Kinh Bát Ðại Nhân Giác, bố cục thành ba phần:
Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ.
Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy.
Phần ba là phần khuyến khích tu tập theo tám điều giác ngộ ấy, phần này coi như là phần kết thúc của kinh.
Ðể giải thích sát với kinh văn chúng tôi trình bày theo cách thông thường, nghĩa là mỗi Bài gồm phần chánh văn, dịch nghĩa, giải thích và kết luận.
I. Chánh Văn
Ðệ nhứt giác ngộ
Thế gian vô thường
Quốc độ nguy thúy
Tứ đại khổ không
Ngũ ấm vô ngã
Sanh diệt biến dị
Hư ngụy vô chủ
Tâm thị ác nguyên
Hình vi tội tẩu
Như thị quán sát
Tiệm ly sanh tử
II. Dịch Nghĩa
Ðiều thứ nhất, giác ngộ rằng cuộc đời là vô thường, vũ trụ mong manh tạm bợ. Sự cấu tạo của bốn đại là trống rỗng và có tác dụng gây đau khổ, tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thực và không có chủ thể. Tâm ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi. Quán chiếu như thế dần dần thoát ly sanh tử.
III. Giải Thích Nội Dung
Ðiều giác ngộ thứ nhất, được coi là tu quán Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứ là pháp tu đặc biệt của Phật giáo, là pháp môn quan trọng, là con đường duy nhất dẫn đến Niết Bàn (Ekayana maggo). Tác dụng của pháp quán này được Ðức Phật dạy rất rõ trong Kinh Niệm Xứ, Trung A Hàm 98: "Nếu Tỳ Kheo nào trong từng khoảnh khắc lập tâm chánh trụ nơi bốn Niệm Xứ, nếu buổi sáng thực hành như vậy thì buổi tối liền được thăng tấn. Nếu buổi tối thực hành như vậy thì nhất định sáng hôm sau sẽ được thăng tấn" (Trung A Hàm I. T 578). Nội dung của chánh niệm chính là quán niệm về Tứ Niệm Xứ. Vì vậy điều thứ nhất giác ngộ được coi là tương đương với chánh niệm của kinh Bát Niệm, phép quán niệm về bản chất của vũ trụ nhân sinh được đưa vào đầu tiên nhằm củng cố cái nhìn của người Phật tử bằng chánh kiến, là sự nhận thức rõ về sự vật hiện tượng. Quán niệm không phải là cái suy nghĩ hay nhận thức thông thường mà là ý thức về đối tượng, duy trì ý thức ấy trên đối tượng, đồng thời đi sâu vào lòng đối tượng ấy, nhờ đó mà ta có cái nhìn rõ về đối tượng. Kết quả của sự quán chiếu đối tượng như thế là sự hợp nhất giữa chủ thể và đối tượng, ta hiểu đối tượng như chính ta.
Ðối tượng của sự quán chiếu thứ nhất là nhân sinh và vũ trụ:
" Cuộc đời là vô thường
Vũ trụ mong manh tạm bợ".
Quán chiếu về tính cách vô thường của đời sống con người và hoàn cảnh mà con người đang sống làm cho ta thấy rõ bản chất của sự vật. Chúng ta đau khổ vì chúng ta ngu si không thấy rõ tính chất vô thường mong manh tạm bợ của cuộc đời, vì không thấy rõ nên ta tham đắm chấp thủ cuộc đời rằng cái này là ta, là của ta, từ đó phiền não sinh ra: tham, sân, kiêu căng, hoàụi nghi, sợ sệt ...
Thân thể là vô thường: Ðây là điều dễ hiểu dễ thấy nhưng ít người chấp nhận một cách sâu sắc, có sinh thì có già, có bệnh và chết. Sự chuyển biến hủy hoại theo thời gian của thân thể là một sự thật khách quan. Sự đau khổ của chúng ta không phải là do tính vô thường của thân thể mà chính là do chấp thủ, tham đắm vào thân thể mà đau khổ phát sinh.
Tâm lý là vô thường: Tâm của ta không đứng yên một chỗ mà là chuyển biến liên tục như dòng nước chảy xiết buồn, vui, thương, ghét, giận, lo lắng, những quan điểm, khái niệm đúng, sai, tốt, xấu thay đổi không ngừng nhấp nhô như sóng biển bất tận, vui đó rồi buồn đó, thương rồi giận... không ai làm chủ được tâm lý của mình.
Tình cảm là vô thường: Tình thương của cha mẹ đối với con cái, vợ đối với chồng, anh em, bạn bè, quê hương đất nước... không có gì là chắc chắn bền bỉ. Tình yêu rồi thù hận, trung thành rồi phản bội, thương nhau lắm cắn nhau đau...
