Thiền nào có khác Tịnh đâu
Có chăng chỉ khác công phu tu hành
Ngộ là Phật, mê: chúng sanh
Ngoài ra kết quả đành rành như nhau
171. “THIỀN CÙNG TỊNH ÐỘ VẪN KHÔNG HAI, NẾU LIỄU THÌ LIỄU CẢ, MÊ CŨNG ÐỒNG MÊ”, lời của Thiên Như Ðại sư quả thật xác đáng. Bởi chân tâm bao hằng sa muôn pháp, hàm vô biên quốc độ, nơi Thiền gọi là “Bản lai diện mục”, nơi Tịnh gọi là “Tự tánh Di đà”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Mười phương hư không sanh trong tâm ông như áng mây nổi điểm giữa trời xanh rộng lớn bao la, huống chi vô lượng thế giới ở trong hư không ư?”. Cổ đức cũng bảo: “Hằng sa pháp ấy Bồ đề đạo, nghĩ đến Bồ đề cách vạn tầm!”. Vì chân tâm bao hàm muôn tượng, nên nếu người tu Thiền mà hiểu Thiền bằng lý không không, rồi bảo chẳng có Cực lạc, bác sự cầu sanh, tất chưa phải là người hiểu Thiền. Sở dĩ ngài Thiên Như nhiều phen cặn kẽ chỉ bày là để phá mối chấp không đó.
Về phần thể, chân tâm xán lạn bao hàm vô biên thế giới, gọi là “Thiền Tịnh độ”, và vô lượng thế giới ảnh hiện trong chân tâm, tất cả đều tịch tịnh như huyễn, gọi là “Tịnh độ Thiền”.
Về phần dụng, hành giả khi đã ngộ tánh bản lai, rồi khởi lên bi nguyện, tu những hạnh trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh, gọi là “Thiền Tịnh độ”, và nếu dùng môn Tịnh độ để nhiếp hóa hữu tình trở về chân tánh, gọi là “Tịnh độ Thiền”
Tóm lại, Thiền tức Tịnh độ, Tịnh độ tức là Thiền. Nếu bác Tịnh độ chính là chưa hiểu rõ Thiền, và bác Thiền cũng chẳng suốt thông Tịnh độ. Liễu thì liễu cả, mê cũng đồng mê, bởi do lý đó.
172. So với Thiền, pháp niệm Phật, khi chưa đạt được “NHẤT TÂM BẤT LOẠN”, hai bên khác nhau rất xa.
Buổi sơ phát tâm, với phép tu thiền định, hành giả không được có tâm ưa, chán, thủ, xả; với phép tu niệm Phật, hành giả lại phải ưa thủ cảnh Cực lạc và mong xả cảnh Ta bà. Với phép tu Thiền định, tâm không được trú trước vào cảnh giới, nếu còn trú trước tức là sai lạc; với phép tu niệm Phật, tâm lấy cảnh làm đối tượng, tâm năng duyên và cảnh sở duyên phải rõ ràng. Với phép tu Thiền định, tâm phải xa lìa pháp chấp, với phép tu niệm Phật, hành giả cần phải lợi dụng pháp chấp. Với phép tu Thiền định, hành giả phải thể nhận được pháp tánh thân ngay trong thế gian này; với phép tu niệm Phật, hành giả khởi tưởng sẽ chết ở thế gian này và sẽ sanh về thế giới bên kia. Vì các lý do trên, Thiền tông và niệm Phật có chỗ bất đồng.
Nhưng khi niệm Phật đã đến chỗ “NHẤT TÂM BẤT LOẠN”, nghĩa là đã đắc định rồi, thì lại là việc khác. Ðạt được cảnh giới tam muội, tức là hư không tan rã, đại địa lấp bằng, hiện tiền một niệm dung hợp được với pháp thân chư Phật trong mười phương, như trăm ngàn ngọn đèn cùng dung hợp ánh sáng và cùng chiếu chung trong một căn nhà, không tan mất, không lẫn lộn. Lúc ấy ý thức phân biệt ly khai. Cảnh giới này so với cảnh giới chân như tam muội của Thiền tông không hai, không khác. Xem thế thì biết rằng Tịnh độ tức là Thiền tông, kết quả của hai bên nào có khác gì nhau!
