Trước Khi Lược Giải Tâm Kinh
1. Lược Nói Oai Linh Của Tâm Kinh Và Đức Quan Âm, Vị Thuyết Ra Tâm Kinh
Sử truyện của ngài Huyền tráng, dịch giả Tâm kinh, chép:
... Chừng canh ba, pháp sư lén vượt được cửa ải Ngọc môn, mừng lắm, để đồ xuống, nằm ngủ cách người Hồ hơn 50 bước. Mới nằm một lát, người Hồ rút dao đứng dậy, đi nhẹ về phía pháp sư. Đi chưa được mươi bước thì lùi lại, không biết ý gì. Pháp sư ngờ người Hồ có lòng khác, nên ngồi dậy niệm đức Quan âm. Thấy vậy, người Hồ về chỗ nằm ngủ. Trời gần sáng, pháp sư gọi dậy, lấy nước, lót lòng, rồi sắp đi thì người Hồ nói, đường đi nguy hiểm, xa xôi, nước không, cỏ chẳng có, chỉ nơi 5 đồn canh mới có nước. Đồn nào cũng phải ban đêm lén đến mới lấy được nước, và có nước mới qua được sa mạc này. Nhưng bị phát giác thì chết. Đệ tử nghĩ chẳng bằng quay về thì hơn. Pháp sư không chịu nên người Hồ miễn cưỡng mà đi. Được vài dặm, đứng lại, nói, đệ tử không thể đi được. Đệ tử còn gánh nặng gia đình, phép vua lại không thể vi phạm. Pháp sư biết ý, bảo cứ về. Người Hồ nói, chắc chắn pháp sư không qua khỏi, bị bắt rồi khai đến con thì sao? Pháp sư nói, thân này bị xả nhỏ ra tôi cũng không khai đến anh. Pháp sư thề thốt nặng lời, người Hồ mới yên bụng lui về, sau khi giao lại cho pháp sư một con ngựa.
Vậy là pháp sư đơn độc đi vào sa mạc. Chỉ nhìn xương người hay phân ngựa mà đi. Một lát bỗng có mấy trăm quân binh đầy cả trước mắt, thoáng đi thoáng ngừng, người ngựa cờ xí biến ảo liền liền, nhìn xa rất rõ, đến gần lại tan. Pháp sư mới nhìn nghĩ là giặc cướp, đến gần mới biết quái dị. Nhưng nghe trong không gian có tiếng nói, bảo cứ đi, đừng sợ. Đi được 80 dặm thì thấy đồn canh thứ nhất. Sợ lính canh nhìn thấy nên pháp sư núp vào hố cát, đến đêm mới đi. Khi đến phía tây đồn canh, thấy nước, pháp sư xuống uống, rửa tay, và sắp sửa lấy nước thì một mũi tên bay vút đến, xuýt trúng đầu gối. Thoáng cái lại có một mũi nữa. Biết đã bị phát giác, pháp sư kêu lớn, xin đừng bắn, tôi là tăng sĩ. Rồi dắt ngựa đi lại đồn canh. Binh sĩ điệu vào gặp hiệu úy Vương Tường. Nhưng chính nhờ viên hiệu úy này giúp đỡ mà pháp sư đến được đồn canh thứ tư. Viên hiệu úy ở đây nghe có lời Vương Tường nên hoan hỷ, mời ngủ lại, lại biếu túi da lớn để dựng nước và biếu lúa mạch cho ngựa ăn, tiễn pháp sư mà dặn đừng đi về phía đồn canh thứ năm. Viên hiệu úy ở đó có thể hại ngài. Từ đây đi cỡ trăm dặm thì có suối Dã mã, ngài hãy lấy thêm nước ở đó.
Vậy là pháp sư đi vào đại sa mạc Mông cổ. Đại sa mạc này dài hơn 800 dặm. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy. Nước không có, cỏ cũng không. Bấy giờ pháp sư một mình một ngựa, chỉ niệm đức Quan âm và bài Tâm kinh mà đi. Hồi trước, khi còn ở đất Thục, pháp sư gặp một bịnh nhân, ghẻ lở hôi thối dơ bẩn, áo quần rách rưới dơ dáy. Pháp sư đưa về chùa, tặng quần áo, biếu thực phí. Bịnh nhân cảm kích, truyền thọ bài kinh ấy cho pháp sư (66) . Nhân đó pháp sư đã thường trì tụng. Bây giờ, khi vào đại sa mạc, gặp bao nhiêu hiện tượng quái dị vây bọc trước sau, pháp sư niệm bài kinh này thì tan biến liền. Bao nhiêu nguy khốn mà pháp sư phải gặp, thật do bài kinh này cứu độ.
