Quy củ tu tập của Phật thất “nhất tâm tinh tấn niệm Phật”  Tịnh nghiệp tỳ kheo Hành Sách ở Phổ Nhân Viện thuộc Ngu Sơn chế lập

* Sự lệ (quy cách kết thất)

Chọn nơi thanh tịch, rộng rãi làm Phật đường. Trong Phật đường thờ thánh tượng Di Đà, treo các phan đẹp, thắp đèn, đốt nhang suốt bảy ngày chẳng dứt. Chỉ dùng hương và ánh sáng để trang nghiêm đúng pháp cúng dường, chẳng dùng đến các món thức ăn, trái cây, tán vịnh, âm nhạc v.v...

Hai bên bày một cái bàn dài; cũng dùng lư hương, đồ cúng để trang hoàng. Phía ngoài mỗi bàn bày bốn cái tọa ỷ. Chính giữa, ngay trước tượng Phật bày một cái bàn dài, kê sao cho ngang hàng với hai cái bàn ở hai bên. Mỗi bàn cách nhau chừng một hai thước để ra vào được. Trên bàn bày một đạo sớ văn, một bộ lư lớn, hoa, đèn, vật cúng sao cho tương xứng. Trước bàn, bày bốn cái bồ đoàn. Hai bên phía gần tường, nếu không có giường thiền thì bày nhiều tòa ngồi để cho hành nhân lúc theo ban của mình lui ra sẽ ngồi đó.

[Trong số] những bạn đồng hạnh tịnh nghiệp chọn lấy 12 người, chia làm ba ban, mỗi ban bốn người. Người ngồi vị trí đầu [trong ban] gõ dẫn khánh để ghi nhớ Phật hiệu; lấy ngàn câu niệm làm chừng. Người ngồi kế gõ mõ; hai người còn lại tuần sát, thấy ai hôn trầm tán loạn bèn cảnh tỉnh.

Ban ở chính giữa hướng thẳng về đức Phật là ban thứ nhất. Người thứ nhất ngồi gần phía Tây là trưởng ban, chính là Thất Chủ. Ban bên phải ngồi hướng mặt về phía Ðông là ban thứ hai, người ngồi gần phía trên nhất là trưởng ban. Ban bên trái ngồi hướng về Tây là ban thứ ba, người ngồi gần phía dưới nhất là trưởng ban. Trên hai cái bàn dài thượng, hạ đặt trước đức Phật, mỗi bàn đều đặt một bộ dẫn khánh và mõ nhỏ, dùng xong lại đặt trên bàn.

Việc sắp đặt điện đường dành cho Phật thất nên chuẩn bị chu đáo ngay từ ngày hôm trước ngày khai thất. Tăng, tục tham dự Phật thất cũng nên tụ tập đến từ ngày hôm trước. Tắm gội xong nên thỉnh Chủ Thất Sư phân ban, quy định chỗ ngồi, chỉ dạy diễn tập: mỗi ban nhiễu Phật niệm trăm câu, lại trở về chỗ đổi ban. Trong khi đang đi nhiễu, đột nhiên đánh sáu tiếng mõ lớn để thay cho tiếng bang (20) báo giờ ăn. Ba ban đúng pháp ra khỏi Phật đường, đến trai đường nhiễu niệm, ngưng mõ, đánh tiếp mộc bản. Ðánh mộc bản xong liền niệm Phật, trở về Phật đường đi xoay vòng trở về chỗ mình ngồi.

Chỉ dạy minh bạch mỗi việc cho đại chúng hiểu rành rẽ vì trong khi kết thất cấm nói, chẳng tiện chỉ dạy nên cần phải diễn tập trước. Tập xong, ai nấy tự chí thành lễ Phật, cầu Phật gia bị khiến cho mọi việc trong bảy ngày bảy đêm đều được hoàn thành, chẳng bị nội ma ngoại chướng khởi lên. Xong xuôi nên đi nghỉ sớm để khỏi đến nỗi bị mệt nhọc.

