* Hỏi: Đồng nghiệp khăng khăng lôi kéo tôi đi nghe giảng đạo, về mặt tình cảm giao tiếp, so ra họ thành công hơn nhà Phật. Phật giáo nói “từ bi, phổ độ chúng sanh” quả thật rất hay, nhưng lạnh lùng, rất ít thấy tác dụng có sức mạnh, hiệu quả ở chỗ nào. Bọn họ hướng lên hư không, khóc lóc cầu nguyện quá ư giả dối, đây là nói về đạo Gia Tô. Về phương diện giảng đạo, họ nói cũng rất có lý, mọi sự dường như có một vị tổng chủ tể, chẳng biết có đúng hay không? (Lưu Thiên Càn hỏi)
Đáp: Phật giáo lạnh lùng, chẳng phải là giáo nghĩa của Phật như vậy, đấy là do người tu đạo có động thái sai lầm, chỉ có thể trách người, chẳng thể trách giáo. Phiền cư sĩ tìm một cuốn Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm tặng cho người bạn, [người ấy] sẽ biết tinh thần thật sự của nhà Phật, đừng vì con người sai lầm mà đổ lỗi cho giáo. Lại bàn đến chuyện thấy họ khóc lóc cầu nguyện nhiệt thành, đấy là cách nhìn của mỗi người khác nhau, Khổng Tử vì đạo, chiếu ngồi chẳng kịp ấm, nghe nhạc Thiều[1] ba tháng, chẳng biết đến mùi thịt, lo cho thiên hạ, lo cho nhân dân, có thể nói là tột bậc. Nhan Hồi vì đạo, nằm gối đầu lên cánh tay trong hẻm nghèo, cơm giỏ, nước bầu, đáng gọi là chuyên dốc; đều chưa từng nghe nói Khổng Tử, Nhan Hồi đặt ra kỳ hạn nhất định để gào to, khóc lớn, như chôn người thân, như cuồng, như điên! Mừng, giận, buồn, vui chưa từng để lộ, đó gọi là Trung. Những điều tỏ lộ đều chừng mực, vừa phải, đó gọi là Hòa. Đấy là nói về đạo. [Đối với chuyện] định kỳ nhóm họp để khóc lóc dữ dội, tôi từng thấy trong phần tang lễ của sách Lễ Ký [có chép như thế], chứ không có chuyện họp nhau khóc lóc trái lễ, tôi câu nệ về mặt oai nghi, chẳng dám cẩu thả giống như họ được!
* Hỏi: Mặt trời, mặt trăng, tinh tú đều có quỹ đạo riêng, chẳng va chạm nhau, tỏa ánh sáng xuống địa cầu, khiến nhân loại được sống yên vui, những thứ để ăn đều có, đạo Gia Tô nói có một đấng chủ tể [sắp đặt những chuyện ấy] (bất quá nhìn theo khoa học, những gì thích nghi sẽ tồn tại, chẳng thích nghi sẽ có kết quả trái ngược), dùng hai câu trên đây để kết luận có đúng hay không? (Lưu Thiên Càn hỏi)
Đáp: Các tinh cầu thoạt đầu chẳng phải là không va chạm, sau này khi va chạm đến lúc có khoảng cách kha khá thì mỗi tinh cầu tự giữ lấy sự vận hành của riêng mình. Mỗi tinh cầu đều có sức hút, do sức hút, đôi bên giữ được khoảng cách. Còn như tỏa ánh sáng xuống địa cầu; thật ra, không chỉ riêng hậu đãi địa cầu, mà phần lớn ánh sáng của các tinh cầu là do phản chiếu ánh sáng từ mặt trời. Trong thái dương hệ có vô lượng tinh cầu đều có ánh sáng. Đã chẳng chuyên vì chúng ta, thì cũng có thể nói là không có đấng chủ tể. Họ viện vào trời để nói, tôi lấy đất để sánh ví. Trong cánh rừng to um tùm, trăm ngàn vạn cây, mỗi cây tự giữ lấy khoảng cách, giống như chẳng xâm phạm lẫn nhau, nhưng thoạt đầu cũng là vô lượng mầm nhỏ đâm lên tua tủa, trải qua sự đào thải của tự nhiên, trở thành có độ dầy mỏng hợp lý như hiện thời, điều hòa khí hậu, có tác dụng lợi ích khiến cho dân chúng ấm no, há có một đấng chủ tể? Nếu cứ nói mọi sự đều có chủ tể thì con người cũng là tiểu thiên địa, mỗi ngày tiểu tiện, đại tiện cũng ắt phải có người làm chủ tể ư? Nhưng đã là “không gì chẳng có chủ” thì vị chủ của đấng chủ tể ấy sẽ là như thế nào? Nói theo thế gian, đó là lý tự nhiên của muôn hình tượng. Nói theo Phật pháp, là do nghiệp lực và tâm thức biến hiện mà thôi!