Pháp sư đi cỡ trăm dặm thì lạc đường, tìm suối Dã mã không thấy. Lấy túi nước xuống để uống thì lỡ tay đổ cả. Vật độ mạng trên đường ngàn dặm, thoáng cái sạch hết! Vậy mà còn lạc đường đến nỗi quanh quẩn không biết nên đi theo ngã nào. Pháp sư nghĩ quay lại hướng đông, chỗ đồn canh thứ tư đã. Nhưng đi hơn mươi dặm, pháp sư tự nghĩ, mình đã nguyện không đến xứ Phật thì không lui về hướng đông một bước, sao nay quay về. Thà đi tới hướng tây mà chết, chứ không quay về hướng đông để sống. Trở ngựa lại, pháp sư chuyên tâm niệm đức Quan âm mà đi tới hướng tây bắc. Bấy giờ bốn bề cát nóng mênh mông, người ngựa đều lả. Đêm thì yêu quái nhấp nháng như sao, ngày thì cuồng phong cuốn cát lên, tung bay như mưa mùa. Pháp sư không nao núng gì cả, chỉ khổ vì khát quá, không đi được nữa. Đã 4 đêm 5 ngày rồi, pháp sư không có một giọt nước thấm môi. Cổ, miệng và bụng khô nóng gần chết. Quị xuống mặt cát nóng rát dưới cái nắng sa mạc mà pháp sư vẫn thầm niệm đức Quan âm, khốn đốn đến thế mà không ngừng, thầm bạch rằng con đi đây không cầu lợi lộc, không mong danh vọng, chỉ vì Phật pháp vô thượng mà thôi. Bồ tát là đức Từ bi, thương người mà cứu khổ. Con thế này là đang khổ đây, lẽ nào ngài không biết. Pháp sư tác bạch như vậy và không ngừng niệm danh hiệu của ngài. Nửa đêm hôm ấy là đêm thứ năm, đột nhiên có luồng gió mát thổi đến thân thể pháp sư. Pháp sư nghe mát như tắm nước lạnh. Nhờ vậy mà sáng mắt, ngựa cũng dậy được. Cơ thể đã thư, pháp sư thiếp được một lát, mộng thấy vị thần cao lớn, bảo sao không gắng dậy mà đi, lại nằm như thế này. Pháp sư hoãng dậy, đi được mươi dặm thì đột nhiên ngựa tự rẽ qua ngã khác, kéo lại cũng không chịu. Đi vài dặm bỗng thấy cả mẫu cỏ xanh. Pháp sư cho ngựa ăn, và đi mươi bước thì thấy một ao nước, trong và ngọt. Uống rồi người ngựa đều khỏe, nghỉ lại 1 ngày. Hôm sau múc nước, lấy cỏ, và đi tới. Hai ngày sau nữa pháp sư mới ra khỏi sa mạc ... (Chính 50/223).
... Lại đến nước Y lan noa bát phạt đa. Trên đường đến đó có già lam Ca bố đức. Phía nam già lam này, cách vài ba dặm, có hòn núi đơn độc, cây cao cỏ tốt, lá rậm hoa thơm, ao trong suối đẹp. Núi là thắng cảnh mà lại có chùa thiêng, cảm ứng thần kỳ. Tinh xá chính giữa có ngôi tượng Quan âm bằng gỗ đàn hương, uy thần đặc tôn. Thường có vài mươi người, trong một hay hai tuần không ăn cơm, không dùng cả nước có thực phẩm nghiền nát, thành tâm cầu nguyện. Ai chân thành thì cảm ứng. Và cảm ứng luôn, nên người đến càng đông. Người trong chùa sợ tượng bị bẩn, nên bốn phía cách tượng chừng 7 bước, dựng lan can gỗ. Ai đến cũng triều bái ở ngoài lan can. Hoa hương hiến cúng cũng từ ngoài tung vào. Hoa của ai nằm trong tay hay mắc vào cánh tay của Bồ tát thì được cát tường.