Ngày thứ nhất, canh năm, gióng chuông báo thức, đại chúng thức dậy rửa ráy, súc miệng xong xuôi, dùng cháo lót dạ, lên Phật đường. Chủ Thất Sư gõ dẫn khánh, lễ Phật ba lạy, mọi người đứng yên vào chỗ mình, cử bài Hương Tán, tụng kinh A Di Ðà, tiếng tụng kinh nên hòa hoãn. Tụng chú Vãng Sanh ba biến, xướng bài kệ Tán Phật rồi xưng danh hiệu Phật. Ban ngồi chính giữa đánh hai tiếng khánh, xá rồi nhiễu Phật. Hai ban tả hữu ngồi ngay ngắn niệm thầm theo. Kẻ hôn trầm tán loạn nặng nề thì khẽ động môi răng để khỏi bị quên lửng, gián đoạn hay bị lạc vào tánh hôn trầm vô ký. Người tinh thần sáng sủa thì nên nhắm mắt tịnh lự, nhất tâm duyên theo Phật khiến cho Phật hiệu trong tâm rõ ràng như được xâu thành chuỗi, chẳng gián đoạn, chẳng tạp.

Ban đầu tiên nhiễu Phật xong, đứng xuống phía dưới, niệm đến chữ Ðà đánh một tiếng khánh. Ban thứ hai liền từ chỗ ngồi đứng dậy, thong thả ra khỏi vị trí, đứng thành một hàng bên bàn Phật. Ban đầu tiên lại gõ một tiếng khánh; sau bốn năm câu niệm Phật, lại gõ liền hai tiếng khánh ở chữ Ðà và chữ Phật, ngừng niệm, hướng về Phật bái xá, rồi ngồi vào các tòa trống ở bên phải.

Ban thứ hai liền niệm Phật tiếp theo, bái xá, đi nhiễu giống như trên. Niệm Phật xong lại đứng ở phía trên, gõ ba tiếng khánh. Ban cuối cùng liền đứng dậy, ra khỏi chỗ ngồi, đứng vào phía dưới niệm Phật tiếp, đi nhiễu giống hệt như cách thức của ban trước. Ban thứ hai liền lui về ngồi nơi các tòa trống ở bên trái, im lặng duyên theo Phật hiệu.

Ba ban niệm Phật như thế, hết lượt lại trở lại từ đầu; từ sáng đến tối tiếng niệm Phật chẳng dứt. Mỗi phen xưng niệm một ngàn câu xong lại mặc niệm hai ngàn câu, đi kinh hành niệm Phật ngàn câu, an tọa niệm Phật một ngàn câu để thân, miệng chẳng mệt mỏi, sự gắng sức và nhàn nhã được quân bình. Hễ nhiễu Phật xong, thấy không có mõ nhỏ đặt ở cạnh bàn mới được trở về chỗ ngồi để thứ lớp hoàn toàn không bị lầm lạc. Ngoài mười hai người ra, chẳng cần biết là tăng, tục nhiều ít cũng chia thành ba ban, đi thì cùng đi, ngồi thì cùng ngồi.

Trai đường bày biện theo vòng tròn, ba mặt kê bàn nối nhau, chỉ trừ phương dưới và chính giữa là để trống đôi chút để ban hành đường ra vào. Bốn phía chỗ gần tường đều kê sao cho đi nhiễu được. Ngoài ba bữa cháo ra, trước ngọ ăn thêm một bữa; chỉ có hai bát thức ăn, hai người ăn chung. Mỗi bữa, dọn cơm xong, đánh sáu tiếng bang (biểu thị Nam Mô A Di Ðà Phật).

Trong Phật đường khi nghe tiếng bang thì bất luận ban nào [đang xưng niệm] cũng [tiếp tục] nhiễu niệm như thường. Ðến bàn đặt sớ, trưởng ban đặt xâu chuỗi lên bàn, cầm dẫn khánh đánh hai tiếng, bái xá (Nếu lúc này tiếng niệm Phật quá nhanh thì ngay lúc này đổi nhịp mõ lơi hơn). Hai ban tả hữu đứng dậy, đồng thanh xưng niệm. Trưởng ban cầm dẫn khánh, theo lối đi chính giữa hướng về Phật đi nhiễu, theo đường giữa ra khỏi Phật đường. Nếu ban đầu tiên dẫn trước thì các ban còn lại nối theo sau. Ðợi cho tất cả tăng, tục thuộc ban ấy đi hết, ban kế đó mới được đi tiếp theo. Nếu ban thứ hai ở trước thì ban thứ ba đi tiếp theo đó, ban đầu tiên đi cuối cùng. Nếu ban đầu tiên dẫn đầu thì ban đầu tiên đi tiếp theo đó, ban thứ hai đi sau cùng, chẳng được vượt lên làm loạn thứ tự.

