Tác Giả

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

1. Ái Tâm Chẳng Nhiễm Nặng Thì Không Sanh Ở Ta Bà
2. Ăn Chay
3. Ấn Quang Đại Sư
4. Ấn Quang Đại Sư khai thị Cư Sĩ Trần Tích Châu
5. Ấn Quang Đại Sư Khai Thị Niệm Phật
6. Ba Cõi Không An Dường Như Nhà Lửa
7. Bậc đã ngộ đạt mà còn cầu sanh Tịnh Độ
8. Bài Văn Khuyên Phát Lòng Bồ Đề
9. Bản Ấn
10. Bát Khổ
11. Bây Giờ Tôi Tạo Tác Theo Duyên Đời Đợi Khi Sắp Chết Rồi Sẽ Niệm Phật Có Được Chăng...?
12. Biển Thế Giới Hoa Tạng
13. Bình Sanh Tuyệt Không Tín Nguyện Khi Lâm Chung Khó Được Nhờ Sức Phật
14. Bồ Đề Tâm Với Môn Tịnh Độ
15. Bốn Kỳ Kiết Tập
16. Bốn Môn Niệm Phật
17. Các Chủng Loại Thế Giới
18. Các Duyên Ma Khảo
19. Cách Đoạn Tuyệt Thị Phi
20. Cách Đối Trị Hôn Trầm Tán Loạn
21. Cách Giữ Vững Tâm Không Thối Chuyển
22. Cần chi phải cầu sanh về Tây Phương Tịnh Độ...?
23. Cần Gì Phải Niệm Phật Cho Nhọc Sức Lao Hơi...?
24. Cần Giải Thoát Ngay Trong Hiện Kiếp
25. Cảnh Ta Bà Đã Huyễn Mà Cõi Cực Lạc Cũng Là Huyễn
26. Châu Hoằng Đại Sư
27. Châu Lộ
28. Chí Thông
29. Chim Anh Võ
30. Chim Cù Cáp
31. Chớ Để Mất Phần Nhập Phẩm
32. Chúc Thị
33. Chung Ly Cẩn
34. Chúng Sanh Tâm Tịnh Thì Cõi Phật Tịnh
35. Chúng Sanh Trong Ba Cõi
36. Cố Nguyên
37. Có phải Ngài đã chủ trương Tịnh độ tự hạ môn Thiền của mình...?
38. Cõi Đại Thiên Và Thời Kiếp
39. Cứ Tham Thiền Chờ Khi Chứng Được Thần Thông Chừng Ấy Có Thể Đi Về Cực Lạc
40. Cực Lạc Cách Đây Mười Muôn Ức Cõi
41. Đã gọi thấy tánh thành Phật há lại khứng chịu cầu sinh về Tây Phương ư...?
42. Đã Là Phàm Phu Tất Còn Ở Trong Vòng Phiền Não
43. Đại Khái Của Pháp Môn Tịnh Độ
44. Đại Kình
45. Đại sư Trí Giả khuyên người chuyên tu tịnh độ
46. Đại Thế Chí Bồ Tát
47. Đàm Giám Pháp Sư
48. Đàm Loan Đại Sư
49. Đàm Loan Pháp Sư
50. Đạo Càn
51. Đạo Dũ
52. Đạo Kiệt Pháp Sư
53. Đạo Ngang Pháp Sư
54. Đạo Ngộ
55. Đạo Nhân Pháp Sư
56. Đạo Phái Đại Sư
57. Đạo Phái Đại Sư Khai Thị Niệm Phật
58. Đạo Sư A Di Đà Phật
59. Đạo Trân Pháp Sư
60. Đạo Triệt
61. Đạo Xước Đại Sư
62. Đạo Xước Thiền Sư
63. Đệ Tử Ăn Chay Niệm Phật Đã Nhiều Năm Nghe Dạy Rằng
64. Di đà bổn tánh Tịnh độ duy tâm...?
65. Diêm Ban Vinh
66. Điểm Quan Yếu Bậc Nhất Của Sự Tu Hành Là Tha Thiết Vì Thoát Ly Nỗi Khổ Sống Chết Luân Hồi
67. Diên Thọ Đại Sư
68. Diêu Bà
69. Diệu Hiệp
70. Diệu Hiệp Đại Sư
71. Diệu Hiệp Đại Sư Khai Thị Niệm Phật
72. Diệu Hiệp Ðại Sư Khai Thị Niệm Phật
