Home > Khai Thị Niệm Phật
Phát Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc
Hòa Thượng Thích Trí Thủ


Tiết Thứ 1. Tánh Cách Trọng Yếu của Sự Phát Nguyện

Trong một chương trước đã nói sự quan trọng của lòng tin, nay xin giải rõ tính cách trọng yếu của sự phát nguyện.

Ngài Ngẫu Ích Đại Sư nói: "Được vãng sanh hay không là do Tín Nguyện có hay không; còn phẩm vị vãng sanh cao hay thấp là tùy việc trì danh sâu hay cạn".

Ở đây, chưa bàn đến phẩm vị cao thấp sau khi vãng sanh. Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết là có được vãng sanh hay không đã. Vì vậy, chưa bàn đến vấn đề hành trì sâu hay cạn, mà chỉ nên bàn đến tín, nguyện có hay không thôi.

Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương sanh về Tịnh Ðộ. Nếu tư lương không đủ, quyết không được vãng sanh. Vì thế, sự phát nguyện chiếm một địa vị tối quan trọng trong pháp môn tu Tịnh Ðộ.

Đức Phật A Di Đà ngày xưa phát 48 lời nguyện làm duyên khởi tạo thành thế giới Cực Lạc. Từ đó về sau, chúng sanh trong mười phương đều lấy sự phát nguyện vãng sanh làm căn cứ tu hành của tông Tịnh Ðộ. Một đàng, Phật nguyện tiếp dẫn, một đàng chúng sanh nguyện vãng sanh, hai nguyện gặp nhau, hai lực lượng tự, tha, hỗ trợ nhau mới đủ sức kết thành quả vãng sanh. Vì thế, người tu tịnh nghiệp quyết phải phát nguyện dõng mãnh.

Trong 48 lời đại nguyện của đức A Di Đà. Lời đại nguyện thứ 19 nói một cách rõ ràng rằng nếu có người chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước Ngài, lúc lâm chung nhất định Ngài sẽ đến tiếp dẫn. Cho nên, hễ có phát nguyện là quyết định phải được vãng sanh.

Lại nữa trong kinh "Phật thuyết A Di Đà" đức Phật Thích Ca bảo Ngài Xá Lợi Phất "Nếu có người đã phát nguyện, đương phát nguyện, sắp phát nguyện, nguyện sanh về thế giới đức Phật A Di Đà, các người ấy tất đã sanh, hoặc đương sanh hoặc sắp sanh tại thế giới kia, và, hết thảy đều được quả bất thoái chuyển vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác". Đoạn trích dẫn đây cũng thuyết minh rằng hễ có phát nguyện tức có vãng sanh vậy.

Lại nữa, trong kinh Hoa Nghiêm cũng từng dạy rằng: "Người ấy khi gần lâm chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn thảy đều bại hoại, tất cả thân thuộc đều xa rời, tất cả uy thế đều tan rã... chỉ còn nguyện vương là hằng cùng theo dõi, hướng dẫn trước mắt; trong một khoảnh khắc, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc". Căn cứ vào các kinh văn trích dẫn trên đây, ta thấy công dụng của phát nguyện là như thế nào rồi vậy.

Bây giờ, trên thực tế, đây là câu chuyện mà thầy Bạch Sa ở Quy Nhơn đã kể cho tôi nghe:

Bà Thái Xương, vợ một Hoa kiều buôn bán ở Quy Nhơn, là một đàn việt chùa Bạch Sa và đã giúp thầy ấy kiến tạo ngôi chùa Bạch Sa hiện nay. Bà chuyên tu pháp môn Niệm Phật và chỉ phát nguyện khi thọ chung được gặp ngày vía đức A Di Đà (tức ngày 17 tháng 11 âm lịch) và được biết trước giờ thọ chung ấy. Năm bà mất, đã 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Đầu tháng 11 năm ấy, bà đến xin thầy Bạch Sa tụng cho một bộ kinh Thủy Sám và một bộ kinh Pháp Hoa để kịp đến ngày 17 tháng ấy bà về chầu Phật. Thầy Bạch Sa lấy làm kinh ngạc vô cùng, nhưng vì bà là bổn đạo thuần thành đã lâu năm nên thầy cũng phải chiều theo. Đến ngày 17, bà con và đạo hữu mà cái tin ấy đã làm cho họ kinh ngạc, tụ tập đến nhà bà rất đông để thỏa mãn tánh hiếu kỳ. Suốt buổi sáng hôm ấy, bà vẫn khỏe mạnh và bình tĩnh như thường ngày, khiến thầy Bạch Sa trong thâm tâm rất e sợ, không khéo phen nầy làm trò cười cho thiên hạ. Bỗng đâu đến khoảng quá 10 giờ sáng, bà bảo người giúp việc in một in cơm đem lên nhờ thầy cúng Phật rồi đem xuống cho bà, bà chắn in cơm làm hai phần, tự mình ăn một nửa, còn một nửa bảo người giúp việc ăn mà từ tạ rằng: "Gọi là đền đáp công ơn bà giúp đỡ tôi trong mười mấy năm trường, nay đến ngày vĩnh biệt, xin biếu bà ăn nửa phần cơm nầy để sau nhờ Phật tiếp dẫn về Tây phương". Nói xong, rửa mặt súc miệng và thay áo quần thì đúng 12 giờ trưa. Bà chào tất cả mọi người, ngồi xếp bằng, hai tay chắp trước ngực mà hóa một cách vui vẻ trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người trong nhà. Năm ấy ở Quy Nhơn, thiên hạ xôn xao bàn tán rất nhiều về cái chết của bà Thái Xương, tiếng bà thành Phật lan ra khắp các tỉnh.

Xem đó đủ biết sự phát nguyện vãng sanh Cực Lạc là một điều tối cần thiết cho người tu theo pháp môn Tịnh Ðộ. Phát nguyện là một nhu kiện không thể không có, ta không nên sơ suất để phải mất công hiệu và lợi ích rất lớn về sau.

Từ xưa nay, người tu theo pháp môn Tịnh Ðộ đã làm ra rất nhiều bài nguyện vãng sanh Cực Lạc. Mỗi bài đều có một ý nghĩa hoặc sâu hoặc cạn nhưng mục đích chung vẫn là:

"Nguyện khi thân mạng gần chung, biết trước giờ chết mà thân tâm vẫn được an vui, được thấy Phật và Bồ Tát đến tiếp dẫn".

Trong các bài phát nguyện, nổi tiếng nhất là bài "Khể Thủ Tây Phương" của Ngài Liên Trì Đại sư, bài "Nhất tâm quy mạng" của Ngài Từ Vân Sám chủ, bài "Thập phương tam thế Phật" của Ngài Đại Từ Bồ Tát. Bài nào bài nấy, lời văn rất hay, ý nghĩa rất đầy đủ và hàm súc. Trong quốc văn ta thì có bài "Đệ tử chúng con từ vô thủy" và bài "Đệ tử kính lạy". Sau một thời kinh và trì niệm danh hiệu Phật, ta nên vận hết thành tâm đọc một trong những bài ấy, hoặc đọc tiếp hai ba lần cũng được. Đọc như thế tức là mượn lời văn để tự mình phát lời nguyện vậy. Lúc lâm chung, nhất định sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh thế giới Cực Lạc.

Nếu không muốn lắp theo khuôn có sẵn, ta có thể tự mình viết lấy bài phát nguyện riêng cho thích hợp cũng được. Đại cương lời phát nguyện không ngoài việc cầu vãng sanh, cầu Phật tiếp dẫn, cầu chứng quả, để trở lui tam giới cứu độ chúng sanh đồng sanh Lạc quốc. Còn nếu muốn thêm những chi tiết nào thâm thiết khác, ấy là tùy hoàn cảnh và sở nguyện riêng từng người.