Ðến trai đường, hữu nhiễu một vòng đợi cho ban cuối cùng đến trai đường xong, trưởng ban liền đánh một tiếng khánh, dứt mõ, ngưng niệm Phật, ai nấy tùy chỗ mình đã đi đến đâu mà ngồi vào đó, chẳng được đùn đẩy kẻ trước người sau, hoặc tách ra khỏi vị trí. Ngồi đâu ăn ở đó, chẳng dùng đến các pháp tắc bái xá, niệm tụng, Xuất Sanh v.v… Cạnh đó, treo một tấm bản và dùi, sai một Sa Di đứng sẵn cạnh đó, chờ khi tiếng mõ nhỏ vừa dứt, liền đánh bản niệm Phật, mỗi tiếng đánh hai tiếng bản. Ðại chúng trong lúc ăn nhất tâm duyên theo Phật hiệu, chẳng được phóng dật trong khoảnh khắc.

Ăn xong, trưởng ban đánh một tiếng khánh ngay chữ Nam, Sa Di liền đánh liền hai tiếng bản ngay chữ Ðà Phật để kết thúc. Ðại chúng ra khỏi chỗ cũng chẳng bái xá, liền cất tiếng niệm Phật hữu nhiễu trở về Phật đường, nhất loạt theo như thứ tự trước. Trưởng ban đến đứng tại chỗ của mình, đánh hai tiếng khánh, bái xá, đặt khánh lên bàn, cầm lấy xâu chuỗi nhiễu Phật, các ban khác trở về ngồi chỗ cũ. Những người thuộc tả ban ngoảnh mặt về Tây nên đi thuận chiều đến bên bàn, từ vị trí cuối mà tiến lên, đừng đi xộc thẳng vào, đừng đi ngược chiều. Phàm khi trở về chỗ hay lúc xuất ban và người có việc phải ra vào đều nên đi an tường thong thả, chẳng được hấp tấp rảo bước.

Ðến đêm, trời vừa hoàng hôn, trên bàn đặt sớ cũng thắp đuốc lớn. Từ đấy trở đi, mỗi ban hai lượt đi nhiễu niệm Phật sáu ngàn tiếng; đợi đến lúc ban cuối đi nhiễu niệm Phật, Thất Chủ ra khỏi chỗ mình, đánh một tiếng khánh. Ðại chúng cùng đứng dậy đồng thanh nhiễu niệm; chẳng cần biết đến thứ tự của tăng tục của ba ban. Ước chừng vài mươi vòng xong, Thất Chủ đứng ngay chính giữa ở phương dưới, hướng về Phật, đánh ba tiếng khánh, gõ dồn mõ nhỏ một hồi, ngưng niệm Phật. Ðại chúng cùng hướng về Phật, đánh dẫn khánh, cùng niệm bài phát nguyện như sau:

Ðệ tử chúng con chí tâm phát nguyện:
Nguyện lúc lâm chung tâm chẳng loạn
Chánh niệm sanh thẳng về An Dưỡng
Gặp gỡ Di Ðà cùng thánh chúng
Tu hành Thập Ðịa vui thường hằng

Ba chữ cuối đánh thong thả ba tiếng khánh, lễ Phật ba lạy, trở về “đơn” để ngủ. Lúc ấy, mọi người nên gìn giữ ba nghiệp, ngủ trong chánh niệm, chẳng được làm chuyện khác, nói gì khác, khởi lên tạp tưởng khác. Cũng chẳng được lễ vị Phật nào khác, tụng kinh, chú khác, dù có hằng khóa trọn đời chẳng khuyết cũng đều đình chỉ, sau bảy ngày sẽ hành trì bù lại. Vì nếu để gián đoạn, xen tạp thì còn đáng được gọi là bảy ngày trì danh nhất tâm bất loạn nữa ư?

