Nói gọn nhưng rõ ràng về cách tu của pháp môn này.
Hỏi: Tông Tịnh độ xác minh rõ ràng niệm Phật là cái nhân cho sự vãng sanh, nhưng nếu chưa tỏ được tự tâm làm sao hiểu được việc ấy? Phương pháp niệm Phật làm sao biết được để hành trì?
Đáp:
Khước tầm vô tế, số kiếp thi thi. Giả sử có tu nhân thì phần nhiều hư dối, rất ít thực chất, chỉ mong cầu danh lợi, vọng chấp ngã nhân, dù có làm nhiều việc từ thiện thì cũng chẳng phù hợp với chánh pháp, do đó nên cứ mãi trầm luân trong đường ác, nhận chịu khổ đau vô cùng. Thánh chủ Di-đà lưu lại hồng danh nhiếp hoá chúng sanh, quả vị thành Phật, đến nay đã hơn mười kiếp. Chúng ta ngu si mê muội, chỉ có tham lam gây tạo nhiều điều ác, dù có học Phật pháp, hiện đời cũng chỉ để cầu danh, cầu lợi, luôn cho mình là đúng, người khác là sai, thường sanh tâm ngạo mạn, tìm kiếm áo cơm, ngày đêm lao nhọc, ví thử có chút thời gian rảnh rỗi cũng đã cùng theo bạn xấu. Nếu đã không gặp được thiện hữu tri thức thì làm sao nghe biết đến Tịnh độ? Một mai vô thường lại quay về đường ác.
Nay đã gặp được bậc thiện tri thức lớn, có duyên với mình, khuyên mình phải biết suy nghĩ đúng đắn, bỏ đi những việc làm ác, lại được nghe đến danh hiệu Phật A-di-đà. Ngài vốn có hạnh nguyện từ bi, từ hơn mười kiếp đến nay thường hoằng dương chánh pháp, nhưng vì chúng ta ngu si mê muội, nghiệp chướng sâu dày nên đến bây giờ mới được nghe danh. Thương xót phận mình, ruột đau như cắt, vừa xấu hổ, vừa giận sao bấy lâu cứ sống hoài trong tham lam, sân hận, si mê?!
Bây giờ đã biết tu tập, xin tu bốn điều, lấy bốn điều này làm chánh nghiệp:
Thứ nhất là tu lâu dài, nghĩa là từ khi mới phát tâm cho đến khi thành đạo bồ-đề thường gieo nhân với Tịnh độ, trọn đời không thay đổi.
Thứ hai là tu hạnh giữ lòng cung kính. Có năm đối tượng cần phải cung kính.
– Một là cung kính Thánh nhân hữu duyên, trong khi đi đứng nằm ngồi không bao giờ quay lưng lại với Tây phương; không hướng về phía tây mà khóc lóc, khạc nhổ, đại tiểu tiện…
– Hai là cung kính hình tượng và kinh sách. Không nên chưng thờ nhiều tranh tượng, chỉ cần thờ một tượng Phật Di-đà, hai vị Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí là được rồi. Kinh sách thì chỉ cần một bộ kinh Di-đà, bao bọc cho trang nghiêm bằng vải ngũ sắc, tự mình tụng đọc và dạy người khác cùng tụng đọc. Tất cả hình tượng và kinh sách này nên an trí trong một cái phòng riêng thanh tịnh và trang nghiêm, mỗi ngày sáu lần lễ bái, hương hoa cúng dường, hết lòng thành khẩn.
– Ba là cung kính Thiện tri thức hữu duyên, nếu có người giảng kinh Tịnh độ, dù ở xa mười dặm hay thậm chí ngàn dặm cũng nên cố gắng đến nghe, hết lòng kính trọng, thân cận cúng dường; đối với các bạn học khác cũng như những bậc thầy tu học khác cũng phải hết lòng kính trọng, dù họ không cùng pháp môn với mình, khi nào trong tâm cũng tỏ lòng kính trọng sâu sắc, nếu sanh tâm khinh mạn thì mang tội nặng vô cùng. Cho nên cần phải tu tập hạnh cung kính đối với tất cả mọi người mới có thể tiêu trừ được những chướng duyên trên bước đường tu học.