* Hỏi: Đạo Gia Tô nói: “Ai nấy có hai tai, hai lỗ mũi, đã có cái để sử dụng, lại còn cái để chuẩn bị, kẻo chẳng may bị hư mất thì còn có cái để thay thế; miệng chỉ có một cái là đủ rồi. Ai cũng giống như vậy, trọn chẳng phải vì vẻ mỹ quan, mà vì cần thiết nên lập ra như thế. Mọi người đều giống như từ cùng một công xưởng chế ra hàng loạt, há chẳng có một đấng chủ tể ư?” Chỉ một câu hỏi của ông Cát đã khiến tôi luôn suy nghĩ, ngay đang lúc tiểu tiện hay đại tiện vẫn luôn suy nghĩ. Ông Cát hiện đang phục vụ trong Không Quân, làm chủ nhiệm trường trung ương phiên dịch điện báo của liên đội Không Quân. Đối với hai câu hỏi trên đây, kẻ ngu này sợ trả lời chẳng trọn vẹn, uổng phí lời lẽ, nên đặc biệt kính xin thầy từ bi phương tiện giải đáp, ngõ hầu kể lại với ngu hữu hòng tháo gỡ vướng mắc? (Lưu Thiên Càn hỏi)
Đáp: Tôn giáo nào có kinh điển của tôn giáo đó, học thuyết nào có sách vở của học thuyết đó. Dựa vào đó để dẫn chứng cũng chẳng phải là không được, chứ dựa vào những gì chính mình đang có [để biện luận] thì chẳng thích hợp! Chi thể của động vật, bẩm sinh mỗi loài mỗi khác. Nhà động vật ấy bảo “nếu chẳng phải là như thế, sẽ chẳng thể sanh”, nhưng chưa chắc [những điều ấy] đã cho thấy có một vị chủ tể. Thử hỏi đang trong lúc hai phái giao hợp, nếu có chủ tể trong ấy, vì sao lại xếp đặt [có những con vật] có một trăm chi? Xin hãy coi một hạt đào gieo xuống đất, chẳng đầy mấy năm mà thân tím, cành biếc, lá xanh, hoa đỏ, quả thơm mọng ngọt, lắm nỗi biến hóa, cũng là vì vị chủ tể đến [sắp đặt] hay sao? Còn như nói tai, mũi phải có đôi để chuyên dự phòng khi bất hạnh, lại càng chẳng phù hợp sự thật! Trên thì lưỡi chỉ có một cái, dưới thì cơ quan sinh dục và hậu môn cũng chỉ có một, chẳng có cái dự bị để phòng khi bị hư ư? Phàm đối với những lời trẻ nít giống như đang mê man ấy, nếu ngỡ đó là đại đạo thì cũng là chấp nhận cái “đạo” của họ mất rồi!
* Hỏi: Sanh vào trời Đâu Suất, khi phước báo đã hết, có còn bị đọa xuống hay chăng? (Cao Thiêm Đinh hỏi)
Đáp: Đâu Suất có nội viện và ngoại giới sai khác. Nội viện là chỗ ở của thánh nhân, là nơi ở dự bị của bậc sẽ hạ sanh thành Phật, thanh tịnh trang nghiêm, khác với chư thiên hưởng lạc trong cõi Dục. Chỉ có bậc thành tựu, tùy duyên hạ sanh là trọn chẳng đọa lạc. Ngoài viện ấy là chỗ ở các vị phàm thiên, tự nhiên khi phước báo đã hết sẽ phải luân hồi.
* Hỏi: Mồng Tám tháng Tư là thánh đản của Thích Ca Văn Phật, đấy có phải là Thích Ca Mâu Ni Phật hay không? Nếu phải thì theo quốc lịch, mồng Tám tháng Tư là lễ tắm Phật, lại là vị Phật nào vậy? Nếu cũng là Phật Thích Ca thì sao ngày kỷ niệm thánh đản các vị Phật, Bồ Tát khác đều dùng nông lịch[2], sao riêng lễ tắm Phật lại dùng quốc lịch? (Châu Huệ Tiền hỏi)
Đáp: Đây chẳng phải là câu hỏi về Phật lý, và cũng chẳng mang tánh chất quy định nghiêm ngặt, mà thuộc về tác dụng tâm lý sanh khởi của phàm nhân đối với lịch pháp. Tâm lý con người bất nhất, cho nên có hiện tượng sai biệt ấy.