73. Diệu Không Đại Sư
74. Diệu Thành
75. Đối Trị Dục Nhiễm
76. Dòng Dõi Đức Phật
77. Du Hữu Quang
78. Dư Thị
79. Đức Như Lai Muốn Cho Tất Cả Loài Hữu Tình Đều Thoát Khỏi Sự Sống Chết
80. Đức Thanh
81. Đức Thích Tôn Sau Khi Thành Đạo
82. Đức Thích Tôn Trước Khi Thành Đạo
83. Dương Gia Vỹ
84. Dương Kiệt
85. Đường Sanh Tử Nhiều Nguy Hiểm
86. Dương Thị
87. Duy Cung
88. Duy Ngạn Pháp Sư
89. Gà Biết Niệm Phật
90. Giả sử phiền não ác kiến thường nổi lên thì làm sao được gọi là vượt hơn ba cõi lên ngôi bất thối...?
91. Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát
92. Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát Khai Thị Niệm Phật
93. Giáo Nghĩa Các Bộ Phái
94. Hà Tất Phải Khăng Khăng Niệm Phật Cầu Về Cực Lạc Làm Chi...?
95. Hai Sa Di
96. Hằng Nhứt
97. Hạng phàm phu làm sao vãng sanh...?
98. Hàng Phụ Nhân Khi Sanh Sản Nên Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát
99. Hành Sách Đại Sư
100. Hành Tu
101. Hiện Cảnh Tuy Có Tốt Xấu Chuyển Biến Chỉ Tại Nơi Ta
102. Hồ Yển
103. Hoài Cảm Đại Sư
104. Hoài Ngọc Pháp Sư
105. Hoàng Phủ Sĩ Phương
106. Hoàng Sanh
107. Hoằng Tế
108. Hoàng Thừa Huệ
109. Huệ Cung
110. Huệ Kiền Pháp Sư
111. Huệ Mộc
112. Huệ Nghiêm Đại Sư Khai Thị Niệm Phật
113. Huệ Nhựt
114. Huệ Sùng Đại Sư
115. Huệ Tài Pháp Sư
116. Huệ Viễn Đại Sư
117. Huệ Viễn Đại Sư
118. Huệ Vĩnh Đại Sư
119. Hùng Tuấn
120. Hữu Bằng Đại Sư
121. Hữu Nghiêm Đại Sư
122. Hữu Nghiêm Đại Sư Khai Thị Niệm Phật
123. Hữu Nghiêm Pháp Sư
124. Khả Cửu
125. Khái Yếu Về Ngũ Giới
126. Khái Yếu Về Tam Quy
127. Không Cốc
128. Không Cốc Đại Sư
129. Không Cốc Đại Sư Khai Thị Niệm Phật
130. Không tu Tịnh nghiệp tất khó vãng sinh đó là điều chắc chắn
131. Khuyên Người Chí Thành Niệm Phật
132. Khuyên Niệm Phật Vãng Sanh
133. Khuyên Phát Tâm Niệm Phật
134. Khuyết Công Tắc
135. Kiến Nguyệt
136. Kiếp Người Vô Thường Vinh Hoa Giả Tạm
137. Kim Quang Tiền
138. Kim Thích
139. Kinh Ðiển Đạo Phật
140. Làm Thế Nào Để Phát Lòng Bồ Đề
141. Làm Thế Nào Để Thành Mãn Bồ Đề Tâm
142. Làm Thế Nào Niệm Được Bền Lâu...?
143. Lãng Nhiên
144. Liên Trì Ðại Sư Khai Thị Niệm Phật
145. Lòng Nóng Giận Là Tập Tánh Từ Kiếp Trước
146. Long Thọ Bồ Tát
147. Long Thọ Đại Sĩ
148. Lư Thị
149. Luân Hồi Và Nhân Quả
150. Lục Ngoạn
123


Pháp Âm Liên Quan Tới Tác Giả

Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.

