Home > Khai Thị Niệm Phật
Có Hai Pháp Thực Hành Niệm Phật
Cư Sĩ Mao Lăng Vân cung kính kết tập | Hòa Thượng Thích Minh Thành, Việt Dịch


1. Chánh hạnh có hai: một là xưng danh hiệu Phật, hai là quán tưởng.

Xưng danh hiệu Phật, như kinh A di đà nói bảy ngày trì danh hiệu Phật được nhất tâm không loạn. Có Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Khi miệng niệm danh hiệu Phật, tâm phải buộc nơi từng tiếng niệm, từng tiếng liên tục, tâm tâm không loạn. Giả sử tâm duyên theo ngoại cảnh, nên thâu tâm trở về. Chỗ này cần phải có tâm cương quyết để đoạn trừ niệm sau, dẹp bỏ thế sự, buông bỏ tâm phan duyên, khiến cho tâm niệm Phật dần dần tăng trưởng từ tạm thời đến dài lâu, từ ít đến nhiều, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, cuối cùng đạt được nhất tâm không loạn mới thôi. Đó là Sự nhất tâm. Nếu đã được Sự nhất tâm rồi thì nhân Tịnh độ Cực Lạc đã thành tựu, lâm chung chắc chắn được chánh niệm, thân không bệnh khổ, không còn bị pháp ác trói buộc, biết trước giờ chết, thân tâm hoan hỷ, ra đi an lành, ngồi thoát hoặc đứng hóa đều thấy đức Phật A di đà phóng ánh sáng tiếp dẫn, chắc chắn được sinh về Tịnh độ. Lý nhất tâm cũng không khác, chỉ ở ngay nơi Sự nhất tâm niệm niệm thấu suốt tâm hay niệm và Phật được niệm ba thời đều bình đẳng, mười phương dung thông nhau, chẳng không chẳng có, chẳng phải ta chẳng phải người, không đến không đi, không sinh không diệt. Tâm nhất niệm hiện tại chính là cảnh Tịnh độ vị lai, niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, không sinh mà sinh, sinh mà không sinh. Trong nơi không thể niệm mà niệm rõ ràng, trong nơi không sinh mà mạnh mẽ cầu sinh. Đó là trong Sự nhất tâm đạt được Lý nhất tâm. Nếu trong bốn oai nghi tu không gián đoạn chắc chắc vãng sinh Tịnh độ.

2. Trợ hạnh cũng có hai: một là hạnh thế gian, như hiếu thuận với cha mẹ, thực hiện lòng nhân từ, từ bi không sát sinh, giữ đầy đủ các giới luật. Tất cả việc lợi ích ấy nếu hồi hướng về Tây Phương, đều là hạnh trợ đạo. Hai là hạnh xuất thế, như tu Lục độ Vạn hạnh, làm mọi công đức, đọc tụng kinh điển Đại thừa, thực hành sám pháp, cũng nên dùng tâm hồi hướng mà trợ giúp cho sự tu hành. Những việc như thế đều là hạnh Tịnh độ.

Lại có một trợ hạnh vi diệu: dụng tâm đối với tất cả cảnh duyên đã gặp. Như nhìn thấy quyến thuộc thì quán tưởng họ là pháp quyến ở Tây Phương, dùng pháp môn Tịnh độ mà dẫn dắt họ làm cho nhẹ được ái mà thành tựu nhất niệm, mãi mãi là quyến thuộc Vô sinh trong tương lai. Nếu lúc khởi tâm ân ái, nên nghĩ rằng quyến thuộc Tịnh độ không có tình ái, làm sao được sinh về Tịnh độ để xa lìa tình ái này? Nếu khi sinh tâm sân hận, nên nghĩ rằng quyến thuộc Tịnh độ không còn phiền não, làm sao mới được vãng sinh về Tịnh độ để lìa bỏ sân hận này? Như lúc đang đau khổ nên nghĩ rằng về Tịnh độ không còn các khổ đau, chỉ hưởng các niềm vui. Nếu lúc đang an vui, nên nghĩ rằng niềm vui ở Tịnh độ vô lượng vô biên không cần phải chờ đợi. Phàm tất cả cảnh duyên gặp được, đều lấy ý này mà suy rộng ra thì tất cả việc làm ở mọi lúc, mọi nơi đều là trợ hạnh Tịnh độ.


