Home > Khai Thị Niệm Phật
Niềm Tin Trong Đạo Phật
Thượng Tọa Thích Phổ Huân


Ngày xưa con người vì quá lạc hậu, yếu đuối nên tự khuôn ép tư tưởng vào những mê tín kỳ quặc; phó thác đời mình trong nghi thức sùng bái thần linh, ủy mị, để tự trấn an, xoa dịu, cầu khẩn đủ mọi thế lực bên ngoài. Từ đó không biết bao nhiêu hình thức tôn giáo, tín ngưỡng ra đời.

Sự phát sinh nhiều tín ngưỡng như vậy cho thấy con người của thời đại xưa luôn luôn sợ hãi, hằng mong cầu tìm kiếm cho mình một nơi nương tựa che chở, lắng dịu tâm hồn.

Quan niệm tư tưởng như thế mãi kéo dài cho đến khi đạo Phật ra đời. Bằng sự giác ngộ rốt ráo siêu việt. Đức Phật đã chỉ rõ đâu là mê đâu là tỉnh, cũng như cả thế giới, vũ trụ này đều do sự chuyển động tâm thức mà ra. Một số người bấy giờ bắt đầu học được chánh tín. Nhận ra ngay chính bản thân mình là nơi nương tựa, là nơi quyết định xa lìa vô minh phiền não đạt đến giác n gộ vô sanh.

Cho đến ngày nay hơn hai ngàn năm trăm năm, giáo pháp giác ngộ vẫn tồn tại, phát triển, và luôn luôn thích ứng với mọi hoàn cảnh, thời đại. Lại có thể nói nhờ vào chánh tín mà lời Phật dạy mới tồn tại, việc tu học của chúng ta mới được kết quả.

Nếu việc thực hành giáo pháp không gây cho ta niềm tin xác đáng, hay lệch lạc với lẽ phải đời sống thì kết quả hành trì sẽ không mang đến an lạc, hạnh phúc.

Niềm tin trong đạo Phật hẳn nhiên không phải là niềm tin mù quáng, chấp nhận, phó thác không suy x ét. Trong lần nói chuyện với dân xứ Kesaputta đức Phật đã dạy như sau: “ Hảy đến đây: người Kalama, không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại (tỷ như nghĩ rằng ta đã nghe điều này từ lâu). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì tập tục cổ phong truyền lại như thế (tỷ như nghĩ rằng điều này đã được truyền lại từ bao nhiêu thế hệ). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì lời đồn đãi như vậy (tỷ như tin lời người khác mà không suy xét). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình đã ức đoán như vậy. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình suy diễn như vậy. Không chấp nhận điều gì theo bề ngoài. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến mình. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được (tỷ như nghĩ rằng điều này phải được chấp nhận). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì vị tu sĩ thốt ra điều này đã được ta kính trọng từ trước (và như vậy lời nói phải được chấp nhận).

Tuy nhiên khi tự các con hiểu rõ rằng – những điều này không hợp luân lý; những điều nầy đáng được khiển trách, những điều này bị các bực thiện trí thức cấm đoán, nếu thực hiện những điều này sẽ bị phá sản và phiền muộn – thì hẳn các con phải từ bỏ, không làm điều ấy.

Khi tự các con hiểu rõ rằng – những điều này hợp luân ý; những điều này không bị khiển trách, những điều này được các bậc thiện trí thức tán dương, nếu thực hiện những điều này sẽ được an vui hạnh phúc – thì hẳn các con phải hành động đúng như vậy (1).”

Những lời dạy này cho chúng ta thấy sự xác tín rất quan trọng; đòi hỏi sự cân nhắc kỹ càng trước khi tin để thực hành. Việc thực hành với niềm tin như thế sẽ mang đến kết quả mỹ mãn, trái lại thực hành không mang lấy một niềm tin gì, điều này chẳng có lợi ích chi. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “ Tin là nguồn gốc mẹ công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, đoạn trừ lưới nghi ra khỏi dòng ái, mở bày đạo vô thượng Niết Bàn …(2).”

Để có được niềm tin sáng suốt, chân thật sau đây chúng ta tìm hiểu sơ lược một vài đức tin căn bản mà người Phật tử cần nên có.

