Ðiều cuối cùng là ‘Tin sâu nhân quả, Ðọc tụng Ðại thừa’. Hiện tượng y chánh trang nghiêm trong mười pháp giới là quả báo; quả báo rất phức tạp, nếu nói đến trình độ phức tạp thì sự phức tạp của nhân phải có tỷ lệ tương đương với quả. Trong những nhân quả phức tạp như vậy chúng ta phải cẩn thận để ý, thời thời khắc khắc luôn luôn cảnh giác tuyệt đối không tạo ra nhân ác.
Lúc ban đầu khi tôi tiếp xúc tới Phật pháp, chỗ khâm phục đức Phật nhất là ngài chỉ dạy bạn tự lo cho mình [nhìn lỗi của mình], mà không dạy bạn nhìn [lỗi] người khác. Chỗ này chúng ta khâm phục đến sát đất, những giáo giới mà đức Phật dạy đều nhằm răn dạy một cá nhân của mình mà không dạy người khác. Nếu chúng ta không từ chỗ này đi vào cửa Phật, bạn muốn đạo nghiệp thành tựu sớm hơn thì tuyệt đối không thể nào làm được.
Vì trung tâm của sự tu học Phật pháp là thiền định và tâm thanh tịnh.
Nếu bất cứ lúc nào cũng lo nghĩ đến hoàn cảnh bên ngoài, phân biệt đến hoàn cảnh bên ngoài, bạn thử nghĩ coi khi nào bạn mới đắc được định? Vĩnh viễn không hy vọng có ngày đắc được.
Nếu bạn muốn thiệt sự đắc đuợc thiền định, thành tựu được tâm thanh tịnh, phải hoàn toàn không theo đuổi sự việc và cảnh giới bên ngoài, hãy quay vào trong tâm mà dụng công, đây là chỗ cao siêu của Phật Pháp. Cho nên Phật Pháp đuợc xưng là ‘Nội Học’, là dạy bạn không hướng ra bên ngoài mà theo đuổi và tìm cầu. Cảnh giới bên ngoài, khi gặp cảnh thuận hoặc gặp cảnh nghịch cũng vậy, gặp người tốt hoặc gặp người xấu cũng vậy, bạn cũng đừng để ý đến. Chúng ta dùng tâm chân thành để đối xử với sự việc bên ngoài; cảnh thuận cảnh nghịch cũng như nhau, người xấu người tốt cũng như nhau, nhất định không dùng hai tâm niệm khác nhau. Bạn có thể dùng một tâm chân thành này để đối đãi với người thì người tốt khen ngợi bạn, người xấu cũng khen ngợi bạn vì người xấu được bạn cảm hóa nên họ sẽ dứt ác tu thiện.
Lục Tổ nói một câu rất hay: ‘Nếu là người tu đạo chân thật thì không thấy lỗi lầm của người khác trong thế gian’. Nếu thường thấy lỗi lầm của người khác thì mình sẽ thất bại. Ngày nay chúng ta mắc phải một căn bịnh rất trầm trọng, mỗi ngày từ sáng đến tối đều nhìn thấy lỗi lầm của người khác nhưng không thấy lỗi của mình. Ðến khi nào chúng ta có thể không thấy lỗi người khác mà chỉ thấy lỗi của mình thì chúng ta sẽ thành công. Công phu của bạn sẽ đắc lực, bạn sẽ gặt hái được sự lợi ích chân thật.
Người khác làm cái gì và làm như thế nào cũng có nhân quả riêng của họ. Quan trọng là nhân quả của mình, nhân quả của người khác chúng ta không thể nhận chịu thay thế cho họ mà cũng không thể giúp họ thay đổi. Hơn nữa trong thời đại hiện nay, ai chịu nói lỗi lầm của người khác? Người xưa cũng không nói; chúng ta đọc trong sách Lễ Ký viết hồi thời nhà Hán xem người nào chịu nói ra lỗi lầm của bạn? Chỉ có hai người, một là cha mẹ của bạn, hai là thầy giáo của bạn. Họ có trách nhiệm nói ra lỗi lầm của bạn mà bạn không phản đối lại. Bạn bè nếu nói ra sẽ có sự xích mích thù hận lẫn nhau rồi sẽ tìm cách trả thù. Cho nên không ai chịu nói ra lỗi lầm của người khác hết.