Trong văn phát nguyện bao giờ cũng có câu cầu Phật và chúng Bồ Tát đến tiếp dẫn là vì lẽ gì? Xin thưa:

Người tu Tịnh Ðộ nếu công phu chưa được thuần thục, thường hay bị hãm vào trong những trạng thái sau đây, nên khi lâm chung không niệm được, hoặc lắm khi cũng không kịp mời người khác hộ niệm giùm. Các trạng thái ấy có thể là: hoặc vì bệnh khổ bức bách nên sinh hôn mê, hoặc bị bà con thương tiếc khó bề xả bỏ nên sinh si luyến, hoặc vì sự nghiệp của tiền khó dứt lòng tham đắm nên sinh bi ai, hoặc vì thù hận đầy dẫy khó giải nỗi lòng nên sinh sân hận v.v... Đó là chưa kể các trường hợp hoạnh tử, miệng chưa kịp niệm đã vong.

Nếu lúc gần lâm chung mà không được Phật hiện đến tiếp dẫn thì không những không được vãng sanh, lại còn vì các sự đau khổ tham sân luyến tiếc mà bị đọa lạc ba đường dữ nữa là khác. Vì các lý do ấy nên trong văn phát nguyện, bao giờ cũng cầu Phật đến trước để tiếp dẫn mới là chu toàn. Sự phát nguyện hằng ngày có thể ở tại chùa vào bất luận giờ nào cũng được, miễn là sau khi lễ Phật xong thì quỳ ngay trước điện Phật mà đọc lời phát nguyện. Nếu ở nhà có bàn thờ Phật thì hằng ngày nên đốt hương lạy Phật rồi phát nguyện. Hoặc giả nếu không tiện thờ Phật thì viết câu: "Nam mô Thập phương Tam thế Phật Bồ Tát" dán lên trên vách, hằng đêm trước khi đi ngủ, đối mặt vào vách mà đốt hương phát nguyện. Gặp khi đi đường, chưa kịp trở về thì nên xây mặt về hướng Tây chắp tay niệm năm, mười hiệu Phật rồi lâm râm đọc lời phát nguyện. Ta lại có thể phát nguyện mỗi khi làm được một việc thiện nào, bất luận lớn nhỏ v.v...

Trong nghi lễ phát nguyện, đều tuyệt đối cấm hẳn là không được đối trước đền, tháp thờ thần thánh, ma quỷ mà phát nguyện.

Tiết Thứ 2. Giới Thiệu Vài Bài Phát Nguyện Của Người Xưa Và Nghi Thức Phát Nguyện

a) Nội Dung Phát Nguyện

Bài của Ngài Từ Vân Sám Chủ:

Nguyên Văn:

Nhất tâm quy mạng!
Cực LạcThế giới
A Di Đà Phật.
Nguyện dĩ tịnh quang chiếu ngã
Từ thệ nhiếp ngã
Ngã kim chánh niệm
Xưng Như Lai danh
Vị Bồ đề đạo
Cầu sanh Tịnh Ðộ
Phật tích bổn thệ:
"Nhược hữu chúng sanh,
Dục sanh ngã quốc,
Chí tâm tín nhạo,
Nãi chí thập niệm,
Nhược bất sanh giả,
Bất thủ Chánh Giác".
Dĩ thử niệm Phật nhân duyên
Đắc Nhập Như Lai
Đại thệ hải trung
Thừa Phật từ lực
Chúng tội tiêu diệt.
Thiện căn tăng trưởng
Nhược lâm dục mạng chung
Dự tri thời chí
Thân vô bệnh khổ
Tâm bất tham luyến
Ý bất điên đảo
Như nhập Thiền Ðịnh
Phật cập Thánh chúng
Thủ chấp kim đài
Lai nghinh tiếp ngã
Ư nhất niệm khoảnh
Sanh Cực Lạc quốc.
Hoa khai kiến Phật
Tức văn Phật thừa
Đốn khai Phật huệ
Quảng độ chúng sanh
Mãn Bồ đề nguyện.
Dịch:
Một lòng quy kính
Phật A Di Đà
Thế giới Cực Lạc
Nguyện lấy tịnh quang chiếu con
Từ thệ nhiếp con
Con nay chánh niệm
Xưng hiệu Như Lai
Vì đạo Bồ đề
Cầu sanh Tịnh Ðộ.
Phật xưa có thề:
"Nếu có chúng sanh,
Muốn sanh nước ta,
Hết lòng tín niệm,
Dù chỉ mười niệm,
Mà chẳng đặng sanh,
Thề chẳng làm Phật".
Nhờ nhân duyên niệm Phật nầy
Được vào trong biển đại thệ
Của đức Như Lai
Nhờ từ lực Phật
Các tội tiêu diệt.
Căn lành tăng trưởng
Khi thân mạng gần chung
Biết trước giờ chết
Thân không bệnh khổ
Tâm không tham luyến
Ý không điên đảo
Như vào thiền định
Phật và Thánh chúng
Tay nâng kim đài
Đến nghinh đón con
Trong khoảng một niệm
Sanh về Cực Lạc.
Sen nở thấy Phật
Liền nghe Phật thừa
Bừng tỏ Phật huệ
Lui về độ sanh
Tròn nguyện Bồ đề.
Bài của Ngài Đại Từ Bồ Tát:
Nguyên văn:
Thập phương Tam thế Phật
A Di Đà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sanh
Uy đức vô cùng cực.
Ngã kim đại quy y
Sám hối tam nghiệp tội.
Phàm hữu chư phước thiện
Chí tâm dụng hồi hướng
Nguyện đồng niệm Phật nhơn
Cảm ứng tùy thời hiện
Lâm chung Tây phương cảnh
Phân minh tại mục tiền
Kiến văn giai tinh tấn
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
Kiến Phật liễu sanh tử
Như Phật độ nhất thế.
Vô biên phiền não đoạn
Vô lượng pháp môn tu
Thệ nguyện độ chúng sanh
Tổng nguyện thành Phật đạo.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Tình dữ vô tình
Đồng viên chủng trí.
Dịch:
Trong ba đời mười phương
Phật A Di Đà thứ nhất
Chín phẩm độ chúng sanh
Uy đức cao tột bậc.
Con nay nguyện quy y
Sám hối tội ba nghiệp.
Phàm làm được phước thiện
Thảy nhất tâm hồi hướng
Nguyện cùng người niệm Phật
Tùy thời niệm cảm ứng
Khi lâm chung thấy rõ
Cảnh Tây phương trước mắt;
Thấy nghe đều tinh tấn
Đồng sanh về Cực Lạc.
Thấy Phật đoạn sanh tử
Như Phật độ hết thảy.
Dứt vô biên phiền não
Tu vô lượng pháp môn
Độ hết thảy chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Hư không có hạn
Nguyện con không cùng
Hữu tình vô tình
Đều trọn trí giác.
Một bài phát nguyện khác:
Nguyên văn:
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm ư Phật độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Giai phát Bồ đề tâm.
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
Dịch:
Nguyện đem công đức nầy
Trang nghiêm nơi cõi Phật
Trên đền bốn ơn sâu
Dưới độ ba đường khổ.
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ đề.
Khi báo thân nầy mãn
Đồng sanh về Cực Lạc.
b) Nghi Thức Phát Nguyện.
Chuẩn bị: Rửa tay, súc miệng, y phục chỉnh tề.
Hành lễ: Đến trước Phật đài đốt hương cúng dường Phật.
Chấp tay trước ngực đọc:
Đại từ, đại bi thương chúng sanh
Đại hỷ, đại xả cứu muôn loài
Tướng tốt rực rỡ tự trang nghiêm
Đệ tử lòng thành xin đảnh lễ.
Nam mô Thập phương thường trú Tam Bảo (lạy 1 lạy)
Đệ tử, pháp danh... nguyện quy y Phật, là Đấng Phước Huệ vô biên. Thề đời đời kiếp kiếp không quy y thiên thần, quỷ vật. (1 lạy)
Đệ tử, pháp danh... nguyện quy y Pháp, là nền Giáo lý vô thượng. Thề đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo, tà giáo. (1 lạy)
Đệ tử, pháp danh... nguyện quy y Tăng, là những bậc Thánh hiền thanh tịnh. Thề đời đời kiếp kiếp không quy y tổn hữu, ác đảng. (1 lạy)
Nam mô Sa Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực LạcThế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật (1 lạy)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (1 lạy)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (1 lạy)
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (1 lạy)
Nam mô Thập Phương Tam Thế Nhất Thiết chư Phật, vô lượng Bồ Tát (1 lạy)
Xong quỳ niệm danh hiệu Phật (càng nhiều càng tốt).
Tiếp theo, đọc lời phát nguyện (một trong các bài trên).
Đọc xong lời phát nguyện, đứng dậy, đọc Tam Tự Quy Y và Hồi Hướng:
Tam Tự Quy Y:
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh thể nhập đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấm nhuần giáo lý (hay thấu rõ kinh tạng ), trí huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
Hồi Hướng:
Nguyện đem công đức nầy
Chung cùng khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
( vái 3 vái, lui ra)