1) Tin đức Phật

Như một con người, thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) họ là Cồ Đàm (Gotama) ra đời năm 624 trước tây lịch cách đây 2622 năm ở Ấn Độ. Vương quốc Ngài, tên Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) cách thành phố Ba La Nại (Benares) 100 dặm về hướng đông bắc và khoảng 40 dặm gần núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya).

Lịch sử này được ghi lại do các nhà khảo cổ Ấn Độ và Tây Phương khám phá ra, cộng với chứng tích lịch sử của trụ đá vua A Dục (Asoka) để lại (thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch).

Truyền thuyết ghi rằng, tuy thái tử sanh ra và lớn lên trong nhung vàng nệm ấm, trong yêu thương, tôn kính. Nhưng Ngài vẫn nhận ra mầm móng đau khổ, lụy phiền của kiếp nhân sinh, mầm móng của sự đổ vỡ, bất toàn trong cảnh màu vàng tráng lệ. Cho đến dịp chứng kiến cảnh thật trong cuộc sống. Nhận thấy con người phải vất vả, lăn lóc, đấu tranh để mưu sinh. Loài cầm thú giành giựt giết hại lẫn nhau vì sự sống. Cảnh đau khổ của Già, Bệnh, Chết và đặc biệt nhất là mục kích hình ảnh vị đạo sĩ mang phong thái đoan nghiêm trầm tĩ nh… bao yếu tố đó đã nảy sanh trong tâm thái tử niềm băn khuăn, thao thức cho bản chất đời sống con người, từ đó đưa đến quyết định cho con đường xuất trần, thoát tục.

Thái tử vượt thành tầm đạo, trải qua sáu năm khổ hạnh. Học đạo và chứng được mọi pháp tu của các đạo sĩ nổi danh nhất thời bấy giờ. Tuy vậy thái tử vẫn chưa tìm được ánh sáng giác ngộ mà Ngài mong đợi. Cuối cùng bằng sự vận dụng trí lực kiên trì Ngài đã tự mình giác ngộ qua con đường Trung đạo (lìa hai cực đoan: buông lung khoái lạc và ép xác khổ hạnh), để trở thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Từ đó Ngài được tôn xưng là Phật nghĩa là một người hoàn toàn thức tỉnh, giác ngộ, gột sạch hết mọi phiền não khổ đau… Sơ lược dòng đời của Ngài chúng ta thấy, sự giác ngộ không đến từ bên ngoài; không phải lìa sự nỗ lực tự thân mà tìm cầu được chân lý. Do vậy tất cả là một thực tế sáng tỏ, cho thấy đức Phật là một con người bình thường như bao người.Và sự kiện Ngài trở thành Phật là kết quả của một cuộc chiến thắng vĩ đại to lớn nhất ở nội tâm. Truyện truyền kỳ trong kinh văn đã kể lại cuộc chiến đấu giữa Phật và Ma Vương vị chúa tể của sắc ái, tham lam, dục vọng ở thế gian. Kết quả Ma Vương phải thất bại lẩn vào trong bóng tối, để nhuờng lại ánh sáng huy hoàng giải thoát.

2) Tin giáo pháp của Phật là chân lý

Giáo lý kinh điển của Phật cao rộng muôn trùng, sâu xa thăm thẳm. Pháp môn lại có đến tám mươi bốn ngàn. Tùy mọi căn cơ của chúng sanh mà khai ngộ.

Người học Phật dù trình độ cao thấp ra sao nếu muốn nghiên cứu, hành trì vẫn được như ý.

Tuy r ằng theo truyền thống, tập quán, phong tục hình thái, tín ngưỡng mỗi nơi có phần sai biệt; điều này cũng do thích nghi với hoàn cảnh. Tuy nhiên tất cả vẫn mang một sức sống thực và luôn luôn khai phóng luồng ánh sáng trí huệ vào tâm thức con người. Luồng ánh sáng đó là chân lý bất di bất dịch của vạn pháp. Để xác tín cho niềm tin giáo pháp của Phật là chân lý, xin đưa ra giáo pháp căn bản nhất là Tứ Diệu Đế.