Chư Phật Bồ Tát giảng kinh thuyết pháp thường dùng cách nói khéo mà nhắc nhở, để cho chúng ta nghe rồi suy nghĩ xem tự mình có phạm lỗi đó hay không. Nếu có thì mau mau sửa đổi, đó là ‘nếu có sai thì sửa đổi, nếu không thì khuyến khích ngăn ngừa’. Chư Phật Bồ Tát không chỉ trích lỗi lầm của chúng ta mà chỉ nói một cách gián tiếp khiến cho chúng ta tự mình phản tỉnh, tự mình giác ngộ. Tâm của họ là tâm thanh tịnh, nên những lỗi lầm đề cập trong kinh luận thực ra là Phật không thấy lỗi lầm của bất cứ một người nào; đây là sự cao siêu thâm áo của những phương pháp răn dạy của Phật, tất cả đều không đánh mất tâm thanh tịnh.
Chúng ta phải từ những điểm này mà thể hội, mà phản tỉnh, mà hiểu được lòng từ bi chân thành của chư Phật Bồ Tát, vô cùng từ bi; chỉ cần chúng ta nỗ lực, y theo lời dạy mà tu hành, bạn có thể không để ý đến hoàn cảnh, tự nhiên có Phật hộ niệm, thần Hộ pháp sẽ lo cho bạn; bạn không cần phải lo có người đến phá hoại hoặc gây ra chướng ngại. Nếu không như vậy thì người khác chưa đến phá khuấy mà ngược lại chính bạn đã gây chướng ngại cho mình. Bạn nghĩ đến những chuyện này để làm gì? Ðó chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước phá hoại bạn trước. Ðây là lý do tại sao chúng ta phải nhìn thấu, phải buông xả.
Phải tin sâu sự hộ niệm của chư Phật; hộ niệm nghĩa là tất cả chư Phật Như Lai thường thường tưởng nhớ đến bạn, thường lo lắng đến bạn. Ðây là sự thật không phải giả. Thiện thần hộ pháp tôn kính, khâm phục, và ủng hộ bạn. Nếu lúc nào bạn cũng đề phòng cái này, đề phòng chuyện kia, Phật sẽ không hộ niệm cho bạn nữa, thần Hộ pháp cũng sẽ không chiếu cố đến bạn nữa. Bạn suy nghĩ xem nên làm như thế nào, sự thiệt thòi này rất lớn.
Cho nên hai chữ ‘tin Phật’ không phải dễ. Tin Phật thì đâu còn những thứ vọng tưởng này nữa? Ðâu còn những thứ âu lo, bồn chồn, nhớ nhung nữa? Tất cả đều dẹp hết, như vậy mới có thể nhất tâm hướng về đạo. Ðạo ở đâu vậy? Ðạo tức là sự sanh hoạt thường ngày, tức là ăn cơm mặc áo. Trong kinh Kim Cang đoạn mở đầu có viết: ‘Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đắp y, cầm bình bát, đi vào thành Xá Vệ khất thực’. Ðó là ‘đạo’. Từ đó mới biết, sự sanh hoạt hàng ngày không có thay đổi, công việc làm hàng ngày cũng không thay đổi, tiếp đãi người, xử lý công việc, tất cả những thứ này đều tiếp tục bình thường.
Chư Phật Bồ Tát không giống người thường ở chỗ nào? Người thế gian trong mọi hoàn cảnh lúc khởi tâm động niệm đều là phân biệt chấp trước, đi ngược lại với đạo. Chư Phật Bồ Tát trong sanh hoạt thường ngày không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Ðời sống của họ tự tại, sự xã giao của họ cũng tự tại, tất cả đều tự tại và viên mãn.
Ðại tự tại, đại viên mãn này đều từ tâm thanh tịnh sanh ra. Kinh Kim Cang có nói: ‘Tín tâm thanh tịnh tắc sanh thật tướng’, sanh thật tướng trí huệ bát nhã; thật tướng trí huệ bát nhã đã hiện ra, làm sao không được tự tại chứ? Làm sao không viên mãn chứ? Tất cả có được đều do tâm thanh tịnh.