* Hỏi: Mồng Bốn tháng Tư là ngày thánh đản của Văn Thù Bồ Tát (báo Trung Ương ghi: Tại Di Lặc Nội Viện, pháp sư Đạo An mở pháp hội tán lễ Phật [vào ngày ấy]. Báo Bồ Đề Thụ số tám mươi chín cũng có nói Văn Thù Bồ Tát là Phổ Kiến Như Lai[3]). Nếu Văn Thù Bồ Tát đã thành Phật thì thành Phật vào năm nào, tháng nào, căn cứ theo kinh nào? (Châu Huệ Tiền hỏi)
Đáp: Thánh đản Bồ Tát dùng pháp để cúng dường, bất cứ kinh Phật nào cũng đều có thể phúng tụng, dẫu làm Phật sự cho trời người, cũng có cùng một lý này, trọn chẳng hạn chế phải đối trước Bồ Tát, tụng kinh về Bồ Tát, chứ đối với trời người thì phải tụng kinh về trời người. Còn đối với đoạn văn được đăng trong báo Bồ Đề Thụ do chẳng nêu rõ trang nào, chẳng dễ gì kiểm tra được, xin lượng thứ chẳng đáp.
* Hỏi: Tại hai ngôi chùa lớn là Viên Thông và Long Sơn ở Đài Bắc, đều thờ bên trái là Văn Thù, bên phải là Phổ Hiền, Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi chính giữa. Nếu Văn Thù Bồ Tát là Phổ Kiến Như Lai Phật, còn Quán Âm chưa thành Phật thì cách xếp đặt ngôi vị trong hai ngôi chùa lớn Viên Thông và Long Sơn dường như thiếu thỏa đáng? (Châu Huệ Tiền hỏi)
Đáp: Quán Âm là cổ Phật hóa thân, giống như trong lời đáp cho câu hỏi trước đã nói. Đối với vấn đề sắp đặt ngôi vị thờ Phật, Bồ Tát, chẳng ngoài lý do mỗi chùa tu trì pháp môn như thế nào mà sai khác. Nếu là tông Hoa Nghiêm bèn thờ Thích Tôn, Văn Thù, Phổ Hiền, Tịnh Độ Tông bèn thờ Di Đà, Quán Âm, Thế Chí; thông thường cũng có nhiều nơi thờ Thích Tôn, Đông Dược Sư, Tây Di Đà. Thật ra, Phật Phật đạo đồng, thứ tự sắp đặt chẳng qua là đề cao vị Bổn Tôn của một pháp nào đó, chẳng phải là không được! Chùa Viên Thông thờ Quán Âm ngồi giữa, chắc là trong các vị thánh của hội Lăng Nghiêm, pháp Viên Thông của ngài Quán Âm là cùng tột. Hoặc Quán Âm thật sự là cổ Phật từ thế giới khác ứng hiện, Văn Thù thị hiện trong thế giới Sa Bà, là vị phụ tá bên phải của đức Thích Ca, được gọi là Pháp Vương Tử, nếu cùng được thờ [chung một tòa] thì cũng nên tôn trọng Quán Âm. Hoặc là còn cách giải thích khác, nhưng kẻ hèn này kém cỏi, chưa nghe biết căn cứ, chẳng thể thuận theo thói tục để nói bừa được!
* Hỏi: Vì sao có người nói chẳng có Diêm Vương, lại có người nói có, rốt cuộc là có hay không? (Dương Thiên Nguyên hỏi)
Đáp: Trước mọi lời lẽ rối tung, hãy nên chiết trung, dựa theo lời của thánh nhân. Kinh Phật nói có Diêm Vương, kẻ hèn này tuân theo thánh ngôn, chủ trương có Diêm Vương. Đó gọi là “y pháp, bất y nhân”.