– Bốn là cung kính các bạn đồng tu tịnh nghiệp. Bản thân mình nghiệp chướng nặng nề, do đó tự lực tu hành rất khó, vì vậy mà phải nương nhờ các bạn đồng tu, để giúp đỡ lẫn nhau, hỗ trợ nhau mà tu. Cho nên phải kính trọng những người bạn đồng tu, hỗ trợ duyên lành cho nhau, tôn trọng lẫn nhau.
– Năm là cung kính Tam bảo. Tam bảo vốn đồng thể tánh nhưng thể tướng khác nhau, đều phải hết lòng cung kính. Người không đủ lòng cung kính thì sự tu tập còn nông cạn lắm, chưa phải là hành giả thật lòng nương theo pháp môn này. Đối tượng Tam bảo mà chúng ta cung kính ở đây là Trụ trì Tam bảo(57). Trụ trì Tam bảo là để cho những người phước duyên thiếu kém nương tựa và gieo trồng nhân duyên. Nay xin lược nói vài lời thô thiển.
Phật bảo hiện nay là những pho tượng được điêu khắc từ gỗ thơm, vàng, ngọc, đá. Đây là những linh tượng, rất đặc biệt và xứng đáng để phụng thờ. Chiêm ngưỡng tượng Phật, dù chỉ trong chốc lát, cũng có thể tiêu trừ tội lỗi, tăng trưởng phước huệ. Ngược lại, nếu sanh tâm khinh mạn, dù chỉ là một niệm, thị tội lỗi thêm lớn, phước thiện mất hết. Chỉ cần quán tưởng tôn dung pho tượng tương lai cũng sẽ thấy được kim thân thật của Phật.
Pháp bảo hiện nay là ba tạng kinh, luật, luận thâu gom tất cả những lời dạy của Đức Phật, là nơi lưu xuất pháp giới, danh cú văn tự được giải thích rõ ràng, làm phát sanh sự hiểu biết, cho nên phải đặc biệt trân quý. Để phát triển trí tuệ thì nên biên chép kinh điển. Trong tịnh thất thường an trí kinh điển trong tủ trang nghiêm, thường xuyên tôn kính; lúc tụng đọc thân thể phải tắm gội thanh tịnh.
Tăng bảo thì Bồ-tát, Thánh tăng hay Tăng phá giới phạm trai… đều phải khởi tâm cung kính bình đẳng như nhau, chớ có khởi sanh ý niệm khinh mạn.
Thứ ba là tu không gián đoạn: tức là niệm Phật liên tục, trong tâm khi nào cũng mong muốn được trở về Tịnh độ. Ở mọi nơi mọi lúc, tâm thường tưởng nhớ quê hương Cực Lạc, giống như một người tha hương cầu thực, làm thuê cuốc mướn xứ lạ quê người, chịu bao nhiêu điều tủi nhục không thể nào tả nỗi, chợt chạnh lòng nhớ mẹ nhớ cha, mong muốn được quay về quê hương, nhưng khổ nỗi không đủ điều kiện để trở về, do đó mà đành ở lại đất khách, ngày đêm tưởng nhớ quê nhà, khổ đau không thể nào nói hết! Lòng tưởng nhớ cha mẹ không lúc nào tạm nguôi, cho đến một ngày có đủ điều kiện, lập tức trở về quê cũ, gặp lại mẹ cha, tha hồ vui sướng. Hành giả niệm Phật cũng y như vậy. Cái nhân phiền não đã gieo từ trước làm cho thiện tâm hư nát, gia tài trân bảo phước trí đều bị mất hết, lâu nay trôi lăn trong sanh tử luân hồi, mất hết tự do mà không sao cưỡng lại được, lại thường làm bạn với ma vương, rong ruổi trong sáu đường, cả thân tâm cùng khổ. Ngày nay gặp được duyên lành, chợt nghe danh Từ phụ Di-đà, Ngài chưa bao giờ trái lời thề nguyện rộng lớn sâu xa, cứu độ tất cả chúng sanh, cho nên ngày đêm gấp rút phát tâm nguyện vãng sanh, nỗ lực tinh cần không hề mỏi mệt, thường nhớ ơn Phật cho đến trọn đời, niệm niệm liên tục, không hề gián đoạn.