Có thể áp dụng nghi thức nầy hằng ngày, hoặc một thời, hoặc hai thời, trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy.

Nếu nhà không thiết được bàn Phật thì ngồi ngay ngắn trên giường hay trước bàn viết, bàn ăn, chắp tay ngang ngực, quán tưởng như có tượng Phật trước mặt, rồi đọc trọn cả nghi thức như trên. (Chỗ nào trong nghi thức có ghi 1 lạy thì thay vào 1 vái). Điều cốt yếu là phải thật hành đều đều và nhất thiết tránh cho được cái thông bệnh là "thủy cần chung đãi" (trước siêng sau nhác).



Kinh Sách Liên Quan

 
1.    Khuyên Người niệm Phật cầu sinh tịnh độ, Chu An Sĩ | Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến, Việt Dịch
2.    Lá Thư Tịnh Độ, Đại Lão Hòa Thượng Thích Ấn Quang | Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Việt Dịch
3.    Long Thư Tịnh Độ, Vương Nhựt Hưu | Đại Lão Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Việt Dịch
4.    Pháp Môn Hạnh Phúc, Đại Lão Hòa Thượng Thích Tinh Vân | Nguyên Phố, Việt Dịch
5.    Pháp Môn Tịnh Độ, Hòa Thượng Thích Trí Thủ
6.    Tịnh Độ Cảnh Ngữ, Bồ Tát Bật Sô Hành Sách Triệt Lưu | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
7.    Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
8.    Tịnh Độ Hoặc Vấn, Đại Sư Duy Tắc Thiền sư Thiên Như Đời Dao Tần | Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Việt Dịch
9.    Tịnh Độ Ngũ Kinh, Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Việt Dịch
10.    Tịnh Độ Nhập Môn, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Diệu Âm, Việt Dịch
11.    Tịnh Độ Pháp Ngữ, Nhiều Dịch Giả, Việt Dịch
12.    Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận, Sa Môn U Khê Truyền Đăng, ở núi Thiên Thai | Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Việt Dịch
13.    Tịnh Độ Tập Yếu, Thích Nữ Minh Tâm
14.    Tịnh Độ Thập Nghi Luận, Đại Sư Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả | Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Việt Dịch
15.    Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp, Thượng Tọa Thích Minh Tuệ
16.    Tịnh Độ Vấn Đáp, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Thích Nhuận Nghi, Việt Dịch
17.    Tịnh Độ Vựng Ngữ, Đại Sư Liên Trì | Hòa Thượng Thích Minh Thành, Việt Dịch
18.    Tuyển Tập Khuyến Tu Tịnh Độ, Nguyễn Long