* Hỏi: Có người nói thời Mạt Pháp cũng là lúc đại kiếp sắp xảy ra, vì sao vậy? (Dương Thiên Nguyên hỏi)
Đáp: Thời Mạt Pháp, chánh trí hôn mê, tham dục càng dữ dội. Kẻ chẳng hiểu Phật pháp, dám trái nghịch nhân quả, tạo nhiều tội nghiệp, khiến cho ác quả mau chóng thành tựu, tự nhiên kiếp họa xảy đến. Nếu có kẻ muốn làm lành, lúc ấy lại có lắm ác ma, trà trộn trong thế gian, giả danh Phật giáo, bịa đặt tà thuyết, thiết lập hắc giáo, dối gạt kẻ ngu, khiến họ lầm lạc đi vào ngõ rẽ, ngỡ báng Phật là tin Phật, cầu thiện, đâm ra thành ác, cầu thăng lên, lại ngược ngạo bị đọa lạc, lúc bình thường thì lừa gạt tiền của, hễ có dịp bèn dấy loạn, nên tự nhiên kiếp họa xảy ra!
* Hỏi: Có những kẻ chuyên thích dùng đạo lý to lớn để giáo huấn người khác, nhưng chẳng kiểm điểm hành vi của chính mình, [có phải là] kẻ ấy có tội, sau này sẽ hứng chịu quả báo chẳng tốt đẹp đấy chăng? (Dương Thiên Nguyên hỏi)
Đáp: Dùng đạo lý to lớn để giáo huấn kẻ khác là khẩu nghiệp thiện, sẽ có công đức, nhưng chẳng kiểm điểm hành vi của chính mình, tức là thân nghiệp ác, sẽ có tội lỗi. Thiện có thiện báo, ác có ác báo.
* Hỏi: Nghe nói kẻ mệnh bạc, thể chất yếu đuối, lắm bệnh, quy y Phật môn, hoặc xuất gia, sẽ có thể chuyển biến vận mạng, thân thể tráng kiện, săn chắc, đấy là lời nói khuyến dụ để truyền giáo hay là thật sự có đạo lý ấy? (Kỷ Vũ hỏi)
Đáp: Tuy chẳng đơn giản như thế, nhưng thật sự có lý do. Sinh hoạt, ăn uống trong chùa miếu có thứ tự, làm lụng, nghỉ ngơi đều có giờ giấc, cuộc sống có kỷ luật, tự nhiên ít bệnh. Nếu thật sự là người hiểu giáo lý, tu trì chí thành, càng chẳng cần phải nói nữa. Do [giới luật nhà chùa ràng buộc] ngăn ngừa tiêm nhiễm ngũ dục lục trần, nội tinh chẳng dao động, vọng niệm chẳng khởi lên, tự nhiên tâm an, chẳng tạo giết, trộm, dâm, dối, chẳng gây tạo ương họa mới, sẽ có thể xa lìa ác báo, tự nhiên thân thư thái, ít bệnh, tâm an. Thân đã thư thái, cơ thể sẽ chuyển yếu thành mạnh.
* Hỏi: Trong thế giới Sa Bà này, giết, trộm, dâm, dối, mạnh ăn thịt yếu, đâu đâu cũng thấy, nhưng người học Phật phải “đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện”, trước khi thành Phật, nội tâm dấy lên mâu thuẫn với hoàn cảnh hiện thực, làm cách nào để khắc chế và thoát khỏi? (Kỷ Vũ hỏi)
Đáp: “Đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện” vận dụng trong thế giới Sa Bà mới phù hợp. Nếu sanh sang thế giới Cực Lạc, hoặc sanh trong Đâu Suất Nội Viện, [những nơi ấy] đều là chỗ thanh tịnh, trang nghiêm, là nơi ở của các vị thượng thiện nhân, vốn chẳng có ác duyên, còn nói gì đến chuyện “đừng làm các điều ác” nữa? Thuần là thiện nghiệp, còn nói gì đến chuyện “vâng hành các điều thiện”. Lại nữa, hai câu “đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện” chính là khuôn phép khi chưa thành Phật. Nếu đã thành Phật, vô minh đã hết, há còn có điều ác nào chưa từng đoạn, giác đã đến mức rốt ráo, há còn điều thiện nào chưa phụng hành trọn đủ? Tâm dấy lên mâu thuẫn, chính là vì tin tưởng chẳng vững vàng, ý chí bạc nhược. Kẻ học Phật chẳng đắm vào ô nhiễm như người thường, phải thấy thấu suốt hết thảy huyễn vọng, có thể đoạn cái khó đoạn, có thể hành điều khó hành. Đấy chính là cách khắc chế, mà cũng là cách để thoát khỏi.
