Chúng ta sao cam tâm nhìn họ đau khổ mà không tìm cách cứu họ, khiến cho họ được an lạc chứ?
"Bồ tát úy nhân, chúng sinh úy quả." Bồ tát thì sợ nhân, chúng sinh thì sợ quả. Nhân quả, hai chữ này chẳng những chúng sinh không thể thoát khỏi mà ngay cả Phật, Bồ tát cũng chẳng thể trốn đặng. Chỉ vì Bồ tát có cái nhìn sâu sắc nên Ngài chẳng tạo nhân ác; do vậy thọ hưởng được quả khoác lạc. Chúng sinh, nhãn quang như hạt đậu; chỉ biết thấy những việc trước mắt nên luôn làm những điều xấu ác; bởi thế mới thọ quả báo đau khổ.
Có câu nói rằng: "Ða tái đào lý, thiểu tái kinh." Nghĩa là trồng nhiều cây đào, cây lý; trồng ít đi những bụi gai góc. Trồng nhiều nhân tốt thì chắc chắn sau nầy sẽ có được một tiến trình sáng lạng. Còn nếu như chỉ nhìn vào những việc trước mắt, làm những việc bất nghĩa, không chịu vun trồng những nhân tốt thì chắc chắn là dự bị cho mình một tiền đồ đầy gai góc sau này.
Thế nào là một tiền đồ sáng lạng? "Tùng thỉ Tây phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực lạc." Nghĩa là ở phía trời Tây, cách đây mười vạn ức Phật độ, có thế giới tên là Cực lạc.
Còn thế nào là tiền đồ đầy gai góc? Tức là "Ðịa ngục vô môn, khổ tự chiêu." Nghĩa là địa ngục không có cửa, tự mình rước lấy khổ.
Ở Cực lạc thế giới thì mặt đất là vàng ròng, ao hồ là bảy báu, trời gió thổi nghe rộn rã tiếng âm nhạc, không việc gì mà chẳng xứng tâm, vừa ý; lại còn được thấy Phật, nghe Pháp, chóng thành Phật đạo. Còn địa ngục thì sao? Núi đao, vạc dầu, rừng kiếm, chảo sôi; đó là những thứ mà mình sẽ làm bạn.
Chúng sinh được tuyệt đối tự do chọn lựa con đường mình muốn đi. Nếu như ý muốn ở Tây phương thì mình phát nguyện: Cầu vãng sinh Tịnh độ, cần tinh tấn, siêng năng niệm Phật Bồ tát thì chắc chắn sẽ có ngày thành công. Còn nếu như thích địa ngục, thì giản dị lắm: Cứ làm ác thì sẽ đọa địa ngục. Tuy nhiên, tôi khẳng định rằng con người chẳng ai lại muốn xuống địa ngục, không muốn vãng sinh Tây phương Cực lạc thế giới. Trừ phi anh ta chẳng tin có địa ngục, chẳng tin có Cực lạc; trừ phi anh ta không biết sự thống khổ của địa ngục và sự an lạc của Tịnh độ.
Ðối với những kẻ thiếu thiện căn, thiếu lòng tin như thế, mình không có phương cách gì để độ họ. Song đối với những kẻ chưa biết đạo thì mình có thể phát lòng từ bi mà dẫn dắt. Kẻ ngoại đạo thường nói: "Thiên đàng thì gần lắm. Thiên đàng dành cho các vị đó." Là tín đồ Phật giáo, mình phải biết xả thân quên mình. Ðối với thân hữu, mình phải khuyên họ, nói cho họ nghe công đức niệm danh hiệu Bồ tát và ích lợi của Cực lạc thế giới. Phải nói "Cực lạc thế giới là của chúng sinh." Nếu như mình thường xuyên tuyên thuyết đạo lý nầy, thì mình chính là một vị hành đạo Bồ tát; cùng với chư Bồ tát đi chung một con đường; cùng làm bạn với những vị Bồ tát, bất thối.
Do đó, không những mình cần niệm danh hiệu Bồ tát mà còn phải thường khuyên người khác niệm nữa. Như vậy thì mình mới xứng đáng là một đệ tử của Phật; mới có thể nói rằng mình đã không quên lời phát nguyện, bốn lời hoằng thệ lúc quy y. Nên khi nói: "Ðộc lạc lạc, bất như chúng lạc lạc." Nghĩa là cái vui mình vui, sao bằng cái vui mọi người cùng vui. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Ðối với những kẻ có cùng Phật tánh như mình, chẳng khác gì mình cả, thì lẽ nào mình lại cam tâm nhìn họ đau khổ mà không tìm cách cứu họ, làm họ được an lạc chứ?
"Hữu chí giả, sự cánh thành." Nghĩa rằng người có chí thì việc chắc thành. Bởi vì chúng sinh khó độ, nên tín đồ Phật giáo chúng ta mỗi ngày, sáu thời, phải ghi nhớ, đừng quên chuyện độ chúng sinh.
Giảng vào ngày 18 tháng 6, năm 1958