Tài sản tiền bạc là vô thường: Có rồi không, được rồi mất, giàu rồi nghèo, hết sức mong manh tạm bợ, dễ bị lửa cháy, nước trôi, nhà nước tịch thu, trộm cướp và con cái phá tán.
Danh vọng địa vị là vô thường: Công danh sự nghiệp chức tước địa vị thăng giáng vô thường, vinh quang rồi tủi nhục, kính trọng hay khinh bỉ không có gì tồn tại mãi.
Hoàn cảnh vô thường: Hoàn cảnh xã hội, đường lối sách lược luôn luôn thay đổi, đất lở, sông bồi, núi non hay biển cả, mây gió trăng sao đều luôn luôn chuyển biến "thương hải biến vi tang điền" là điều thường thấy.
Tất cả đều nằm trong qui luật: vô thường, hoại diệt. Quán chiếu về tính chất vô thường của vũ trụ nhân sinh không nhằm mục đích đưa đến thái độ bi quan yếm thế mà chính là hướng dẫn ta có cái nhìn chính xác về sự thật của đời sống. Nhờ có cái nhìn rõ ràng và sáng suốt như vậy mà ta được an ổn, trầm tĩnh, không ưu tư sầu muộn, đau khổ về đời sống, ta đạt được giải thoát, tự do. Kinh Pháp Cú Ðức Phật dạy:
"Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như huyễn cảnh
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp"
Ðối tượng quán chiếu tiếp theo là bốn đại và năm uẩn để thấy được tính chất vô ngã của chúng, nghĩa là thấy được sự trống rỗng không có chủ thể của bốn đại và năm uẩn. Bốn đại là bốn nguyên tố vật chất theo quan điểm triết học Ấn Ðộ cổ đại tất cả hình thể vật chất đều do sự cấu thành của bốn nguyên tố nầy. Nhưng khi diễn tả sự cấu thành thân thể con người, đạo Phật không dừng ở đó mà thêm hai nguyên tố nữa là không đại và thức đại. Năm uẩn là năm nhóm tạo thành con người gồm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là thân thể bao gồm bốn đại ở trên; thọ là nhóm cảm giác; tưởng là nhóm tri giác; hành là nhóm động lực tâm lý và thức là nhóm nhận thức. Nói một cách tổng quát thì con người do bốn đại và năm uẩn cấu thành, ngoài bốn đại và năm uẩn không có cái gì gọi là con người cả.
Quán chiếu về bốn đại tức là bốn yếu tố vật chất để thấy rõ bản chất trống rỗng của chúng. Cần chú ý là vật chất ở đây chỉ cho thân thể của ta. Thân ta nếu phân tích sẽ thấy nó gồm có đại địa, tức xương thịt, các chất rắn; Thủy đại tức nước tiểu, mồ hôi, nước mắt nói chung là chất lỏng; Hỏa đại là hơi ấm, nhiệt độ thân thể, còn nhiệt độ là còn sống; Phong đại là thể khí như không khí để thở, khoảng không chứa đựng các loại khí... Nếu bốn yếu tố nầy đầy đủ điều hoà thì thân thể ta khỏe mạnh, nếu một trong bốn yếu tố mất thăng bằng thì thân thể bị bệnh hoặc khó chịu ngay. Bản chất của chúng là không có tự tính, chúng phải dựa vào nhau mà tồn tại hay nói cách khác chúng tồn tại do duyên sinh. Vì vậy không có gì là chắc chắn bảo đảm, chúng vô thường. Thân thể chúng ta là vô thường như phép quán đầu tiên, chúng vô thường vì chúng trống rỗng, nghĩa là vô ngã. Chúng vô ngã vì chúng tồn tại có điều kiện. Ðó là qui luật của thực tại. Vì vậy kinh văn nói: " Sự cấu tạo của bốn đại là trống rỗng". Sự vô thường, vô ngã của bốn đại là qui luật khách quan, nhưng tại sao trong kinh văn cho là "khổ"? Thực ra cái khổ không do vô thường hay vô ngã của thân thể mà do nhận thức chấp thủ rằng thân thể là thường, là ngã, là tôi, là của tôi mà sinh ra cái khổ, nên kinh văn (được) dịch là "có tác dụng gây ra đau khổ". Vậy đau khổ ở đây là do không quán chiếu để thấy rõ bản chất của thân thể (hay của bốn đại) là "vô ngã" mà chấp vào nó nên "khổ".