Pháp sư cũng đến cầu nguyện. Mua hoa, xâu thành vòng, pháp sư đến chỗ tôn tượng, chí thành lễ bái tán dương rồi, quì xuống cầu nguyện 3 điều. Một, tại đất Ấn độ này con học tập xong rồi, về nước mà được an toàn thì xin hoa nằm trong bàn tay của ngài. Hai, bao nhiêu phước tuệ có được, con nguyện sinh Đâu suất nội viện, phụng sự Di lạc từ tôn, nguyện này như ý thì xin hoa mắc vào cánh tay của ngài. Ba, giáo lý có chỗ nói chúng sinh có một số không có Phật tánh, nay con nghi hoặc, không rõ có hay không có; nếu một số ấy cũng có Phật tánh, có thể tu hành thành Phật, thì xin hoa mắc vào cổ của ngài. Tác bạch rồi, pháp sư tung hoa vào, được đúng cả như lời cầu nguyện. Pháp sư hoan hỷ hết sức. Những người lễ bái và người trong chùa ai cũng vỗ tay, dậm chân, mà nói thật là chưa từng có (Chính 50/239).
... Từ biệt rồi, pháp sư yên lặng, chánh niệm, miệng tụng: sắc không, thọ tưởng hành thức cũng không, nhãn giới không, cho đến ý thức giới cũng không, vô minh không, cho đến lão tử cũng không, thậm chí bồ đề cũng không, không ấy cũng không ... Đệ tử là Đại thừa quang hỏi pháp sư chắc chắn được sinh Di lạc nội viện không, pháp sư nói chắc chắn. Nói rồi, hơi thở nhẹ dần, một lát pháp sư mất mà nhẹ nhàng đến nỗi thị giả không biết liền ... (Chính 50/277).
Sử truyện của ngài Huyền tráng đến nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Học giả ra sức khảo chứng càng không ít. Trong bao nhiêu nguy khốn mà ngài trải qua có sa mạc Gobi. Ở đó, ngày nay không nói cuồng phong cuốn cát lên tung bay như mưa mùa, mà nói là bão cát. Cũng ngày nay, phi cơ loại trung bình bay trên vùng trời sa mạc này vẫn dồi sốc rất khó chịu. Nên học giả thế giới đã và vẫn còn khiếp phục ngài Huyền tráng, nhận rằng phi sức mạnh tôn giáo thì không dễ gì vượt qua bao nhiêu nguy khốn mà ngài đã gặp. Oai linh của đức Quan âm, và của bài Tâm kinh mà đức Quan âm tuyên thuyết, chính cuộc đời và công nghiệp của ngài Huyền tráng là một minh chứng (67) .
2. Lược Nói Bát Nhã Và Không Của Bát Nhã Trong A Hàm
Bát nhã trong A hàm.- Trong bộ A hàm, chánh tri kiến chính là Bát nhã. Chánh tri kiến gọi tắt là chánh kiến, có nghĩa thấy biết chính xác. Nên chánh tri kiến cũng gọi là như thật tri kiến hay như thật tri, có nghĩa thấy biết đúng như sự thật. Và tri kiến mà chánh, mà như thật, thì có nghĩa vô đắc: không thủ đắc. Trưởng giả Cấp cô độc hằng ngày đến yết kiến đức Thế tôn. Một hôm ra đi hơi sớm, trưởng giả ghé vào tinh xá của ngoại đạo. Hai bên chào hỏi nhau rồi, các vị ngoại đạo hỏi trưởng giả, ông yết kiến đức Cù đàm mà thấy biết những gì? Trưởng giả thưa, xin quí vị nói sự thấy biết của quí vị rồi tôi sẽ thưa sự thấy biết của tôi. Các vị ấy nói những sự thấy biết của mình: đối với thế giới thì thấy cố định hay thấy chuyển biến, thấy hữu hạn hay thấy vô hạn, đối với sinh mạng và bản thân thì thấy đồng nhất hay thấy biệt lập, đối với sự diệt khổ rồi thì thấy vĩnh cửu hay thấy hư vô. Vị nào cũng nói cái mình thấy biết là chân lý, ngoài ra đều tà ngụy cả, và bảo trưởng giả hãy nói sự thấy biết của ông. Trưởng giả thưa, cái tôi thấy biết là duyên khởi (tương quan): thấy biết duyên khởi thì đối với mọi sự thấy biết đều không thủ đắc (Tạp, Chính 2/248, lược dịch).