Cho nên trong mọi thời mọi chỗ người biết tu đều luôn luôn trụ ở trong (giữ) tâm thanh tịnh. Ðó cũng giống như đoạn trước có nói đến tam quy: Giác, Chánh, Tịnh. Luôn luôn giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh mà không nhiễm; niệm Phật như thế cầu sanh Tịnh Ðộ, làm sao không vãng sanh được chớ?
Những duyên sự ở thế gian, trong kinh Phật có nói: ‘Khả đắc vi thế gian sự, bất khả đắc vi thế gian ý’ (tạm dịch: Có thể làm chuyện thế gian, nhưng đừng nên có ý tưởng của thế gian). Hai câu này nói rất hay, chuyện thế gian có thể làm. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: ‘Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại’. Chướng ngại ở đâu? Chướng ngại ở chỗ ‘thế gian ý’. Thế gian ý là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tất cả những thứ này bạn đừng nên có. Ý nghĩa của hai câu này rất sâu, rất rộng.
Ðức Thế Tôn thuyết pháp 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội. Ngài đã nói những gì? Tức là nói những thứ này, ngàn câu vạn chữ nói không hết; đối với người, đối với sự việc, đối với sự vật mà tôi ‘tưởng’ như thế nào, có ‘tưởng’ như thế nào là sai rồi, tưởng là đã rơi vào trong ý thức; tưởng ở đây là vọng tưởng.
Như vậy thì bạn sẽ hỏi có người nào mà không có ý tưởng như vậy? Rất tiếc là bạn chưa gặp qua, bạn đã gặp toàn là phàm phu, cho nên bạn đem sự việc này coi rất bình thường.
Tại sao chư Phật Bồ Tát không có cách suy tưởng như vậy? Chư Phật Bồ Tát biết được ‘vạn pháp giai không’ (tất cả pháp đều là không). Trong kinh Kim Cang có nói ‘Tam tâm bất khả đắc’ (ba thứ tâm không thể có được). Năng tưởng (những gì có thể tưởng) được đều là không; ‘Chư pháp duyên sanh, duyên sanh tánh không’ (tạm dịch: tất cả pháp đều do nhân duyên mà sanh ra, bản tánh của nhân duyên sanh là không). Sở tưởng (đối tượng để tưởng) đều là không. Như thế họ còn tưởng cái gì nữa? Không tưởng nữa! Tuy không tưởng nhưng lúc đối phó giải quyết công việc đều có thể làm được rất chu đáo. Họ làm sao có thể làm chu đáo như vậy? Ðó là nhờ trí huệ đã phát sanh.
Chúng ta nêu ra một thí dụ, các bạn xem những lời Phật nói trong kinh điển có hay không? Rất có thứ tự, ý nghĩa rất mạch lạc, một chút cũng không rối loạn. Không kể là nói lý hay nói sự, câu nào cũng đều là đạo. Ðức Phật có bao giờ khởi lên một ý tưởng: ‘Hôm nay tôi phải giảng cách nào đây?’ Không có! Không khởi tâm, không động niệm, hoàn toàn thuận theo tự tánh, từ trong tâm tánh tự nhiên tuôn trào ra. Sự việc là như vậy đó.
Chúng ta khởi tâm động niệm mãi, rốt cục rồi cũng đều thiếu sót đủ thứ, nói như thế nào đi nữa cũng không lưu loát bằng người khác, chữ nghĩa viết làm sao cũng không bóng bảy bằng người khác. Cho nên học Phật phải học chỗ không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, và không chấp trưóc. Tất cả dùng tâm chân thành, tâm chân thành tự nhiên sẽ sanh ra trí huệ, tự nhiên được chư Phật gia trì. Gia trì ở đây nghĩa là chư Phật hộ niệm lo lắng cho.