Quán chiếu về bốn đại tức là quán chiếu về yếu tố sắc uẩn trong năm uẩn. Tiếp tục quán chiếu về bản chất của con người chính ta, bằng cách soi chiếu sâu sắc vào năm uẩn, về mặt tinh thần, tâm lý thì được chia thành bốn nhóm:
Nhóm cảm giác (Vedanà): Là thọ hay cảm thọ. Nhìn sâu vào nhóm cảm thọ ta sẽ nhận diện bộ mặt thật của chúng; chúng sinh trưởng và hoại diệt như thế nào? Cảm thọ có nhiều loại, khái quát có ba loại chính: Cảm thọ khổ, cảm thọ vui sướng, cảm thọ trung tính (không khổ, không vui). Một cảm giác sinh khởi nó tùy thuộc các điều kiện nhân duyên. Nó không tự tồn tại và không có giá trị lâu bền. Một cảm giác dễ chịu thoải mái do đâu mà sinh? Nguồn gốc của nó có thể từ vật chất như ta có một món tiền lớùn hay một bữa ăn ngon chẳng hạn. Nguồn gốc của nó có thể từ tâm lý như khi ta thương yêu hay thưởng thức một Bài thơ hay, ta khoan khoái dễ chịu. Quán chiếu sâu hơn ta thấy các cảm thọ còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố như không gian, thời gian, trình độ văn hóa, thời tiết, điều kiện xã hội.... rõ ràng là cái cảm giác buồn hay vui chứa đựng cả một bầu trời duyên sinh chỉ cần thiếu đi một yếu tố, chi tiết nào đó cảm thọ vui sẽ giảm hoặc mất đi. Vậy ở trong cảm thọ cái gì là cái ta, cái của ta? Chúng không thực và không có chủ thể.
Nhóm tri giác (Tưởng sannakhandha): Chúng là sự nhận thức, sự cấu thành khái niệm về đối tượng là vật lý hay tâm lý. Ðây là nhóm nhận thức sau khi các giác quan tiếp xúc với ngoại cảnh; nó thu nhận đối tượng và biểu tượng hóa cái đối tượng của giác quan. Tưởng thiết lập cơ sở các dữ liệu cho nhận thức lý luận, cho sự nhận thức sâu hơn về thế giới vật lý hay tâm linh. Nhóm tri giác có sáu loại tượng ưng với sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng mà sanh nhận thức về các đối tượng ấy.
Cũng như Thọ (cảm giác), nhóm Tưởng đòi hỏi và tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhiều điệu kiện nhân duyên, sự cấu thành nhận thức, khái niệm về sự vật là như thế nào; tùy thuộc vào yếu tố không gian, thời gian, thời tiết, điều kiện văn hóa, xã hội ... ở trong chúng không có cái gì gọi là bền vững hay riêng lẻ.
Nhóm tạo tác tâm lý (Hành sankhàra): Hành là quá trình tạo tác tâm lý, một loại ý định, chủ tâm. Thực ra thọ hay tưởng đều thuộc về hành nhưng thọ và tưởng không tạo tác kết quả nghiệp nên được tách riêng. Hành mới có tác dụng tạo nghiệp đưa đến thiện, ác và tái sanh.
Những hiện tượng tâm lý gọi chung là tâm hành, Duy thức học gọi là tâm sở -- cảm giác và tri giác không phải là những hoạt động ý chí nên không bao gồm trong hành uẩn. Hành uẩn gồm những tâm lý phát sinh động lực và tạo tác dụng thúc đẩy năng lực đi tới như tham dục, sân hận, hãm hại hoặc ước muốn, tin tưởng, tinh tấn ... Những hoạt động tâm lý thuộc hành uẩn diễn ra khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng giác quan.Ví dụ khi mắt thấy sắc đẹp sinh ra tham muốn, sự vướng mắc vào đối tượng tham đắm hay giận hờn, nó tùy thuộc rất nhiều điều kiện khác nhau, nói cách khác nó cũng do duyên sinh không có yếu tố tạo tác tâm lý nào là cố định, tự phát. Chúng tùy thuộc vào nhân duyên mà sinh và nhân duyên mà diệt.
Nhóm Thức (Vinnàna): Thức là một phản ứng căn bản khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, gồm sáu loại: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Về sau, Ðại thừa duy thức triển khai thêm hai thức nữa là Mạt na thức và A lại gia thức, gọi một cách tổng quát là tâm vương. Cần phân biệt thức uẩn và tưởng uẩn. Thức thì nhận biết đối tượng sự hiện diện của đối tượng. Ví dụ khi mắt thấy sắc, thức nhận thức về sự hiện của một đối tượng như bông hoa chẳng hạn. Còn tưởng là tri giác sẽ nhận ra đấy là hoa hồng hay hoa lài, màu đỏ hay màu trắng.