Tứ Diệu Đế được xem là phần giáo lý cội gốc của đạo Phật và cũng là tinh ba quan trọng cho mọi người con Phật không phân biệt Tiểu thừa hay Đại thừa, Thiền tông, Tịnh độ.v.v…

Hầu hết người Phật tử ít nhiều đều biết qua Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật. Ngài giảng dạy cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển (Deer park) gần Ba La Nại (Benares).

Tứ Diệu Đế là bốn sự thật vi diệu, hay gọi là bốn chân lý vi diệu, đó là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

Khổ đế

Khổ là một sự thật. Một sự thật hiển nhiên rõ ràng, ai ai cũng thấy biết. Một đứa bé mới sanh cũng đã tiết lộ cho mọi người thấy đó là tiếng khóc “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì…” (Nguyễn Công Trứ) hay là “Thảo nào khi mới chôn nhau, Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra” (Ôn Như Hầu). Tiếng khóc ấy kéo dài đăng đẳng đến lúc nhắm mắt lìa đời trong hình dáng một người già đau bệnh. Sự thật của khổ được thấy qua một cách cụ thể khi đức Phật dạy “Nầy các Tỳ Kheo, đây là chân lý về sự đau khổ: Sinh là khổ, già, đau, chết là khổ, gần người thù, xa người thân hoặc không đạt được nguyện vọng đều là khổ. Tóm lại những yếu tố vật lý và tâm lý cấu tạo nên con người đều đau khổ (3).”

Nhìn nhận đời là khổ không phải là bi quan, yếm thế mà là sự thành thật, sáng suốt thừa nhận. Nếu người ta có thể vui vẻ, phớt lờ được cái khổ nói trên, thì mới dám nói đây là quan niệm bi quan, yếm thế.

Thế gian vô thường, hoàn cảnh vật chất luôn thay đổi, hư hoại; con người lại nằm trong cái hư hoại đó thử hỏi làm sao tránh được khổ; cho nên khổ là chân lý. Và đã là chân lý thì dù ta có bi quan hay lạc quan khổ vẫn là khổ.

Tập đế: nguyên nhân của khổ

Nguyên nhân của khổ là do tham ái, dục tình. Chính sự luyến ái tham vọng này mà kéo đưa con người mãi trong vòng sanh tử. Việc khát khao ôm giữ tham dục không biết nhàm chán, từ đây sinh ra cái khổ triền miên không dứt. C on người đã lầm tưởng, một ước ao ham muốn nào đó sẽ dừng nghỉ khi được thỏa lòng chiếm hữu. Nhưng sự thật lại không bao giờ hài lòng thỏa mãn. Một gia tài kết xù lại quá nhỏ bé với một con người đầy tham vọng. Một mối tình đẹp của đôi tình nhân tưởng là hoa mộng thiên thu, nhưng rồi thỏa mãn hoa mộng đó cũng nguội lịm đi, và ước vọng dục tình khác lại nảy nở. Điều hạnh phúc của người này nhưng là việc đau khổ của người kia, và điều hạnh phúc của người kia thì họ chẳng bao giờ thấy đủ. Cái nghịch đảo bất thuận này nào đâu phải là nguyên nhân xa xôi huyền bí, tất cả chỉ do lòng tham dục mà ra. Chẳng hạn kẻ ăn xin bỗng dưng may mắn trở thành người đầy đủ tiền bạc, vậy mà một thời gian trôi qua, người ăn xin này bây giờ đã đầy đủ lại thấy mình còn thiếu kém khi nhìn người bên cạnh đầy đủ hơn. Thậm chí đến ngay kẻ đầy đủ nhất vẫn còn thấy cái đầy đủ đó không đủ như ước muốn; và vậy vẫn có cái khổ ở mức độ nào đó mà nhiều người tưởng rằng phi lý! Ước muốn kia chính là lòng tham muốn dục vọng không đáy. Do đây Phật dạy “ Này các Tỳ Kheo, đây là chân lý nguyên nhân sựđau khổ: Chính vì dục vọng mà ta phải luân hồi và cứ chạy theo lạc thú ở đời mãi (4).”