Sau khi đại chúng đã ngủ, lúc hai cây quan hương sắp tàn, vị Hương Ðăng Sư (người trông coi nhang đèn) nên bảo nhà bếp sắp sẵn nước rửa mặt, cháo lót dạ, rồi đánh chuông báo thức. Từ đấy, trong sáu ngày sau, vào Phật đường lễ Phật xong, liền đọc ngay bài Tán Phật, chẳng tụng kinh chú, những điều khác đều giống như ngày đầu tiên.

Trong kỳ kết thất, nên thỉnh hai người làm Hộ Thất Sư để làm bậc ngoại hộ, khuyên tăng, tục tùy hỷ chớ vào Phật đường, ngoại trừ người chuyên vì niệm Phật mà đến bèn dẫn vào lễ Phật ba lạy, ghép vào ban đang nhiễu niệm, hoặc ghép vào hai ban tả hữu đợi đến phiên, chẳng được xúm xít trò chuyện. Nếu kỳ hạn chưa mãn mà đã muốn đi thì lễ Phật đi ra, chẳng cần phải từ biệt đại chúng. Tăng, tục đã đến trước lúc kết thất, phát nguyện dự trọn đủ bảy ngày thì phải dự hết một kỳ, chẳng theo lệ như người tùy hỷ.

Nếu như người tuổi cao có bệnh, sức khó gắng gượng nổi thì có thể ngầm báo với Hộ Thất Sư, xin viết thiếp chuyển đạt cho Thất Chủ, hoặc lúc đi kinh hành thì ngồi một chốc, hoặc đêm xuống đi ngủ sớm, đó là phương tiện phá cách vậy. Kế đó, cắt đặt một người làm Giám Trực Sư, trong chúng kẻ nào trái nghịch ước định liền nêu tên ghi phạt, chẳng được bỏ qua. Kế đến cử một người làm Hương Đăng và hai người hành giả. Hương Đăng trông nom hương, lửa, đèn đuốc, nến lụn thì cắt bấc, hương hết thì thắp hương mới; khi đại chúng phó trai thì giữ Phật đường chẳng ra, khi đại chúng ngủ nghỉ thì trông hương định giờ ngủ. Cần phải sắp đặt bậc lão thành vào vai trò này. Nếu mệt mỏi thì có thể cùng Giám Trực Sư chia phiên ngủ nghỉ, chẳng được để lỡ việc khiến đại chúng bị lầm lạc.

Hai người Hành Giả lo liệu trà nước, tắm rửa v.v… Trước giờ ngọ dọn trà hai lần, sau giờ Ngọ chẳng kể mấy lần, đêm xuống lại dọn trà một lần. Mỗi khi dọn trà xong, liền thu lấy chén tách rửa sạch, đợi đến khi ban nhiễu niệm ngồi yên lại châm thêm. Phàm là chậu, nước, giặt rửa, nếu đại chúng cần đến đều nên tận tâm sắp đặt. Hộ Thất Sư cũng tùy thời xem xét, đừng để thiếu sót. 

Ngày mãn thất, đêm xuống, niệm Phật sáu ngàn câu xong, đợi sau khi ban cuối cùng đã niệm Phật tiếp theo, Chủ Thất Sư như thường lệ gõ khánh; ba ban cùng đứng dậy, nhiễu niệm năm trăm câu Phật hiệu. Chủ Thất Sư đứng ở đầu phía Ðông bàn Phật, hướng về phía Phật, gõ một tiếng chuông gia trì, đại chúng cùng hướng về Phật.