Thứ tư là không tu pháp môn nào khác. Chỉ một lòng cầu sanh Cực Lạc, lễ niệm Di-đà, còn tất cả những pháp môn khác không nghĩ tới để tâm không bị tạp niệm.
Kết Luận
Chúng ta sanh ra trong thời kỳ mạt pháp, cách Phật xa thánh quá xa, đạo lý Tam thừa không có cách chi để khế ngộ. Chúng sanh hai cõi Trời, Người đều xáo động không yên, nên chỉ có những người trí tuệ cao siêu, tình thương rộng lớn mới có khả năng ở lại lâu dài, còn những kẻ nhận thức mê mờ, đức hạnh cạn mỏng, sợ bị chìm đắm trong u đồ ắt phải gấp rút thoát khỏi Ta-bà, gởi thần thức về nơi cõi Tịnh. Ngưỡng nguyện đồng duyên chánh sự, kỉnh phát thân tâm nương theo một pháp môn này, cắt trừ mối hoạ.
Mong đừng để tâm vướng vào danh lợi thế gian, chuốc lấy lao nhọc, lo lắng vô cùng. Đạo An và Huệ Viễn là hai vị cao tăng đời nhà Tấn, đạo phong vang khắp bốn phương, rốt cuộc chẳng khác gì tia điện chớp. Tăng Triệu, Đạo Sinh là hai vị danh tăng đức độ xuất chúng từng theo học với Đại sư Cưu-ma-la-thập, rốt cuộc cũng như Càn thành(58).
Văn chương diễn giảng tam không, cửu đoạn(59), lý sâu lời đẹp; giáo nghĩa thập địa, ngũ tu(60) ý nghĩa uyên áo, văn từ mênh mông. Công đức không phải một sớm một chiều, nghiệp thành đâu phải chỉ vài ý nghĩ. Trong mỗi sát na tích luỹ ý niệm nhiều như cát bụi, bởi vậy cho nên chín chỗ chúng sanh ở tâm thường tạo cảnh, cảnh hiện trong tâm, hoá ra cả hai đều ảo hoá. Thức biến hiện đủ thứ tà ma, nó là nguồn gốc của mọi vọng tưởng.
Đời người quá ngắn, đợi cho đến lúc gặp được bậc có trí tuệ chân thật e rằng đường chết không đợi mình! Vả chăng, bình tâm mà nói, thế trí biện thông chỉ tạo thêm nhiều nghiệp, chi bằng an thần niệm phật, chỉ tu học một pháp môn này?
Xoay vần đến kiệt sức ở cõi đời nhiễm ô này chi bằng dạo chơi nơi vườn thượng uyển ở Lạc Bang? Thần về Tịnh độ, thân như hư không, thể như vô cực ở trong Kim đài, cùng chứng diệu đạo, diện kiến Từ nhan; bẻ gãy nghi ngờ, hoài nghi trút sạch khi vừa nghe được âm thanh từ bi của Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí, ngay đó chứng quả vô sanh.
Biết bao nhiêu điều lợi ích, không thể nói hết, chỉ xin lược vài lời như vậy.
__________
Chú Thích
57. Tam bảo có ba bậc: Hiện tiền Tam bảo (chỉ Phật, Pháp, Tăng thời Phật còn tại thế), Trụ trì Tam bảo (chỉ Tượng Phật, Kinh sách, và chư Tăng sau Phật diệt độ), Nhất thể Tam bảo (hay Đồng thể Tam bảo, chỉ Tam bảo trong tự tánh của mỗi chúng sanh).
58. Càn thành, nói đủ là Càn-thát-bà thành. Luận Đại Trí độ ghi: Buổi sáng khi mặt trời mới mọc, nhìn về phía biển thấy cửa thành, lâu đài, cung điện, người ra người vào… đến khi mặt trời cao thì tất cả đều biến mất hết, những gì mắt nhìn thấy hoàn toàn là giả, nên gọi là Càn- thát-bà thành.
59. Tam không là nhân không, pháp không và nhân pháp đều không. Cửu đoạn là cắt đứt chín hoặc, đó là đoạn trừ được tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến, nghi, vô minh của khổ đế; và đoạn trừ được tà kiến, kiến thủ kiến, nghi, vô minh của tập đế.
60. Tức ý nghĩa của Thập địa Bồ-tát và ngũ trùng duy thức.