Thấy biết như vậy là thanh tịnh kiến: thấy biết trong sáng. Thấy biết trong sáng là thấy Không; Không ấy là Thánh pháp ấn: ấn tín của Phật đối với vạn hữu (Tăng, Chính 2/20).
Không trong bộ A hàm.- Trước đây hay nói Không của tiểu thừa là phân tích không, nói Không của đại thừa là đương sinh vô sinh, lại nói Không của tiểu thừa là không trong 4 hành tướng vô thường khổ không vô ngã. Những cách nói như vậy xét ra thật là võ đoán. Bởi vì Tạp a hàm đã nói minh bạch, rằng Không là tánh tự nhĩ: thực chất tự như thế (Chính 2/56). Kinh ấy còn nói không phải tự sinh, tha sinh, cọng sinh, vô nhân sinh (Chính 2/81 và 93). Vậy thì Không không phải chỉ là không trong 4 hành tướng, mà Không là căn bản của tất cả lý, hạnh, quả, là Không tam muội.
Về Không là căn bản của tất cả lý hạnh quả thì hãy tham cứu 2 bài kinh chuyên nói về Không trong Trung a hàm (Chính 1/736-740); 2 bài kinh này nếu không biết đến thì đừng nói gì về Không cả. Còn Không là Không tam muội thì như Phật nói với tôn giả Xá lợi phất, Không tam muội là rất bậc nhất ... Không tam muội thì không chấp ngã nhân, thọ mạng, không chấp chúng sinh, không chấp các hành, nên không tạo nghiệp mới, không tạo nghiệp mới nên không còn hậu hữu, không còn hậu hữu thì không có quả báo khổ vui của thế gian. Xá lợi phất, khi ta chưa được tuệ giác Phật đà, ngồi dưới bồ đề đại thọ nghĩ rằng chúng sinh vì không được phương pháp gì mà phải lưu chuyển sinh tử, không được giải thoát? Ta lại nghĩ, chúng sinh vì không có Không tam muội nên lưu chuyển sinh tử mà không cứu cánh giải thoát ... Được Không tam muội thì được Vô nguyện tam muội, được Vô tướng tam muội; được Không tam muội thì thành tựu Vô thượng giác. Lúc bấy giờ ta được Không tam muội nên 7 ngày đêm ta nhìn bồ đề đại thọ không nháy mắt. Xá lợi phất, do vậy mà biết Không tam muội là tam muội bậc nhất; tam muội chúa tể chính là Không tam muội (Tăng, Chính 2/773).
Không tam muội còn được gọi là Thượng tọa thiền (Tạp, Chính 2/57). Đại sĩ thiền của kinh này nói (Chính 2/236) cũng thực sự là Không tam muội. Vô tránh đạo của ngài Tu bồ đề (68) chính là thực hành chân thực không (Trung, Chính 1/703). Không, như vậy, là tâm trí không đi theo 2 cực đoan nên chánh hướng trung đạo (Tạp, Chính 2/84).
Chánh tri kiến và Không tam muội như vậy hủy diệt cái gì? Cái ấy, hay nói đến nhất là ngã và ngã sở, nhưng hay nói đến hơn nữa là 2 chấp có và không. Có và không, không phải chỉ là 2 cực đoan, 2 phạm trù khẳng định và phủ định, mà Tăng a hàm giải thích thật đặc biệt: Đức Thế tôn nói với các vị tỷ kheo, có 2 sự thấy là thấy có với thấy không. Thấy có là thế nào? Là thấy có dục có sắc có vô sắc -- Thấy có dục là 5 dục: mắt thấy sắc thì rất ưa, quí và nhớ, chưa bao giờ rời bỏ mà cứ tôn thờ mãi; tai nghe tiếng, mũi ngửi hơi, lưỡi biết mùi, thân biết xúc, ý biết pháp (cũng như vậy), và đó gọi là thấy có. Thấy không là thế nào? Là thấy có thường thấy không thường, thấy có đoạn thấy không đoạn, thấy có biên thấy không biên, thấy có mạng thấy không mạng, thấy thân mạng khác nhau thấy thân mạng là một, (và) 62 sự thấy (xuất từ các sự thấy) như trên gọi là thấy không, và toàn là không phải sự thấy chính xác (Chính 2/577). Do đó luận Du dà đã nói: Không tam muội là tâm trí chuyên nhất quán sát về Không, và Không ấy đại khái có 4. Một là quán sát không: quán sát các pháp không thường, không lạc, cho đến không tự ngã, không ngã sở ... Hai là kết quả không: tâm trí giải thoát, không mọi phiền não tham sân si ... Ba là bên trong không: không bản thân, nghĩa là không có mọi cố chấp lệch lạc về tự ngã, ngã sở, ngã mạn ... Bốn là bên ngoài không: không ngũ dục, nghĩa là không ái không dục đối với ngũ dục ấy (Chính 30/337).