Nguyện: Có chung có riêng, có rộng có hẹp, có phổ biến, có giới hạn. Chung thì như văn hồi hướng của Cổ đức; riêng thì tùy theo nguyện của mỗi người. Rộng là bốn hoằng thệ nguyện, trên cầu thành Phật, dưới hóa độ chúng sinh; hẹp là tự lượng sức mình quyết chí vãng sinh. Giới hạn như tu hành có thời khóa, cùng phát nguyện theo mọi người, phổ biến thì lúc nào cũng phát thệ nguyện, nơi nào cũng bày tỏ tâm ý. Chỉ cần hợp với bốn hoằng thệ nguyện, không được theo ý riêng vọng lập. Tóm lại, trong tất cả các lời nguyện, lời nguyện riêng tốt hơn lời nguyện chung, vì sợ rằng lời nguyện chung bị thay đổi theo lời người, còn lời nguyện riêng thì tự mình bày tỏ tâm ý. Nhưng theo lời nguyện chung sinh tâm quyết định, thì tuy chung mà riêng. Nếu ý của văn riêng rộng lớn thì riêng cũng thành chung. Lại nữa, rộng thì hơn hẹp, rộng thì phát tâm rộng lớn nên được quả cao, hẹp bi nguyện cạn, nên được quả thấp. Còn phổ biến thì hơn giới hạn, giới hạn công phu thường gián đoạn, phổ biến niệm niệm được viên thành. Thực hành như ba cách này có thể chóng sinh về Tịnh độ, mau thấy được đức Phật A di đà. Tất cả pháp môn Tịnh độ đều không ngoài những điều này. 

Trích dẫn "Từ bá lão nhân tập" của Đại sư Đạt Quán

Trích từ: Niệm Phật Chỉ Nam


Kinh Sách Liên Quan

 
1.    48 Pháp Niệm Phật, Cư Sĩ Giang Đô Trịnh Vĩ Am | Sa Môn Thích Tịnh Lạc, Việt Dịch
2.    Khuyên Tu Pháp Môn Niệm Phật, Pháp Sư Viên Anh | Thích Nguyên Anh, Việt Dịch
3.    Niệm Phật Cảnh, Sa Môn Đạo Cảnh và Thiện Đạo Đại Sư | Hòa Thượng Thích Minh Thành, Việt Dịch
4.    Niệm Phật Chỉ Nam, Mao Dịch Viên | Hòa Thượng Thích Minh Thành, Việt Dịch
5.    Niệm Phật Chuyển Hóa Tế Bào Ung Thư, Pháp Sư Đạo Chứng | Thích Minh Quang, Việt Dịch
6.    Niệm Phật Dẫn Đi Khỏi Luân Hồi, Lý Lâm Qúy | Mạt Nhân Đạo Quang, Việt Dịch
7.    Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh, Thượng Tọa Thích Minh Tuệ
8.    Niệm Phật Luận, Pháp Sư Đàm Hư | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
9.    Niệm Phật Nhất Định Được Vãng Sanh, Pháp Sư Huệ Tịnh | Hòa Thượng Thích Giác Qủa, Việt Dịch
10.    Niệm Phật Pháp Yếu, Cư Sĩ Mao Lăng Vân cung kính kết tập | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
11.    Niệm Phật Sám Pháp, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
12.    Niệm Phật Sinh Tịnh Độ, Hòa Thượng Thích Thánh Nghiêm | Thượng Tọa Thích Chân Tính, Việt Dịch
13.    Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận, Đại Sư Phi Tích | Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Việt Dịch
14.    Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận, Đại Sư Phi Tích | Tịnh Sĩ, Việt Dịch
15.    Niệm Phật Thành Phật, Hòa Thượng Thích Phước Nhơn
16.    Niệm Phật Thành Phật, Cư Sĩ Tịnh Thọ | Cư Sĩ Tịnh Nghiệp, Việt Dịch
17.    Niệm Phật Thập Yếu, Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
18.    Niệm Phật Tứ Đại Yếu Quyết, Pháp Sư Luyến Tây Đại Sư Ngọc Phong Cổ Côn | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
19.    Niệm Phật Vô Tướng, Cư Sĩ Tiểu Bình Thật | Cư Sĩ Hạnh Cơ, Việt Dịch
20.    Ý Nghĩa Chân Thật Của Bổn Nguyện Niệm Phật, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Diệu Âm, Việt Dịch