Niệm Phật Với Ngũ Căn
Thượng Tọa Thích Phổ Huân

Ngũ căn là năm căn, năm phần căn bản, cội rễ phát sinh ra thiện pháp. Năm phần đó là:
 
Tín căn
Tinh tấn căn
Niệm căn
Định căn
Huệ căn
 
a) Niệm Phật cần có Tín căn
 
Trong năm căn, Tín căn được đặt trước tiên, điều này cho thấy tin là bước đầu tiên hành trì mọi pháp. Trong kinh Phạm-Võng có nói "Tất cả các hạnh lấy tin làm đầu. Tin là cội gốc của các công đức ". Cũng không kể là pháp sâu cạn, cao thấp nếu không có lòng tin việc tu hành sẽ không thành đạt. Kinh Tiểu Địa Quán dạy "Vào biển Phật Pháp, lòng tin là gốc...". Nhưng lòng tin ở đây phải đến từ lý trí sáng suốt, hiểu biết minh mẫn, hẳn không phải là tin càng, tin bướng một cách mù quáng, vô minh. Kinh Niết Bàn dạy "Tin mà không hiểu vô minh thêm nhiều. Hiểu mà không tin, tà kiến thêm lớn."
 
Ở pháp Tín căn đây, nhắc người Phật tử trước khi vào biển Phật phải có niềm tin căn bản. Niềm tin căn bản này là tin ba ngôi Tam Bảo, là Phật, Pháp, Tăng.
 
-Tin Phật: Là đấng vẹn toàn về đức tánh Hùng lực, Từ bi, Trí tuệ. Ngài không phải là vị thần linh, ban ơn, giáng họa hay bậc Thánh thần để ta thờ cúng van xin, mà chỉ đơn giản tin rằng Phật chỉ là một con người thanh tịnh, giác ngộ hoàn mỹ. Tin như vậy để thấy rằng chúng ta cũng có tánh giác như Phật, nhưng chỉ khác Phật ở chỗ chúng ta chưa được hoàn mỹ mà thôi.
 
-Tin Pháp: Trí huệ của Phật là siêu việt thì giáo pháp, lời dạy của Phật phải là chân lý. Hơn nữa giáo pháp Ngài dạy không phải của riêng Ngài, giáo pháp ấy bàng bạc trong không gian vô tận và thời gian vô thỉ vô chung. Đức Phật chỉ là người giác ngộ từ giáo pháp ấy rồi dạy lại chúng ta. Do vậy giáo pháp đó là chân lý không phải thần kỳ, huyền hoặc.
 
-Tin Tăng: Những đại đệ tử của Phật thật tu thật chứng nhiều vô số. Các Ngài đã thay Phật đem ánh sáng giác ngộ trải rộng đến muôn người muôn vật. Và cũng chính nhờ vậy mà giáo pháp muôn thuở ấy mới tồn tại mãi đến ngày nay.
 
Lược qua ba đức tin căn bản, người Phật tử sẽ vững vàng bước đi vào đạo mà không sợ vấp ngã.
 
Đối với pháp niệm Phật ở Tín căn, người niệm Phật phải xem đây là điều kiện tiên quyết. Bởi niệm Phật có nhất tâm hay không là do ở niềm tin xác đáng. Nay ta đã tin Phật Thích Ca, thì phải tin Phật A Di Đà, vì lời Phật dạy không bao giờ sai dối; và đã tin Phật A Di Đà thì lời nguyện tiếp dẫn của Ngài (Phật A Di Đà) hẳn phải là sự thật. Người niệm Phật tin được như thế, dẫn đến sự trì niệm thâm sâu hơn.
 
b) Tín căn trong pháp niệm Phật
 
Việc học, việc làm ở thế gian có được thành công, là do siêng năng cần cù, nhẫn nại không nản chí, thì việc học Phật là việc cao thượng tinh tế khó hành, không thể thiếu tánh đức siêng năng được.
 
Khi đã có được lòng tin vững chắc về ba ngôi Tam Bảo, người Phật tử phải tiếp theo dùng nghị lực tinh tấn của mình mà thực hành theo giáo pháp; nếu không niềm tin ấy chẳng mang một ý nghĩa gì. Vậy tính căn là sự siêng năng không ngừng nghỉ trên con đường đạo. Trong kinh Bồ Tát Bổn Hạnh, Phật dạy rõ ràng về lợi ích của tinh tấn. "...Người tại gia mà biết tinh tấn thì ăn mặc đầy đủ, sự nghiệp rộng lớn, xa gần được người tán thưởng khen ngợi. Người xuất gia mà biết tinh tấn, thì thành tựu được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dứt được trôi lăn sinh tử, được đến bến bờ Niết Bàn an vui."
 
Niệm Phật đối với tính căn lại càng được đặt nặng hơn hết. Bởi vì rốt ráo việc niệm Phật là mong sao được nhất tâm trong câu niệm Phật, mà muốn được vậy phải luôn luôn tinh tấn niệm niệm tương tục; có nghĩa làm cho câu niệm kết nối nhau như dòng nước chảy không đứt đoạn. Và trong câu niệm đó chẳng những không mống khởi điều xấu ác, mà điều thiện lành cũng không có mặt. Niệm được như thế mới là tấn tu trong niệm Phật. Do vậy ta thấy rằng dù người Phật tử tại gia hay xuất gia đều phải tinh tấn hành đạo. Không gia công tinh tấn, thì mọi pháp môn tuyệt diệu, cao siêu nào đi nữa cũng là hư vọng. Ngược lại quyết tâm bền chí, tinh tấn pháp môn nào khó đến đâu cũng dễ thành công. Do đó tinh tấn là tối quan trọng là tối căn bản của người Phật tử.
 
c) Niệm căn trong niệm Phật
 
Cuộc sống rối ren, hỗn độn hằng ngày ảnh hưởng rất nhiều vào tâm niệm con người. Từ đây là nguyên nhân sanh ra những thao thức, bất an chập chờn trong tâm thức. Ở xã hội văn minh không ai lại không ít nhiều bị lôi cuốn vào cuộc sống rối ren này.
 
Muốn dừng lại tâm niệm lăng xăng để hướng về tâm niệm đơn thuần, chúng ta chỉ có cách chuyển tạp niệm thành nhất niệm.
 
Niệm căn là niệm tưởng căn bản quy về thiện niệm, là sự ghi nhớ thuần chất quy về thiện pháp. Sự ghi nhớ này về một đối tượng thanh cao trong sáng đẩy lùi tạp niệm xấu xa. Hình ảnh đức Phật, giáo lý giải thoát là mục tiêu để tăng trưởng niệm căn được thành tựu.
 
Hành trì niệm Phật là hợp nhất với pháp niệm căn thanh tịnh, vì niệm Phật là ghi nhớ pháp lành, là trau dồi ý tưởng đạt đến trạng thái trong sáng ở tâm hồn.
 
Ghi nhớ niệm Phật còn được chư Phật hộ niệm, giao cảm như lúc nào cũng gần gũi với Phật. Trong kinh Niết Bàn Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ thường hay chí tâm chuyên niệm Phật, hoặc ở núi rừng, hoặc ở thôn xóm, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc ngồi hoặc nằm, các đức Phật Thế Tôn thường thấy người này như trước mặt (40)".
 
d) Định căn trong niệm Phật
 
Khi niệm căn được thuần thục, khắc ghi vào tâm các pháp lành ý thiện. Tâm thức của chúng ta bây giờ sẽ ngừng lại những lăng xăng, loạn động chỉ còn lại sự chuyên nhất vào pháp thanh tịnh. Giữ được trạng thái an lạc nhất như này gọi là định căn. Công năng của định căn đào luyện con người có được tính tập trung, khả năng chịu đựng, sự nhận định sáng suốt. Kinh Di Giáo Phật dạy "... Nếu người nhiếp tâm thì tâm ở trong định, nên có thể biết được pháp tướng sanh diệt trong thế gian. Thế nên các ông phải thường tinh tấn tu các thiền định, nếu được định rồi thì tâm không còn tán động. Ví như người giữ nước, khéo giữ đê điều. Cũng thế hành giả vì nước trí huệ, khéo tu thiền định khiến cho không bị chảy mất."
 
Người niệm Phật chuyên tâm vào hồng danh Phật cũng sẽ được chánh định không khác gì thiền quán. Bởi vì lìa tán loạn an trú vào một chỗ đạt đến thanh tịnh là được chánh định, mà niệm Phật là niệm pháp lành, pháp thiện để đạt được định tâm cho nên không khác vậy.
 
e) Niệm Phật với tuệ căn
 
Từ ghi nhớ các pháp lành (niệm căn) đến được an tịnh (định căn), tới đây tư tưởng sẽ bừng sáng, trong lành không còn ô nhiễm, do đó dẫn đến tuệ căn.
 
Tuệ căn là căn tánh trí tuệ tinh khiết, sáng suốt trong đó không có sự phân biệt mê lầm vọng động. Vì thế với tuệ căn sáng suốt ta có thể thực hành quán sát nhận chân ra mọi việc thật hư, liên quan tới việc giải thoát sinh tử như kinh Trường A Hàm có dạy "Dùng trí huệ quán sát việc sống chết...(42)" Lại kinh Di Giáo đức Phật đã nhấn mạnh việc hệ trọng của người có trí huệ và không trí huệ "Tỳ kheo các ông! Nếu người có trí huệ thì không có tham trước, thường tự tinh sát (suy xét) không để sanh ra tội lỗi. Thế là ở trong pháp của ta có thể được sự giải thoát. Nếu chẳng vậy, đã chẳng phải là bậc đạo nhân, lại cũng chẳng phải là kẻ bạch y (cư sĩ), không biết gọi là gì! Người có trí huệ chân thật, ấy là chiếc thuyền tốt có thể vượt qua biển già, bịnh, chết; cũng là ngọn đèn sáng chiếu phá cảnh tối tăm, mờ ám; là món thuốc hay trị tất cả các chứng bệnh, là lưỡi búa bén chặt đứt cây nghiệp phiền não..."
 
Do vậy trí tuệ phải là quan trọng đối với người tu Phật. Người niệm Phật cũng cần có trí tuệ sáng suốt. Phải niệm Phật trong niềm tin vững chắc, phải xác nhận việc sinh tử là gốc luân hồi, và quan trọng hơn phải biết pháp tu niệm Phật viên dung cả lý và sự. Về lý: nên hiểu rằng tâm Phật và tâm ta không khác nhưng vì ta luôn sống trong động, nên chơn tâm không phát lồ được. Và khi đã thanh tịnh nhất tâm thì việc niệm Phật chỉ là việc khơi dậy Phật tánh mà thôi. Cũng như cõi Cực Lạc Tây Phương có cách xa cõi Ta Bà bao nhiêu cũng chỉ trong một niệm của ta. Do vậy trang nghiêm tâm niệm cũng là trang nghiêm cõi Tịnh Độ.
 
Về sự: Nếu cõi Ta Bà ta sống đây là thật, là huyễn thì cõi Cực Lạc cũng không khác, và việc sinh về Cực Lạc lại không khác gì việc con người bị luân hồi trở lại cõi Ta Bà này. Cũng thế, trở lại cõi Ta Bà do tâm niệm, thì được sanh về Cực Lạc cũng do tâm niệm mà ra. Cho nên cõi Cực Lạc cách đây mười vạn ức Phật độ vẫn là một cõi thực có.

 
Trích từ: Hương Thơm Niệm Phật
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ

Kinh Sách Liên Quan

   
1 Niệm Phật Nhất Định Được Vãng Sanh, Hòa Thượng Thích Giác Qủa Tải Về
2 Niệm Phật Cảnh, Hòa Thượng Thích Minh Thành Tải Về
3 Niệm Phật Tứ Đại Yếu Quyết, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về
4 Niệm Phật Chỉ Nam, Hòa Thượng Thích Minh Thành Tải Về
5 Niệm Phật Thành Phật, Hòa Thượng Thích Phước Nhơn Tải Về
6 Ý Nghĩa Chân Thật Của Bổn Nguyện Niệm Phật, Cư Sĩ Diệu Âm Tải Về
7 Niệm Phật Thành Phật, Cư Sĩ Diệu Âm Tải Về
8 Khuyên Tu Pháp Môn Niệm Phật, Thích Nguyên Anh Tải Về
9 48 Pháp Niệm Phật, Sa Môn Thích Tịnh Lạc Tải Về
10 Niệm Phật Vô Tướng, Cư Sĩ Hạnh Cơ Tải Về
11 Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận, Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh Tải Về
12 Niệm Phật Thập Yếu, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Tải Về
13 Niệm Phật Chuyển Hóa Tế Bào Ung Thư, Hòa Thượng Thích Minh Quang Tải Về
14 Niệm Phật Dẫn Đi Khỏi Luân Hồi, Mạt Nhân Đạo Quang Tải Về
15 Niệm Phật Pháp Yếu, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về

Sám Hối Nghiệp Chướng
Pháp Sư Thích Tự Liễu

Chuyện Về Cảnh Giới Chúng Sanh
Thượng Tọa Thích Phổ Huân

Niệm Phật Để Tìm Lại Chính Mình
Thượng Tọa Thích Phổ Huân

Niệm Phật Với Tứ Niệm Xứ
Thượng Tọa Thích Phổ Huân

Niệm Phật Với Tứ Chánh Cần
Thượng Tọa Thích Phổ Huân

Niệm Phật Với Tứ Như Ý Túc
Thượng Tọa Thích Phổ Huân