* Hỏi: Trình độ học Phật của tôi như thế nào? (Có thể học ghép vào lớp Một, lớp Hai Tiểu Học hay chăng) (Kỷ Vũ hỏi)
Đáp: Tỉnh Đài Loan từ trước đến giờ không có trường chuyên dạy Phật học, mà lớp học cũng chẳng nghiêm ngặt như các cấp lớp trong học vấn thế gian; vì thế, chẳng có cái gọi là “ghép lớp”[4]. Nếu có chí nơi đạo này, cần phải xét hoàn cảnh cá nhân, hoặc chuyên môn, hoặc tùy phần, chỉ mở kinh ra đọc sẽ có ích, nói chung là chẳng luống uổng. Hễ có nghi hãy hướng về bậc thiện tri thức, hỏi nhiều, nghe nhiều, lâu dần cũng có thành tựu.
* Hỏi: Tâm Kinh có những chữ Tát Đỏa, Bát Nhã, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, xin hãy dạy cách đọc (chú âm)[5]? (Vưu Thái Hoa hỏi)
Đáp: Tát Đỏa đọc là Sà Duě (ㄙㄚ˙ㄉㄨㄛ˙), Bát Nhã đọc là Bo Rě, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đọc là Shòu, Xiǎng, Xíng, Shì.
* Hỏi: Quy y hết thảy tăng, có phải là xin thọ quy y với hết thảy các pháp sư, hay có nghĩa là tôn kính? (Vưu Thái Hoa hỏi)
Đáp: Tam Bảo đạo đồng, chẳng phân giới hạn. Mười phương Tam Bảo đều là một Tam Bảo. Quy y Tăng là quy y trọn khắp mười phương Tăng, chẳng phải là đệ tử của riêng một ai, nên nói là “quy y hết thảy Tăng”. Chẳng qua, kính cẩn hướng về một vị Tăng, quyền biến [coi vị Tăng ấy] đại diện toàn bộ chư Tăng truyền trao quy y mà thôi; trọn chẳng phải là hướng về vô lượng vô biên pháp sư, xin đều được lãnh thọ quy giới từ mỗi vị!
* Hỏi: Tam Tạng kinh điển là do một mình Huyền Trang đại sư dịch, hoặc do các vị cao tăng khác chung sức phiên dịch mà thành? (Đường Quế Lan hỏi)
Đáp: Tam Tạng mênh mông, chẳng phải là một người dịch, cũng chẳng phải là dịch cùng một lúc. Đã thế một kinh lại có nhiều người phiên dịch. Pháp sư Huyền Trang đời Đường chẳng qua dịch nhiều và tinh xác hơn các vị dịch giả khác, hành trình thỉnh kinh của Ngài càng khổ sở hơn nữa!
* Hỏi: Diêu Tần Tam Tạng pháp sư Cưu Ma La Thập có phải là Huyền Trang đại sư hay không? Hay là một vị cao tăng khác? (Đường Quế Lan hỏi)
Đáp: Ngài Cưu Ma La Thập là người đời Diêu Tần thuở mười sáu nước[6] cuối đời Tấn. Ngài Huyền Trang là người đời Đường, triều đại khác nhau, sao lại lầm lẫn là cùng một người?
* Hỏi: Có phải Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm gọi tắt là kinh Pháp Hoa hay không? (Đường Quế Lan hỏi)
Đáp: Cũng chẳng phải là không thể gọi tắt như thế, nhưng thiếu viên mãn. Bởi lẽ, nội dung kinh Pháp Hoa có tất cả hai mươi tám phẩm. Phẩm Phổ Môn là một trong số đó. Nếu chỉ là một phẩm mà gọi bằng tên gọi của toàn thể sẽ giống như rặng Tung Nhạc có ba mươi sáu ngọn, nhưng chỉ gọi một ngọn là Tung Sơn thì cũng chẳng phải là không được, nhưng ý nghĩa chẳng viên mãn vậy!