Xuất thân từ gia đình Nho giáo kính tín Tam Bảo. Sáu tuổi, Ngài đã cắp sách đến trường học quốc ngữ song song với Nho học. Lúc thiếu thời, Ngài đã bộc lộ thiên tư tài hoa văn nhã, bẩm chất cao khiết, và là người con chí hiếu với cha mẹ. Do vì thấy mẹ đau yếu triền miên, năm 12 tuổi, Ngài ra đi tìm thầy học thuốc để mong trị lành bệnh cho mẫu thân. Nhân tạm trú học thuốc tại chùa Vĩnh Tràng - Mỹ Tho, Ngài có dịp nghiên tầm Phật điển và nuôi dần ý chí xuất gia tu học.

Năm 18 tuổi, Ngài trở về chăm sóc mẹ đến khi lành mạnh. Sau đó, Ngài khẩn khoản xin phép song đường cho xuất gia, nhưng không được đồng ý. Cuối cùng, Ngài đành phải âm thầm trốn đi (năm Giáp Thân - 1944, lúc 19 tuổi), đến tu tại chùa Sắc Tứ Linh Thứu ở Xoài Hột, và được thế phát xuất gia vào năm Ất Dậu (1945) làm đệ tử của Đại lão Hòa thượng Thành Đạo.

Năm 1948, Ngài thọ giới Sa Di và học ở Phật học đường Liên Hải cùng Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang cho đến năm 1951 để hoàn tất chương trình Trung đẳng Phật học. Thời gian đó, Ngài được thọ Tỳ Kheo giới tại Đại giới đàn Ấn Quang tổ chức năm 1950.

Từ năm 1951 đến năm 1954, Ngài hoàn tất chương trình Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt với các vị đồng khóa như: Hòa thượng Bửu Huệ, Tắc Phước, Tịnh Đức, Đạt Bửu, Tịnh Chơn... và Ngài cùng quý thầy lớp Cao đẳng đã phụ giúp đắc lực cho Hòa thượng Giám đốc Thiện Hòa trong việc điều khiển sinh hoạt đại chúng. Ngài làm Tri chúng, Ngài Bửu Huệ làm Tri sự. Lòng khoan dung, tính hòa nhã điềm đạm của Ngài giúp an chúng và thành tựu mọi Phật sự.

Năm 1954, tốt nghiệp lớp Cao đẳng, Ngài xin phép chư Tôn đức trong Ban Giám Đốc lui về nhập thất tịnh tu trong mười năm tại trụ xứ Cái Bè và Vang Quới.

Dù nhập thất tinh tấn chuyên tu, song Hòa thượng không xa rời bi nguyện độ sanh. Trong mười năm ấy, Ngài đã phiên dịch các loại kinh sách chuyên hướng xiển dương pháp môn Tịnh độ, như: kinh Quán Vô Lượng Thọ, Tịnh học Tân Lương, Lá thơ Tịnh Độ, Hương quê Cực Lạc, và giảng dạy cho Ni chúng khắp nơi đến thọ học.

Năm 1964, Hòa thượng Thiện Hòa mở Trường Trung đẳng Chuyên khoa Phật học tại chùa Huệ Nghiêm, Bình Chánh, Sài Gòn. Ngài và hai vị Thanh Từ, Bửu Huệ được mời giao đảm trách việc giáo dục học Tăng. Song song đó, các Ngài còn phụ trách giảng dạy cho học Ni tại Phật học viện Dược Sư. Ngoài ra, Ngài còn giảng dạy tại Phân khoa Phật học thuộc Viện Đại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Trong giai đoạn này, Ngài tập trung biên soạn các bộ sách để làm giáo trình kiến thức Phật học Trung Cao như: Phật học Tinh Yếu, Duy Thức học Cương yếu và phiên dịch sách Tịnh Độ Thập Nghi Luận cùng kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Năm 1967, Ngài đến Đại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, kiến thiết Hương Quang Thất, chuẩn bị cho giai đoạn ẩn tu.

Năm 1968, Hòa thượng chính thức về trụ hẳn ở Đại Ninh, lập nên đạo tràng Tịnh độ. Ngài không câu nệ vào việc nhập thất, mà sẵn sàng tiếp hóa chư Tăng Ni Phật tử đến tham vấn học đạo, Ngài còn soạn thuật: Niệm Phật thập yếu, Tây phương nhựt khóa, Tịnh độ pháp nghi và phiên dịch kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni.

Năm 1970, Ngài xây dựng Hương Nghiêm Tịnh Viện, biến đạo tràng thành một vùng chuyên tu Tịnh độ, cũng là trung tâm xiển dương pháp môn này ở miền Nam. Tăng Ni tín đồ qui tụ về lập am thất trụ lại tu học rất đông. Danh đức của Ngài được lan truyền rộng và Phật tử đến quy ngưỡng ngày càng nhiều. Đặc biệt, ở Hương Nghiêm Tịnh Viện này tâm Tịnh độ là nguồn cảm hứng để Ngài sáng tác rất nhiều thơ văn đượm chất đạo vị, thanh thoát. Thơ văn liễu ngộ tâm cảnh Cực Lạc của Ngài cảm hóa được không biết bao nhiêu đồ chúng hướng về pháp môn này.

Năm 1974, Ngài mở khóa tu học chuyên về pháp môn Tịnh độ trong ba năm, với số Liên chúng 13 vị dưới sự hướng dẫn của Ban Liên Đạo gồm 3 vị: Liên Thủ: Hòa thượng Bửu Huệ, Liên Huấn: Hòa thượng Thiền Tâm, Liên Hạnh: Hòa thượng Bửu Lai.

Từ năm 1975, Ngài viễn ly mọi sự nghe thấy bên ngoài, lặng lẽ nhiếp tâm tu niệm gia trì hai pháp môn Mật Tịnh song hành. Suốt một thời gian dài, Ngài kiên trì nhập thất chăm chắm giải quyết việc lớn sanh tử, song Ngài vẫn soạn dịch bộ: “Mấy Điệu Sen Thanh” và “Tam Bảo cảm ứng lục” để lợi lạc nhân sinh khuyến tu Tịnh độ.

Những ngày cuối cùng cuộc đời ẩn tu hành đạo, Ngài vương chút thân bệnh, trước đó Ngài đã giao phó mọi việc của Tịnh viện Hương Nghiêm lại cho Tăng đồ quản lý điều hành. Ngài cố gắng khắc phục thân bệnh, nổ lực dụng công trì danh hiệu Phật. Cho đến khi cảm nhận thời khắc vãng sinh, Ngài bảo đồ chúng vây quanh trợ niệm, rồi đến 9 giờ sáng ngày 21 tháng 11 năm Nhâm Thân (tức ngày 14-2-1992), Ngài an nhiên thoát hóa, vãng sinh hưởng thọ 68 tuổi, hạ lạp 42.

Cảm thức đức độ của một bậc danh Tăng, lúc sinh thời, các vị tôn túc trong Giáo hội Tỉnh đã cung thỉnh Ngài vào Hội đồng Chứng minh Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Lâm Đồng. Trong cuộc đời hành đạo, Hòa thượng là vị Cao Tăng có công lớn trong việc xiển dương pháp môn Tịnh Độ. Sự nghiệp sáng tác và phiên dịch của Ngài để lại cho hậu thế là một vốn quí làm tư lương tu trì và giúp hàng hậu sinh nhận thức sâu rộng trong giáo pháp.

Các tác phẩm của Hòa thượng để lại:

. Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
. Tịnh Học Tân Lương.
. Lá thơ Tịnh Độ.
. Hương Quê Cực Lạc.
. Phật học Tinh yếu.
. Duy Thức Học cương yếu.
. Tịnh độ Thập nghi luận.
. Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni.
. Niệm Phật Thập yếu.
. Tây phương Nhựt khóa.
. Tịnh Độ Pháp Nghi.
. Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni.
. Mấy điệu sen thanh.
. Tam Bảo Cảm ứng lục.

Cố Giáo Sư Minh Chi
Cố Giáo Sư Trương Đình Nguyên
Cư Sĩ Bành Tế Thanh
Cư Sĩ Bích Ngọc
Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Cư Sĩ Cao Hữu Đính
Cư Sĩ Chân Hiền Tâm
Cư Sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền
Cư Sĩ Đạo Quang
Cư Sĩ Diệu Âm
Cư Sĩ Diệu Hà
Cư Sĩ Định Huệ
Cư Sĩ Đoàn Trung Còn
Cư Sĩ Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ
Cư Sĩ Dương Đình Hỷ
Cư Sĩ Đường Tương Thanh
Cư Sĩ Giang Đô Trịnh Vĩ Am
Cư Sĩ Giang Vị Nông
Cư Sĩ Hạnh Cơ
Cư Sĩ Hồ U Trinh Ở Núi Tứ Minh
Cư Sĩ Hoàng Phước Đại
Cư Sĩ Hồng Như
Cư Sĩ Hồng Dương Nguyễn Văn Hai
Cư Sĩ Huệ Thiện
Cư Sĩ Khánh Vân
Cư Sĩ Lâm Cự Tinh
Cư Sĩ Lê Huy Trứ MSEE
Cư Sĩ Lê Sỹ Minh Tùng
Cư Sĩ Liêu Nguyên
Cư Sĩ Liêu Địch Liên
Cư Sĩ Lưu Minh Chánh
Cư Sĩ Lưu Thừa Phù Ghi Chép
Cư Sĩ Lý Viên Tịnh
Cư Sĩ Lý Nhất Quang
Cư Sĩ Mao Lăng Vân cung kính kết tập
Cư Sĩ Minh Chánh
Cư Sĩ Minh Trí và Mẫn Đạt
Cư Sĩ Ngô Đức Thọ
Cư Sĩ Nguyên Giác
Cư Sĩ Nguyên Hồng
Cư Sĩ Nguyễn Lang
Cư Sĩ Nguyên Phong
Cư Sĩ Nguyễn Đức Sâm , Ngô Đức Thọ
Cư Sĩ Nguyễn Đức Sinh
Cư Sĩ Nguyễn Hữu Kiệt
Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến
Cư Sĩ Nguyễn Xuân Chiến
Cư Sĩ Phạm Cổ Nông
Cư Sĩ Phúc Trung
Cư Sĩ Phương Luân
Cư Sĩ Quách Huệ Trân
Cư Sĩ Quảng Minh
Cư Sĩ Tâm Phước
Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Cư Sĩ Thiên Nhơn
Cư Sĩ Thôi Chú Bình
Cư Sĩ Thuần Bạch
Cư Sĩ Tiểu Bình Thật
Cư Sĩ Tịnh Mặc
Cư Sĩ Tô Khắc Minh
Cư Sĩ Tôn A Tử
Cư Sĩ Uông Trí Biểu
Cư Sĩ Viên Đạt
Cư Sĩ Vọng Tây
Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân
Đại Lão Hòa Thượng Thích Ấn Quang
Đại Lão Hòa Thượng Thích Diễn Bồi
Đại Lão Hòa Thượng Thích Hành Trụ
Đại Lão Hòa Thượng Thích Mộng Tham
Đại Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ
Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan
Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang
Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Đại Lão Hòa Thượng Tinh Vân
Đại Sư An Thế Cao
Đại Sư Bách Trượng Hoài Hải
Đại Sư Chí Công
Đại Sư Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa
Đại Sư Đạo Bái
Đại Sư Đạo Nguyên
Đại Sư Đạo Tuyên
Đại Sư Diệu Hiệp
Đại Sư Diệu Khẩu
Đại Sư Diệu Không
Đại Sư Diệu Liên
Đại Sư Đời Tống, Nguyên Chiếu
Đại Sư Gia Tường Cát Tạng
Đại Sư Hải Đông
Đại Sư Hám Sơn
Đại Sư Hàm Thị
Đại Sư Hoài Cảm
Đại Sư Hoằng Nhất
Đại Sư Hoằng Tán
Đại Sư Huệ Ngộ
Đại Sư Khuy Cơ
Đại Sư Liên Trì
Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc
Đại Sư Pháp Tạng Hiền Thủ
Đại Sư Phi Tích
Đại Sư Pomnyun Sunim Trí Quang
Đại Sư Quán Đảnh
Đại Sư Quảng Khâm
Đại Sư Tăng Triệu
Đại Sư Thái Hư
Đại Sư Thân Loan
Đại Sư Thang Hương Danh
Đại Sư Thanh Lương Trừng Quán
Đại Sư Thật Hiền
Đại Sư Thật Xoa Nan Đà
Đại Sư Thích Ấn Thuận
Đại Sư Thích Tăng Triệu
Đại Sư Thiên Thai Trí Giả
Đại Sư Thượng Sư Tsong Kha Pa
Đại Sư Tĩnh Am
Đại Sư Tông Bổn
Đại Sư Triệt Ngộ
Đại Sư Trung Phong Minh Bổn
Đại Sư Tsong Kha Pa
Đại Sư Ưu Đàm
Đại Sư Viên Hư
Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ
Đời Dao Tần, Duy Tắc Thiền sư Thiên Như
Đời Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Đời Đường Sa Môn Văn Thẩm Thiếu Khương
Đời Lưu Tống Cương Lương Gia Xá
Hòa Thượng DaLai Lama
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc
Hòa Thượng Thích Bích Liên
Hòa Thượng Thích Chân Thường
Hòa Thượng Thích Đồng Bổn
Hòa Thượng Thích Đổng Minh
Hòa Thượng Thích Đức Nhuận
Hòa Thượng Thích Đức Niệm
Hòa Thượng Thích Đức Thắng
Hòa Thượng Thích Giác Khang
Hòa Thượng Thích Giác Qủa
Hòa Thượng Thích Giác Quang
Hòa Thượng Thích Hân Hiền
Hòa Thượng Thích Hoằng Tri
Hòa Thượng Thích Hoằng Trí
Hòa Thượng Thích Hồng Đạo
Hòa Thượng Thích Hồng Nhơn
Hòa Thượng Thích Huệ Hưng
Hòa Thượng Thích Huyền Dung
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
Hòa Thượng Thích Huyền Vi
Hòa Thượng Thích Khánh Anh
Hòa Thượng Thích Khế Chơn
Hòa Thượng Thích Mãn Giác
Hòa Thượng Thích Minh Cảnh
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Hòa Thượng Thích Minh Lễ
Hòa Thượng Thích Minh Quang
Hòa Thượng Thích Minh Thành
Hòa Thượng Thích Nhất Chân
Hòa Thượng Thích Như Điển
Hòa Thượng Thích Phước Nhơn
Hòa Thượng Thích Phước Sơn
Hòa Thượng Thích Quảng Độ
Hòa Thượng Thích Quang Phú
Hòa Thượng Thích Tâm Châu
Hòa Thượng Thích Tâm Quang
Hòa Thượng Thích Thái Hòa
Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Hòa Thượng Thích Thiên Ân
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Hòa Thượng Thích Thông Bửu
Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Hòa Thượng Thích Tịnh Nghiêm
Hòa Thượng Thích Toàn Châu
Hòa Thượng Thích Trí Chơn
Hòa Thượng Thích Trí Hoằng
Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Hòa Thượng Thích Trí Thủ
Hòa Thượng Thích Trung Quán
Hòa Thượng Thích Từ Quang
Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng
Hòa Thượng Thích Tuệ Đặng
Hòa Thượng Thích Tuệ Nhuận
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ
Hòa Thượng Thích Tuyên Hóa
Hòa Thượng Thích Viên Giác
Hòa Thượng Thích Viên Huy
Hòa Thượng Thích Viên Lý
Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã
Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm
Tam Tạng Pháp Sư Đề Vân Bát Nhã
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Thượng Nhân Pháp Nhiên
Thượng Tọa Thích Chân Tính
Thượng Tọa Thích Chánh Lạc
Thượng Tọa Thích Đồng Ngộ
Thượng Tọa Thích Đức Trí
Thượng Tọa Thích Giải Hiền
Thượng Tọa Thích Hằng Đạt
Thượng Tọa Thích Hạnh Bình
Thượng Tọa Thích Huyền Châu
Thượng Tọa Thích Mật Thể
Thượng Tọa Thích Minh Tuệ
Thượng Tọa Thích Nguyên Bình
Thượng Tọa Thích Nguyên Chơn
Thượng Tọa Thích Nguyên Hùng
Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng
Thượng Tọa Thích Nhuận Châu
Thượng Tọa Thích Phổ Huân
Thượng Tọa Thích Phước Hòa
Thượng Tọa Thích Phước Thái
Thượng Tọa Thích Quảng Ánh
Thượng Tọa Thích Thiện Phụng
Thượng Tọa Thích Tiến Đạt
Thượng Tọa Thích Trí Đức
Thượng Tọa Thích Trí Siêu
Thượng Tọa Thích Trường Lạc
Thượng Tọa Thích Vĩnh Hóa
Tiến Sĩ Lê Sơn Phương Ngọc
Tiến Sĩ Sinh Học Matthieu Ricard
Tiến Sĩ Vật Lý Trịnh Xuân Thuận
Tỳ Kheo Thích Đăng Quang
Tỳ Kheo Thích Đồng Thọ
Tỳ Kheo Thích Đồng Tịnh
Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Tỳ Kheo Thích Giác Nghiên
Tỳ Kheo Thích Giới Bổn
Tỳ Kheo Thích Giới Đức
Tỳ Kheo Thích Giới Nghiêm
Tỳ Kheo Thích Hoằng Đạo
Tỳ Kheo Thích Hoằng Thường
Tỳ Kheo Thích Huệ Chiểu Chùa Đại Vân Ở Chuy Châu
Tỳ Kheo Thích Minh Điền
Tỳ Kheo Thích Minh Định
Tỳ Kheo Thích Minh Trí
Tỳ Kheo Thích Nguyên Chứng
Tỳ Kheo Thích Tâm Hạnh
Tỳ Kheo Thích Thanh Giác
Tỳ Kheo Thích Thiện Hạnh
Tỳ Kheo Thích Thiện Trang
Tỳ Kheo Thích Thông Huệ
Tỳ Kheo Thích Viên Ngộ
Tỳ Kheo Visuđhacara



Lòng từ bi càng nặng, trí tuệ sẽ càng cao, phiền não cũng càng ít. Đối mặt với nhiều tình huống, chỉ cần dùng trí tuệ để giải quyết mọi việc, dùng từ bi đối xử với mọi người mà không lo lắng được mất của bản thân, ắt sẽ không có điều phiền muộn.