Thức, theo Phật giáo, không phải là một linh hồn tồn tại độc lập, Ðức Phật dạy: "Thức được gọi tên tùy theo điều kiện nhờ đó mà đó sinh khởi: Nhờ con mắt và đối tượng con mắt mà thức phát sinh, gọi là nhãn thức ...". Thức tồn tại nhờ sắc ...nhờ thọ ... nhờ hành ..." Như vậy thức không tồn tại độc lập và không có cái ngã trong thức.
Tóm lại quán chiếu để thấy rõ bốn đại và năm uẩn là trống rỗng, là vô ngã, là duyên sinh. Nhờ thấy rõ bản chất của chúng mà đoạn trừ được tham ái và chấp thủ vào chúng. Khi đã buông xả ý niệm về thân tôi, về tôi, về tự ngã của tôi thì mọi ảo tưởng về thân sẽ tan biến gọi là đoạn trừ thân kiến, bước đầu của bậc Kiến đạo.
Ðối tượng quán chiếu thứ ba là khía cạnh bất thiện của thân và tâm, cũng có nghĩa phải thấy rõ mặt tiêu cực, nguy hiểm của thân và tâm để mà đề phòng, hạn chế xu hướng phát triển của chúng.
Kinh văn dạy: "Phải quán chiếu tâm ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi". Trước hết cần xác định rằng: Ðiều ác, điều bất thiện là do tâm tạo tác chứ không phải từ bên ngoài phát sinh, đây là lập trường căn bản của giáo lý về nghiệp. Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật dạy: "Trong các pháp tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm nhiễm ô để nói năng hay hành động thì kết quả đau khổ đi theo như bánh xe lăn theo con vật kéo xe... Nếu đem tâm thanh tịnh để nói năng hay hành động thì kết quả hạnh phúc đi theo như bóng theo hình". Thiện, ác, đau khổ hay hạnh phúc đều xuất phát từ tâm ý. Tuy nhiên ở đây kinh chỉ đề cập đến khía cạnh bất thiện, đau khổ mà thôi. Từ những nhận thức sai lầm dẫn đến các tâm lý bất thiện tham, sân, si, mạn, nghi, tạo thành động lực cho ác nghiệp. Cũng cần phải thấy rõ sức mạnh của nghiệp bất thiện nó có mặt từ quá khứ, tức là nhiều đời kiếp về trước nên khó đoạn trừ, đừng chủ quan, hời hợt và coi thường chúng; có quán chiếu sâu sắc mới thấy những tiềm ẩn vi tế, gốc gác sâu xa của chúng. Thân thể là nơi tích tụ tội lỗi, đây cũng là quán chiếu để thấy rõ mặt tiêu cực của thân. Thân vật lý nó có những quy luật tồn tại riêng của chúng; chúng có những nhu cầu (tồn tại ) sinh tồn. Những đòi hỏi thỏa mãn nếu ta không nhận ra đâu là nhu cầu thực và chính đáng, đâu là nhu cầu giả tạo không cần thiết của thân thì rõ ràng ta bị thân lôi cuốn vào tội lỗi. Phần lớn những tội lỗi sinh ra do thân làm động cơ, làm điều kiện; tất cả những nhu cầu ăn, mặc thỏa mãn sinh lý, những lạc thú đều từ thân, do thân. Vì vậy, không nên coi thân là quan trọng mà phải thấy rõ chúng đề sử dụng chúng như là phương tiện tu tập và hành đạo.
IV. Kết Luận
Ðiều giác ngộ thứ nhất là quán chiếu để thấy rõ pháp ấn: Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, ở nơi thân tâm của con người với mục đích bỏ những vướng mắc tham đắm, chấp thủ đối với con người và cuộc đời. Duy trì sự quán chiếu ấy trên đối tượng thân, tâm, hoàn cảnh của mình; mình sẽ có thái độ ứng xử thích hợp với chân lý. Ðây không phải là lối nhìn bôi đen đời sống, là lối nhìn tiêu cực, mà chính là cách nhìn của tuệ nhãn đầy tích cực, nó có tác dụng mang lại sinh lực cho chúng ta. Con người đau khổ mất mát sinh lực chính là do nhìn đời ngược lại. Thành tựu các "niệm xứ" như kinh đã dạy, tức là bước vào Thánh đạo, không có con đường nào khác. Nhãn quan của đạo Phật về cuộc đời quá rõ như kinh Kim cương dạy:
" Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán".