán vẫn chưa phát tâm Bồ Đề; Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát đều chưa phát tâm Bồ Đề. Nếu tâm Bồ Đề vừa phát thì rất tuyệt! Trên “Kinh Hoa Nghiêm” nói “Pháp Thân Đại Sĩ”. Phía trước đã nói qua với các vị, sáu cõi mười pháp giới là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà ra. Chấp trước không còn thì sáu cõi cũng không còn. Phân biệt không còn thì mười pháp giới cũng không còn. Mười pháp giới không còn thì bạn đến được Pháp Giới Nhất....
Đọc Tiếp
|
Đoạn tương tục tâm chính là đoạn cái tâm liên tục tạo tác tội nghiệp này. Chúng ta sáu căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, thuận với ý của chính mình thì lòng tham liền khởi lên, phiền não liền khởi lên, không thuận với ý của mình thì tâm sân hận liền khởi lên. Tâm này khởi lên thì không nên sợ, thực tế mà nói khởi lên là bình thường, bởi vì chúng ta là phàm phu. Nếu như sáu căn của bạn tiếp xúc cảnh giới mà bạn không khởi tâm không động niệm thì bạn đã là Phật, là Bồ Tát, bạn không phải phàm phu. Người phàm phu ở ngay trong cảnh duyên này nhất định khởi tâm động niệm, cho nên người xưa nói....
Đọc Tiếp
|
Chính mình tạo tác lỗi lầm không nên che giấu, mà phải phát lồ sám hối, “tôi làm sai rồi!”, có dũng khí nói ra cho người khác nghe. Người khác biết rồi trách cứ bạn vài câu, mắng bạn vài tiếng thì tội này của bạn đã báo hết, cho nên gọi là “trọng tội nhẹ báo”. Tốt rồi, tội trả hết, tốt quá! Làm việc thiện thì đừng để người khác biết, vì để người khác biết, người này tán thán bạn vài câu, người kia tán thán bạn vài câu, bạn đã hưởng hết rồi, thiện không còn thì thiệt thòi này sẽ rất lớn. Cho nên, thánh nhân thế xuất thế gian dạy chúng ta phải tích âm đức. Thế nào gọi là âm đức? Âm là không để....
Đọc Tiếp
|
Ma có rất nhiều loại. Chẳng hạn như, những niệm ác, phiền não trong tâm chúng ta là ma, hoặc những kẻ quấy nhiễu sự an vui của gia đình, cùng sự an ninh, hòa lạc của xã hội, làm cho mọi người sa vào hố sâu của thống khổ, thì bọn họ cũng chính là ma. Chẳng hạn như Hitler, Stalin, v.v… Bọn họ là chướng ngại của nền hòa bình và tự do của thế giới, làm cho nhân loại không thể thực hiện sự chung sống trong hài hòa, mà lại khơi dậy những sự thù hận, đấu tranh, làm cho thế giới bị chìm đắm trong sự thống khổ của chiến tranh tai tóc, cho nên mọi người đều gọi bọn họ là ma Hitler, ma Stalin v....
Đọc Tiếp
|