Diệt đế: diệt trừ tham ái, phiền não

Biết được nguyên nhân tham dục, luyến ái là khổ. Vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt mầm mống nguyên nhân này. Cũng như kẻ đau bệnh biết được bệnh phải chữa trị ngay, nếu không dù có rành mạch phân tích biết rõ lý bệnh cũng chẳng ích chi, rồi phải chết trong đau tiếc.

Khi khổ đã không còn hay nói cho đúng là tham dục, luyến ái, vọng t ình, sân giận, si mê, vô minh, phiền não đều chấm dứt thì ở đây sự an tịnh, giải thoát có mặt và trạng thái an lạc này còn gọi là Niết Bàn. Do đó kết luận rằng khổ chỉ có thể tiêu mất khi Diệt đã được thực hành, đó là chân lý.

Đạo đế: con đường đưa đến sự diệt khổ

Là con đường hướng dẫn hành giả làm thế nào đi trọn cuộc hành trình dứt lìa tham dục phiền não. Phương pháp thực hành tu tập được đức Phật dạy qua pháp Trung đạo, xa lìa hai cực đoan sai lầm: hành xác khổ hạnh và tham đắm khoái lạc. Hai lối sai lầm này được Phật ví như dây đàn căng quá và chùng quá. Đàn có thể nghe được khi mức độ căng dây vừa phải.

Con đường trung đạo được biết qua tám pháp gồm có:

1. Chánh kiến (hiểu biết chân chánh)

2. Chánh tư duy (suy nghĩ chân chánh)

3. Chánh ngữ (lời nói chân chánh )

4. Chánh nghiệp (hành động chân chánh)

5. Chánh mạng (sinh hoạt chân chánh)

6. Chánh tinh tấn (cố gắng siêng năng chân chánh)

7. Chánh niệm (ký ức chân chánh)

8. Chánh định (định tâm, tập trung chân chánh)

Trong tám pháp đây được chia ra làm Tam Vô Lậu học (mà người tu Phật phải xem là điều tối cần không thể lìa bỏ, đó là: Giới, Định, Huệ.

Các phần Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng thuộc về Giới.

Các phần Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định thuộc về Định. Và phần Chánh kiến, Chánh tư duy thuộc về Huệ.

Nền tảng của Giới, Định, Huệ là căn bản cho con đường giải thoát. Bởi Giới là điều kiện ngăn chặn nghiệp ác, tăng trưởng nghiệp lành của ba nghiệp Thân Khẩu Ý. Định là định lực tập trung thanh lọc tư tưởng, và Huệ là trí huệ thanh tịnh sáng suốt phát sinh ngay khi đó, sau khi Giới và Định lưu thông.

Như thế đạo đế là chân lý rốt ráo trong việc giải quyết sinh tử.

Trên đây chỉ tóm lược ý chính, nội dung của Tứ Diệu Đế để thấy rõ giáo Pháp của Phật là chân lý. Nếu muốn rõ hơn xin tra cứu ở những sách khác sẽ được khai tr iển rộng thêm.

3) Tin vào khả năng giác ngộ

Trong kinh Phạm Võng Phật dạy “ Đại chúng lòng nên tin chắc: Các người là Phật sẽ thành. Ta đây là Phật đã thành. (5).” Lời Phật dạy nói lên giáo pháp giải thoát không là của riêng ai. Điều giác ngộ giải thoát này sẵn có trong tâm của mọi người. Xưa kia khi Phật còn là Thái tử, Ngài cũng đã trăn trở, dằn vặt với bao tham mê, giác tỉnh luôn hoành hành trong tâm tư. Nếu sự giác ngộ tự nhiên mà đến thì Ngài chẳng lìa cung điện tìm đạo làm gì. Phải chăng điều này cho th ấy Ngài đã vất vả mới tìm ra đạo giải thoát.

Con người ngày nay nếu muốn tìm hưởng an lạc thì cũng phải dừng lại mọi phiền não lăng xăng. Phải nỗ lực lướt thắng những đam mê sa đọa và điều cần yếu nhất là phải tin vào khả năng của chính mình.