Không như vậy vì sao có thể thực hiện? Vì như Trung a hàm đã nói: Nếu có ai nói một cách đúng đắn để nói cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp, thì người ấy chính là ta đây -- Bởi vì chính ta nói đến cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp (Chính 1/680). Tạp a hàm còn nói rõ: Không phải giác quan buộc đối cảnh hay đối cảnh buộc giác quan, mà sự buộc chỉ là tham dục; ví như 2 con bò chẳng con nào buộc con nào, mà buộc cả 2 con chính là cái ách (Chính 2/60). Pháp thoại sau đây càng nên chú ý. Ma la ca thưa, bạch đức Thế tôn, con già cả, giác quan suy tàn, nhưng vẫn muốn được nghe đức Thế tôn cho con một lời dạy tóm tắt. Con nghe rồi sẽ tinh chuyên tư duy, cho đến tự biết không còn hậu hữu. Đức Thế tôn bảo thôi. Ma la ca vẫn cầu thỉnh lần thứ hai rồi lần thứ ba. Bấy giờ đức Thế tôn mới nói, ... thấy là thấy, nghe là nghe, hay là hay, biết là biết, và nói chỉnh cú sau đây: cái này không phải cái kia, cái kia không phải cái này, cũng không phải giữa hai cái, đó là biên cương đau khổ (đau khổ chấm dứt). Ma la ca thưa, con biết rồi bạch đức Thế tôn, con hiểu rồi bạch đức Thiện thệ! Đức Thế tôn hỏi, ông hiểu biết thế nào? Ma la ca thưa lại bằng lời chỉnh cú (lược dịch): sáu giác quan thấy nghe hay biết sáu đối cảnh mà không chánh niệm thì nổi tham sân si, nếu chánh niệm thì không tham sân si: đó là niết bàn. Rồi đó Ma la ca bất phóng dật mà tinh chuyên tư duy và thành bậc La hán (Tạp, Chính 2/90).
Như vậy thì vì "không" mới "có".- Không, như vậy, thực chất là đem cái tâm vốn không mà quán sát các pháp vốn không (Tạp, Chính 2/72). Không, như vậy, không phải đoạn kiến: không phải phủ định, hoài nghi, nên Tạp a hàm (Chính 2/92) đã nói: các tỷ kheo, có nghiệp báo mà không có tác giả: có hành vi và có kết quả của hành vi mà không có cái gọi là chủ thể (bản ngã). Trường a hàm nói càng rõ và đủ hơn: Như lai sử dụng phương tiện, nói các pháp mà không thủ đắc, nói sạch không mà có thành tựu (Chính 1/35). Như vậy đúng là "dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thế pháp đắc thành" (Trung luận, Chính 30/33). Nên phải chiêm nghiệm lời dạy đầy tính tích cực sau đây của Phật: Cái thân vô thường mà ông cho là tự ngã đó, ta nói nó là ô nhiễm, là thanh tịnh, là giải thoát. Ông đừng nói ô nhiễm không thể diệt trừ, thanh tịnh không thể phát sinh, con người phải ở mãi trong sự đau khổ; đừng nói như vậy, vì ô nhiễm có thể diệt trừ, thanh tịnh có thể phát sinh, con người có thể ở trong an lạc (Trường, Chính 1/112).
Trích từ: Lược Giải 2 Thời Công Phu