Kinh Di-đà nói: Không thể dùng một ít nhân duyên căn lành và chút ít phước đức mà có thể sanh về thế giới Cực Lạc.
Hỏi: Muốn vãng sanh Tịnh độ cần phải tu đại thiện, tạo đủ phước đức chứ đâu phải chỉ niệm suông danh hiệu Phật?
Đáp: Nói về thiện căn nhiều ít, chỉ cần coi có niệm Phật không thì biết. Nên nhớ rằng, nếu chẳng có thiện duyên trong quá khứ, thì đời này không thể nghe được danh hiệu Phật, nói chi đến niệm! Ngày nay chuyên tâm niệm Phật thì biết trong quá khứ đã gieo nhân thiện rồi. Cho nên, lòng tưởng niệm tây phương, quyết chí vãng sanh, đó là người đại thiện căn vậy! Còn ai tuy nghe Tịnh độ Di-đà, cũng phát ý nguyện vãng sanh, nhưng tiến thối do dự, tâm chưa quyết định, thì thì người này có chút ít thiện căn, không thể được vãng sanh.
Lại hỏi rằng: Cứ theo việc niệm Phật như vậy, thì chỉ niệm suông danh hiệu Phật, giả sử có chuyên tâm đi nữa, cũng đâu phải là đại thiện, nên niệm Phật hiệu làm sao vãng sanh?
Đáp:
Xin nói rõ việc niệm Phật. Pháp môn này gọi là tổng tu(41), nhưng căn cơ chúng sanh bất đồng nên nhận được sự lợi ích cũng chẳng giống nhau. Hạnh nguyện của chư Phật đều thành tựu trong danh hiệu này, cho nên chỉ cần xưng niệm danh hiệu là trọn đủ tất cả mọi công đức, thành tựu đại thiện, sao không được vãng sanh?
Trong kinh Duy-ma nói rằng: [Trong 10 hiệu Như Lai], thì 3 danh hiệu đầu (Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri), nếu Phật giảng rộng ra, tôn giả A- nan hết kiếp cũng không thể lãnh thọ. Luận Thành thật(42) giải thích danh hiệu của Phật, thì 9 danh hiệu đầu đều có ý nghĩa khác nhau, nhưng một từ mà gom hết ý nghĩa, danh hiệu và công đức của 9 danh hiệu đầu lại là danh hiệu Phật Thế Tôn. Chỉ giảng giải 3 danh hiệu đầu thôi mà trải qua suốt kiếp cũng không nói hết, và khả năng lãnh ngộ như A- nan mà cũng không hiểu nỗi, huống gì thêm sáu danh hiệu nữa! Cho nên, khi thành tựu danh hiệu Phật thì đã tích lũy, hàm tàng trong đó mọi công đức viên mãn, nên ai niệm Phật thì người ấy là được đại phước thiện vậy.
____________
Chú Thích
41. Người trí, kẻ hạ căn đều có thể tu tập được, nên gọi là tổng tu; đồng thời, pháp môn này hàm tàng đủ mọi công đức, nên gọi là tổng tu.
42. Luận Thành thật (S. Satyasiddhi-śāstra), 16 quyển, do Ha-lê-bạt-la (Harivarman) sáng tác, Cưu-ma-la-thập dịch sang Hán văn, ĐTK/ĐCTT 32, số 1646.