Giáo lý đức Phật đã đưa ra phương cách nhận diện khổ và diệt khổ một cách rõ ràng. Sự thật đó được thấy và được trực nghiệm ở ngay hoàn cảnh môi trường chúng ta. Bằng niềm tin chánh tín và tư duy sáng suốt chúng ta có thể hành động đúng theo nguyên lý sự thật ngay trong cuộc sống hiện tại mà không phải tìm vào sự ban ơn giáng phước của thế lực thần linh. Trong kinh Pháp Cú có dạy như sau:

“ Con người kinh hãi đi tìm nương tựa ở nhiều nơi đồi núi, rừng, vườn, cây cối, và đền miếu.

– Không, đó không phải là nương tựa an toàn, không phải nương tựa tối thượng ẩn náo như vậy không thể thoát ra khỏi phiền não.

Người đi tìm nương tựa nơi đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Già, có tri kiến chơn chánh để nhận thức Tứ Đế – Khổ, Nguồn khổ, Vượt khỏi khổ, và Bát Chánh Đạo, dẫn đến sự Diệt khổ.

Đó quả thật là nương tựa an toàn. Đó quả thật là nương tựa tối thượng. Tìm đến các nương tựaấy ắt thoát ra khỏi mọi phiền não (6).”

Với niềm tin vào ba ngôi Tam Bảo và khả năng của chính con người để phá trừ mê tín như vậy. Con người sẽ có được nghị lực tin cậy ở ngay chính bản thân mình trên con đường thoát ly sinh tử, và như thế là niềm tin trong đạo Phật.



Kinh Sách Liên Quan

 
1.    48 Pháp Niệm Phật, Cư Sĩ Giang Đô Trịnh Vĩ Am | Sa Môn Thích Tịnh Lạc, Việt Dịch
2.    Khuyên Tu Pháp Môn Niệm Phật, Pháp Sư Viên Anh | Thích Nguyên Anh, Việt Dịch
3.    Niệm Phật Cảnh, Sa Môn Đạo Cảnh và Thiện Đạo Đại Sư | Hòa Thượng Thích Minh Thành, Việt Dịch
4.    Niệm Phật Chỉ Nam, Mao Dịch Viên | Hòa Thượng Thích Minh Thành, Việt Dịch
5.    Niệm Phật Chuyển Hóa Tế Bào Ung Thư, Pháp Sư Đạo Chứng | Thích Minh Quang, Việt Dịch
6.    Niệm Phật Dẫn Đi Khỏi Luân Hồi, Lý Lâm Qúy | Mạt Nhân Đạo Quang, Việt Dịch
7.    Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh, Thượng Tọa Thích Minh Tuệ
8.    Niệm Phật Luận, Pháp Sư Đàm Hư | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
9.    Niệm Phật Nhất Định Được Vãng Sanh, Pháp Sư Huệ Tịnh | Hòa Thượng Thích Giác Qủa, Việt Dịch
10.    Niệm Phật Pháp Yếu, Cư Sĩ Mao Lăng Vân cung kính kết tập | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
11.    Niệm Phật Sám Pháp, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
12.    Niệm Phật Sinh Tịnh Độ, Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm | Thượng Tọa Thích Chân Tính, Việt Dịch
13.    Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận, Đại Sư Phi Tích | Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Việt Dịch
14.    Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận, Đại Sư Phi Tích | Tịnh Sĩ, Việt Dịch
15.    Niệm Phật Thành Phật, Hòa Thượng Thích Phước Nhơn
16.    Niệm Phật Thành Phật, Cư Sĩ Tịnh Thọ | Cư Sĩ Tịnh Nghiệp, Việt Dịch
17.    Niệm Phật Thập Yếu, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
18.    Niệm Phật Tứ Đại Yếu Quyết, Pháp Sư Luyến Tây Đại Sư Ngọc Phong Cổ Côn | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
19.    Niệm Phật Vô Tướng, Cư Sĩ Tiểu Bình Thật | Cư Sĩ Hạnh Cơ, Việt Dịch
20.    Ý Nghĩa Chân Thật Của Bổn Nguyện Niệm Phật, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Diệu Âm, Việt Dịch