Tâm chân thành là tâm Phật, tâm bạn cùng tâm Phật giống nhau; tứ hoằng thệ nguyện là giống với nguyện của chư Phật. Tâm nguyện giống nhau, đức tâm giống nhau, chúng ta thể hội ý nghĩa này được chưa? Trong sanh hoạt thường ngày có thể làm được mấy phần? Ðây là lý do tại sao chúng ta tu hành công phu không được đắc lực, không thể cải thiện được đời sống sanh hoạt của chúng ta. Nguyên nhân là ở chỗ đó!
Phản tỉnh và kiểm điểm kỹ càng lại mới biết chúng ta đã làm sai. Chúng ta hôm nay tùy thuận theo phiền não, tùy thuận theo tập khí (thói quen). Phiền não là tham, sân, và si, chúng ta tùy thuận những thứ này. Khi mắt thấy màu sắc, tai nghe âm thanh, nếu hợp ý thì khởi tâm tham, khởi tâm ngạo mạn lên; ngược lại nếu không vừa ý thì nổi tâm sân giận lên; tất cả đều là ngu si!
Cho nên bên ngoài hình như có học Phật, nhưng thực ra khi đối xử với người, tiếp xúc với sự vật, khi khởi tâm động niệm một tí gì cũng không sửa đổi hết. Chữ ‘thọ trì’ trong kinh Phật dạy, chúng ta không những không làm được, không những không hiểu nghĩa của hai chữ này, lại còn hiểu sai nữa! Chúng ta cứ tưởng là mỗi ngày đem kinh ra đọc một lần thì kể là đã ‘thọ trì’, bạn nói như vậy là sai đến mức nào rồi!
Nếu muốn công phu được đắc lực, thật tình mà nói, công phu đắc lực tức là cải thiện đời sống của chúng ta; không những cải thiện đời sống chúng ta hiện nay, mà còn cải thiện đời sau nữa; ý nghĩa này rất sâu rộng. Y theo cách sống hiện nay của chúng ta, dựa trên những gì Phật nói trong kinh điển Ðại thừa và Tiểu thừa, khi chúng ta đã mất đi thân người, nếu muốn có được lại thân người rất khó, rất khó! Mất thân người rồi sanh đi đâu? Phần đông là đọa vào ba đường ác hết.
Làm sao biết được đọa vào ba đường ác? Chỉ cần nghe người ta thường nói một câu thì hiểu ngay, câu nói gì vậy? ‘Chết đi làm quỷ!’ Mọi người đều nghĩ là chết rồi thì đi làm quỷ. Chưa bao giờ nghe nói chết đi trở lại làm người, chỉ nghe nói chết đi làm quỷ mà thôi.
Phật nói với chúng ta một chân lý ‘Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh’ (Tất cả các pháp đều do tâm tưởng sanh ra). Mọi người nghĩ là chết đi đều làm quỷ hết; bạn có cái ý tưởng này, có cách suy nghĩ như vậy, thì bạn nhất định sẽ đi làm quỷ. Có được mấy người nghĩ rằng sau khi chết trở lại làm người hoặc là sanh lên trời, thành Phật thành Bồ Tát; cách nói này rất ít khi nào nghe đến! Luôn luôn nghe nói chết đi làm quỷ thôi. Chúng ta đừng tưởng câu nói này rất bình thường chưa chắc là đúng. Thật ra câu nói này rất đúng và rất bình thường.
Tất cả các pháp đều do tâm tưởng sanh ra. Kinh Hoa Nghiêm có nói: ‘Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến’ (tạm dịch: Từ tâm hiện ra, từ thức biến ra). Ðây cũng giải thích rõ lời của Phật nói rằng người chết đi rồi muốn được thân người trở lại rất khó. Hơn nữa phải y theo nguyên tắc trong kinh Phật nói, đời sau muốn được thân người trở lại nhất định phải làm tròn năm giới. Năm giới cũng giống như ‘ngũ thường’ trong Nho Giáo, nội dung cũng giống như vậy.
Ngũ thường là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân là nhân từ, bạn có làm được không? Ðối với người với vật bạn có nhân từ không?