Ðánh đến tiếng chuông thứ ba thì chuông trống cùng trỗi, đánh mõ lớn, quỳ niệm Quán Âm, Thế Chí, Ðại Hải Chúng, mỗi danh hiệu mười lần như khóa tụng kinh tối thường lệ, tụng bài Tiểu Tịnh Ðộ Hồi Hướng Văn, lễ Phật mười hai lạy, Bồ Tát ba lạy, tam tự quy xong, liền đánh một tiếng chuông gia trì, đại chúng quay mặt hướng về lối đi chính giữa. Thất Chủ Sư đến chính giữa phương dưới, triển cụ (21), lễ Phật, trường quỳ. Ðại chúng niệm: “Nam Mô Ðại Thừa Thường Trụ Tam Bảo”. Vị Hộ Thất Sư tuyên sớ xong bèn đánh mõ nhỏ tụng chú Vãng Sanh để hóa sớ, chẳng nệ là bao nhiêu biến.

Tụng chú xong, niệm kệ phát nguyện, bái xá, trở về trước Phật, đại chúng cùng triển cụ, lễ ba lễ, xếp ngọa cụ lại, bái xá. Khánh đánh lên, dẫn đại chúng ra khỏi Phật đường, đến thất của vị Chủ Thất Sư lễ tạ. Chủ Thất Sư cùng đại chúng đến chỗ Hộ Thất Sư và chỗ các vị chức sự, đi vòng quanh liêu tạ từ xong, rồi trở lại Phật đường nhiễu lễ. Ðấy là xong một kỳ kết thất.


* Phạt lệ (quy định xử phạt)

Trị phạt có ba cấp độ: Bậc thượng phạt tiền một trăm đồng, bậc trung phạt năm mươi đồng, bậc hạ phạt mười đồng. Chẳng cần biết là tiền mắc rẻ, cứ chuẩn theo đây làm mức. Trong Phật đường treo một tấm biển, đặt một bộ bút nghiên. Có kẻ nào đáng phạt, vị Giám Trực Sư sẽ viết lên tấm biển đó. Viết xong cầm đưa cho người phạm lỗi biết. Kết thất xong, kết toán ông kia bà nọ bị phạt bao nhiêu tiền để kẻ đó mua hương cúng Phật hoặc phóng sanh. Nếu ai không có tiền thì phạt trì chú Vãng Sanh, cứ mười biến chú ứng với một đồng.

Trong các lệ cấm, điều thứ nhất là chẳng được trò chuyện. Chẳng luận là trong Phật đường hay ngoài Phật đường, trước lúc bắt đầu niệm Phật hay đã niệm Phật xong, chỉ cần phạm một lần là phạt tội bậc thượng, phạm ba lần phải rời khỏi nơi kết thất. Nếu có việc bất đắc dĩ phải nói thì ngầm thưa với Hộ Thất Sư một hai câu rồi thôi. Nếu nói nhiều hoặc nói lớn tiếng cũng bị phạt như thế.

Nếu cần bỏ bớt, mặc thêm áo v.v... thì tự rời chỗ, làm xong mau trở lại. Nếu mượn chuyện bên ngoài để lần chần thì phạt tội bậc hạ. Nếu tự lẻn vào liêu xá để ngồi, hay nằm chốc lát thì phạt một tội bậc thượng.

Có việc muốn ra khỏi Phật đường thì phải người này ra, người kia vào. Nếu người trước chưa trở lại, phải đợi một chút. Nếu có việc gấp rút thì hai người cùng đi ra cũng được. Nếu trong số bốn người, hai người đã đi ra mà người thứ ba cũng theo ra luôn thì phạt một tội bậc hạ. Người đến sau ngồi ghép vào các ban thì chẳng tính.

Đi nhiễu chưa xong thì chẳng được vượt ban ra ngoài. Phải đợi đến lúc ban mình trở về chỗ ngồi yên ổn rồi mới được rút lui. Nếu bỏ ban đi ra thì dù là Tăng hay tục cùng bị phạt một tội bậc trung.

Thượng ban nhiễu Phật gần xong, hạ ban chẳng được rời khỏi vị trí. Nếu ra khỏi Phật đường không đúng lúc đến nỗi ban mình đến phiên chẳng vào thì phạt một tội bậc trung. Tăng hay tục được ghép theo ban trong lúc đi nhiễu, nếu chẳng phải là người cao tuổi có bệnh đã bẩm bạch [với Hộ Thất Sư] từ trước, cứ tự tiện đứng ngồi thì phạt một tội bậc hạ.