173. Mộ Liên Pháp sư nói: “Thiền chính là chân như Phật tánh sẵn có của chúng ta”. Thiền tông gọi là “Bản lai diện mục” trước khi cha mẹ sanh, mà không nói rõ ra, cố muốn cho người tự tham cứu, tự ngộ lấy. Kỳ thiệt chính là: Tâm thể thuần chân, linh tri ly niệm, không năng không sở, tức tịch tức chiếu vậy. Tịnh chính là tin sâu nguyện thiết, chuyên tâm trì danh cầu sanh Cực lạc.
Người hành Thiền khi sức tham cứu đã tột, vọng niệm dừng, vọng tình dứt, suốt thấy bản lai diện mục, minh tâm kiến tánh, đó gọi là có Thiền.
Còn người tu Tịnh độ, chân thiệt phát Bồ đề tâm, tin sâu nguyện thiết, chuyên trì hồng danh cầu sanh Tây phương Cực lạc, thế gọi là có Tịnh.
174. Người tu hành mà chưa đại triệt, đại ngộ, là không Thiền, lại cũng không có tín nguyện niệm Phật, là không Tịnh. Dầu triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, nhưng kiến tu phiền não chưa dễ đoạn trừ, phải trải qua nhiều công phu tu trì gột rửa cho sạch cả mới ra khỏi luân hồi sanh tử. Nếu còn một phần phiền não thời lục đạo luân hồi vẫn y như cũ, nói chi đến người chưa đoạn phần nào.
175. Các tông đại khái chia ra làm hai, là KHÔNG MÔN và HỮU MÔN. Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh; nói cách khác: Sắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau.
Cho nên khi xưa có một vị Ðại sư tham thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu Tịnh độ. Lúc lâm chung ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật, sắp vãng sanh. Một vị Thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: “Cực lạc là cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi?”. Ðại sư quát bảo: “Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao?”. Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra là tương thành cho nhau vậy.
“Thuốc không quý tiện, lành bệnh là thuốc hay; pháp chẳng thấp cao, hợp cơ là pháp diệu”. Tịnh độ với Thiền tông thật ra chẳng thấp cao, hơn kém. Nhưng luận về căn cơ, thì Thiền tông duy bậc thượng căn mới có thể được lợi ích; còn môn Tịnh độ thì gồm nhiếp cả ba căn (thượng, trung, hạ), hạng nào nếu tu cũng đều dễ thành kết quả. Luận về thời tiết, thì thời mạt pháp này, người trung, hạ căn nhiều, bậc thượng căn rất ít, nếu muốn đi đến thành quả giải thoát một cách chắc chắn, tất phải chú tâm về Tịnh độ pháp môn. Ðây là bởi lòng đại bi của Phật, Tổ, vì quán thấy rõ thời cơ muốn cho chúng sanh sớm thoát nỗi khổ luân hồi, nên trong các kinh luận đã nhiều phen nhắc nhở. Ðiều này là một sự kiện rất quan yếu và hết sức xác thật!
Tuy nhiên, chúng sanh sở thích và tánh dục có muôn ngàn sai biệt không đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết được. Vì vậy Tịnh độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích ứng một phần, không thể hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có Thiền tông và các môn khác, để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích, và Phật pháp được đầy đủ sâu rộng.
176. Giới thiệu lợi hại giữa Thiền và Tịnh
I. Có Thiền không Tịnh độ,
Mười người, chín ngại đường.
Khi ấm cảnh hiện ra,
Chớp mắt đi theo nghiệp.
II. Không Thiền có Tịnh độ,
Muôn tu, muôn người sanh.
Khi được thấy Di đà,
Lo gì không tỏ ngộ!
III. Có Thiền, có Tịnh độ,
Cũng như cọp mọc sừng.
Ðời nay làm thầy người,
Ðời sau làm Phật, Tổ.
IV. Không Thiền, không Tịnh độ,
Giường sắt, cột đồng lửa.
Muôn kiếp lại ngàn đời,
Chẳng có nơi nương tựa!
Kệ của Vĩnh Minh Ðại sư
177. Ðề bạt
Tức tâm Tịnh độ lý không ngoa
Tịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhà!
Phước kết trang nghiêm phần sắc tướng,
Huệ tuôn vô ngại cõi hằng sa.
Trời Tây sáng lạ màu vi diệu,
Nguyện Phật thâm sâu, đức hải hà.
Ngoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh?
Nỗi thương ác đạo mãi vào ra!
Tây Trai lão nhân