Nghĩa là đối với người, với sự việc, bạn có tận tâm làm hết nghĩa vụ chưa? Tuy là có nhận tiền công nhưng không coi trọng mà nghĩ đó đều là phận sự công tác của mình, mình phải tận tâm tận lực đi làm cho đàng hoàng. Ðây là đạo nghĩa, không phải dựa trên tiền công mà mình nhận được, nếu tiền nhiều thì làm nhiều một chút, tiền ít thì làm xong là được rồi. Người như vậy không có nghĩa.
Lễ, giữa người với người phải dùng lễ để đối xử với nhau.
Trí là lý trí, không dùng cảm tình để xử sự.
Tín là tín dụng. Trong chữ tín quan trọng nhất là ‘không gạt mình, không gạt người’. Tự mình gạt mình là làm trái với lương tâm. Như tục ngữ thường nói ‘không có lương tâm’. Nếu không có lương tâm thì làm sao có sự tin dùng được? Ở bên trong thì làm trái với lương tâm, bên ngoài thì dùng trăm phương ngàn kế để gạt người.
Phạm năm thứ nói trên thì bạn không được thân người nữa. Nếu bạn làm tròn được năm điều này, tự mình không hổ thẹn với lương tâm, thì đời sau sẽ được thân người trở lại. Chúng ta coi người trong xã hội hiện nay rồi tự mình xét lại, quan trọng nhất là phải tự mình phản tỉnh, mình có làm tròn hết không? Mình đời sau có được thân người trở lại hay không? Nếu không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì đời sau nhất định phải đọa vào ba đường ác!
Ðoạn trước có nói phần đông người ta chết rồi đều đi làm quỷ. Trong sáu nẻo luân hồi không đi đường khác mà phải chọn đường ngạ quỷ. Vì có cách nói như vậy nên cũng có đạo lý của nó. Ðiều kiện của đường ngạ quỷ là tâm tham: tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham nhiều thứ lắm; chỉ cần tâm tham nặng đều là nghiệp nhân của đường ngạ quỷ.
Tâm sân giận và đố kỵ nặng là nghiệp nhân của địa ngục. Không có trí huệ, không thể phân biệt chánh và tà, chân và vọng, thiện và ác là nghiệp nhân của súc sanh. Tham, sân, và si là nghiệp nhân của ba đường ác.
Chúng ta phản tỉnh thử xem chúng ta có tham, sân, si không?
Ý niệm tham, sân, si này nặng hay không?
Nếu ý niệm này nặng, bạn phải cẩn thận cảnh giác đi, tương lai là một màu đen tối! Chúng ta muốn niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, nhất định phải diệt trừ tham, sân, si, phải chuyên cần tu tập ba thứ tư lương là tín, nguyện, hạnh. Nếu y theo lời dạy mà tu hành, đời này chúng ta sẽ không bỏ phí qua. Nhân duyên của chúng ta trong đời này thật là rất thù thắng, có thể gặp được Phật pháp chân chánh, lại có thể gặp được pháp môn thù thắng nhất là pháp môn Tịnh Ðộ.
Cái duyên này thiệt là không thể nghĩ bàn; kệ khai kinh có nói ‘Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ’ (trăm ngàn muôn kiếp cũng khó gặp được), cư sĩ Bành Tế Thanh có nói: ‘Vô lượng kiếp lai hy hữu nan phùng chi nhất nhật’ (một ngày rất hiếm rất khó gặp trong vô lượng kiếp qua). Chúng ta hôm nay cố nhiên đã gặp được, thiện căn phước đức nhân duyên có đầy đủ rồi, nếu tự mình không thể nắm lấy cơ hội mà để nó trôi qua, đó thiệt là rất đáng tiếc!
Hôm nay chúng ta tiếp tục đàm luận những chướng ngại trong sự hành trì của chúng ta, thiệt tình mà nói, Thế tôn đúng là một người có trí huệ bậc nhất. Giống như những người trong các tôn giáo khác khen ngợi ‘Thần’ là ‘Không có gì không biết, không có gì là không có khả năng làm được’. Sau khi Phật diệt độ hai ngàn năm trăm năm, những chướng ngại của chúng sanh đời mạt pháp, Thế tôn năm xưa trong lúc giảng kinh thuyết pháp đã có nói qua hết, nếu không có trí huệ siêu việt thì không thể nói ra được.