Như lúc an tọa, nếu do tánh không ngồi yên được bèn nhập lẫn vào ban khác để nhiễu niệm thì phạt một tội bậc trung. Ra vào nhiều lần thì phạt một tội bậc hạ, trừ người có bệnh.

Lúc ra khỏi ban, trở về chỗ ngồi và lúc ra khỏi Phật đường, vào Phật đường đều phải oai nghi, thong thả trật tự, nếu rảo bước gấp gáp thì phạt một tội bậc hạ. Trong Phật đường đi đứng ngược chiều gây trở ngại cho đại chúng thì phạt một tội bậc hạ. 

Xông xáo vượt ban ra vào thì phạt một tội bậc hạ.

Nhằm lúc Hương Đăng Sư không có mặt trong Phật đường mà đèn lụn, hương hết thì bốn vị ngồi đầu hay cuối trong hai ban tả hữu hoặc chúng ngồi phía sau có thể tạm đứng dậy làm thay. Nhưng Tăng hay Tục đang đi nhiễu chẳng được cắt bấc đèn, thắp thêm hương gây trở ngại cho người đi phía sau. [Nếu phạm] phạt một tội bậc hạ.

Tăng tục trong ba ban, nếu có ai chẳng khéo niệm theo nhịp mõ thì lúc ban mình đi nhiễu hãy niệm thầm hoặc niệm nhỏ tiếng. Nếu niệm lớn tiếng loạn chúng thì phạm một tội bậc hạ. Hộ Thất Sư nên dẫn người ấy ra chỗ khác ngầm bảo cho biết.

Đêm xuống, sau khi dứt tiếng niệm Phật, nên theo chúng nghỉ yên. Nếu còn lễ Phật, trì tụng làm các công hạnh khác thì phạt một tội bậc trung. Hương Đăng Sư nên khuyên người ấy thôi đi. Nếu kẻ ấy không nghe bèn báo với Giám Trực Sư ghi phạt.

Đến giờ ăn đi xuống trai đường, nếu hai ban đi theo ban chính lẫn lộn thứ tự thì hai vị trưởng ban mỗi người bị phạt một tội bậc trung.

Ở trai đường ăn xong nếu đứng dậy tháo lui [không chờ ai] thì phạt một tội bậc hạ.

Định giờ ngủ sai lầm đến nỗi sau khi vào Phật đường, ba ban chưa xoay phiên hết một lượt mà trời đã sáng thì phạt Hương Đăng Sư một tội bậc hạ. Vừa vào Phật đường, trời đã sáng ngay, phạt một tội bậc thượng. Nếu ngủ mê định giờ hương cháy sai, thức chúng quá sớm đến nỗi đại chúng mệt nhọc thì phạt một tội bậc trung.

Giám Trực Sư tùy thời, tùy chỗ siêng năng giám sát, đúng cách thức ghi chép tội. Nếu ai phạm tội nhiều lần mà chẳng biết hoặc tuy biết vẫn chẳng ghi thì bị phạt giống như người phạm lỗi.

Các đồng thất sư, hộ thất sư trước khi khởi thất phải thông thuộc quy thức này. Tiếp đó, đem điều lệ phạt tội này sao ra, dán trước nhà khách. Có kẻ tăng, người tục nào đến sau hãy bảo họ xem kỹ điều ước rồi mới đưa vào Phật đường. Nếu kẻ nào chẳng hiểu văn nghĩa thì nên thuật tóm tắt cho kẻ ấy hiểu. Nếu vội vàng đưa kẻ ấy vào khiến kẻ ấy mơ mơ hồ hồ liền phạm điều ước thì Hộ Thất Sư bị phạt một tội bậc hạ.

Ba mức phạt này tính gộp lại có hai mươi ba điều, nay ghi rõ cách thức trừng phạt như sau:

Phạm tội cấm nói: một tội bậc thượng.

Nói nhiều: một tội bậc thượng.

Nói lớn tiếng: một tội bậc thượng.

Tự tiện bỏ vào liêu xá nằm, ngồi: một tội bậc thượng.

Định giờ ngủ sai lạc: một tội bậc thượng.

Vượt ban ra khỏi Phật đường: một tội bậc trung.

Ra khỏi Phật đường không đúng thời: một tội bậc trung.

Loạn ban nhiễu niệm: một tội bậc trung.

Đêm xuống, thực hành công hạnh khác: một tội bậc trung.

Đi theo ban không đúng thứ tự: một tội bậc trung.

Mượn cớ để ra ngoài quá lâu: một tội bậc hạ.

Nối gót nhau bỏ ra khỏi Phật đường: một tội bậc hạ.

Đến phiên ban mình vẫn ngồi hay đứng yên: một tội bậc hạ.

Ra vào nhiều lần: một tội bậc hạ.

Hành động gấp rút: một tội bậc hạ.

Nhiễu ngược chiều ngáng trở đại chúng: một tội bậc hạ.

Xông qua các ban ra vào: một tội bậc hạ.

Đứng chựng lại [trong khi nhiễu niệm] gây trở ngại người phía sau: một tội bậc hạ.

Niệm lớn tiếng loạn chúng: một tội bậc hạ.

Ăn xong đứng dậy trước: một tội bậc hạ.

Vội vã đưa người vào Phật đường: một tội bậc hạ.

Những điều lệ như trên bắt buộc phải tuân hành là vì muốn ngăn ngừa phóng dật, giúp thành trợ hạnh, chứ chẳng phải vì ưa bày vẽ rắc rối. Hành giả nên nghĩ rằng: Một đời sao nhãng, nay chỉ tinh tấn trong bảy ngày, ai nấy phải khẩn thiết dốc sức mạnh mẽ, chẳng tiếc thân mạng, chẳng luận đi đứng nằm ngồi, uống ăn, tiêu tiểu, một câu hồng danh như hơi thở chẳng đoạn, chẳng thể ngưng dứt phút chốc, xen tạp trong chốc lát. Đã muốn nhất tâm bất loạn thì thật chẳng phải là tầm thường, phải nên niệm Phật như thế, hãy suy nghĩ mà gắng lên.
_______________________

(21) Triển cụ: Tức là mở ngọa cụ ra, đặt xuống đất, quỳ lên đó. Ngọa cụ (còn gọi theo âm phạn là Ni-sư-đàn) là một tấm vải hình chữ nhật thường may hai lớp, kích thước đúng theo quy định trong Luật Tạng; xưa dùng để cho các du tăng hành cước trải ngồi. Lễ xong, sẽ xếp đôi lại vắt lên cánh tay trái. Hiện tại, trong các Niệm Phật Thất, ngoại trừ trường hợp vị Hộ Thất cũng là Tăng thì mới áp dụng cách triển cụ này; kỳ dư, việc tuyên sớ thường do một vị Tăng hoặc cư sĩ làm Duy Na đảm nhậm nhưng không triển cụ, đại chúng cũng không triển cụ.

(20) Bang: một loại mõ dài, thường khắc thành hình con cá lớn, treo trên cao để làm hiệu lệnh trong trai đường nhằm báo giờ thọ trai. Ðôi khi thay bằng một tấm bản bằng gỗ lớn, khắc hình mây gọi là “vân bản”.
 
Trích từ: Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ

Kinh Sách Liên Quan

   
1 Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về
2 An Sĩ Toàn Thư - Khuyên Người niệm Phật cầu sinh tịnh độ, Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến Tải Về
3 Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp, Thượng Tọa Thích Minh Tuệ Tải Về
4 Lá Thư Tịnh Độ, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Tải Về
5 Tịnh Độ Thập Nghi Luận, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Tải Về
6 Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận, Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh Tải Về
7 Tịnh Độ Vấn Đáp, Thích Nhuận Nghi Tải Về
8 Tịnh Độ Pháp Ngữ, Nhiều Dịch Giả Tải Về
9 Tịnh Độ Tập Yếu, Thích Nữ Minh Tâm Tải Về
10 Tịnh Độ Hoặc Vấn, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Tải Về
11 Tịnh Độ Cảnh Ngữ, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về
12 Tịnh Độ Nhập Môn, Cư Sĩ Diệu Âm Tải Về
13 Tịnh Độ Vựng Ngữ, Hòa Thượng Thích Minh Thành Tải Về