* Hỏi: Có người giải thích “tiêu nha, bại chủng” (mầm cháy, hạt giống hư lép) là lời thí dụ cho sự liễu thoát sanh tử, đúng là lời lẽ tốt đẹp, chẳng phải là lời quở trách, lại còn lời lẽ hay khéo muôn đời! Hiểu như vậy có đúng hay không? Nếu không, há Phật lại đành lòng có lời lẽ mắng chửi người khác dữ dằn như thế? (Ngô Minh Côn hỏi)
Đáp: Hiểu chẳng đúng! Chữ Nha (芽) và Chủng (種) trong câu ấy chính là “đạo chủng” (hạt giống đạo) và “giác nha” (mầm giác), cứ xét theo ngữ khí sẽ biết, quyết chẳng phải là dùng Nha và Chủng để nói về phiền não vô minh. Phải xét theo văn cảnh thì mới chẳng hiểu lầm ý nghĩa. Từ ngữ ấy nói rõ: Do kẻ ấy chẳng truyền Bồ Đề đại đạo, nên giống như mầm bị cháy khô, hạt giống mục nát, đến nỗi Bồ Đề đại đạo cũng do kẻ ấy mà bị đoạn dứt. Cho nên mới có lời than thở cảm khái ấy, chẳng phải là lời lẽ ác nghiệt, mắng chửi độc địa. Nếu hiểu là liễu sanh thoát tử thì Phật và Bồ Tát đều đã liễu thoát sanh tử, sao chẳng đều gọi là “tiêu nha, bại chủng”?
* Hỏi: Phật giáo đồ thờ tượng Phật in trên giấy, do túng ngặt, chẳng thể lồng gương để bảo vệ, lâu ngày bụi bặm, cũ kỹ chẳng kham, lại còn rách nát, thiếu vẻ tôn nghiêm, đổi lấy tượng mới, thì tượng cũ nên xử lý ra sao? Hỏa thiêu có được hay không? (Lâm Cẩm Sanh hỏi)
Đáp: Tượng Phật phủ bụi, cũ kỹ, có thể hỏa thiêu, nhưng phải chọn chỗ đất sạch để hỏa thiêu. Thiêu xong, bỏ tro xuống chỗ có dòng chảy sạch sẽ là tốt nhất. Nếu không, cũng nên chọn chỗ sạch sẽ trong rừng núi để chôn. Nói chung, khỏi bị ô uế là được!
* Hỏi: Nho gia có câu “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (Bất hiếu có ba điều, không có hậu duệ là lớn nhất). Nếu là người xuất gia, chẳng phải là vô hậu ư? Xin hỏi “hữu tam” là ba thứ như thế nào? [Xin chỉ dạy] để làm [tài liệu] tham khảo cũng rất nên! (Châu Ấu hỏi)
Đáp: Pháp thế gian và xuất thế gian có xu hướng bất đồng, tự nhiên quan điểm khác biệt. Pháp thế gian coi cúng tế, chưng thường[7] v.v... để báo đáp ân đức tổ tiên là hiếu. Điều ấy được gọi là “thận chung truy viễn”[8], hễ không có hậu duệ, ắt huyết thực[9] chấm dứt. Pháp xuất thế coi chứng đạo, đắc thần thông v.v... để độ người đã khuất siêu thoát là hiếu. Điều này được gọi là “cửu tổ siêu thăng” (tổ tông chín đời siêu thăng). Có đạo quan trọng hơn có hậu duệ. Vả nữa, người xuất gia cũng chẳng nhất thiết là không có hậu duệ. Không có hậu duệ chỉ là người xuất gia từ lúc thơ ấu (đồng chân xuất gia). Còn như Nho gia nói “bất hiếu hữu tam” thì tra cứu sẽ là ba mối “a ý khúc tùng, hãm thân bất nghĩa” (chẳng hiểu ý để làm vui lòng cha mẹ, thường trái nghịch, khiến cho cha mẹ mang tiếng bất nghĩa), “gia bần thân lão, bất vi lộc sĩ” (nhà nghèo, cha mẹ già, không có nghề nghiệp ổn định hoặc công danh để đem lại no ấm cho cha mẹ), “vô thú, vô tử, tuyệt tiên tổ tự” (chẳng cưới vợ, không có con cái, đến nỗi không có nối tiếp dòng giống).
* Hỏi: Tôi tuy là đệ tử Tam Bảo, nhưng con cái vẫn tuân theo thói đời. Vì nhà cửa hư dột, tính sửa chữa, vật liệu cũng đã chuẩn bị đầy đủ, chẳng thể chần chừ, nhưng trong nhà có một đứa con gái đang mang thai, người nhà bảo nó “động thổ sợ có hại cho thai”. Nó lại sanh năm Ngựa, năm nay sanh nở chẳng được tốt lắm. Vì thế, hiện thời tiến thoái lưỡng nan, xin cụ hãy từ bi chỉ dạy mấy câu, khiến cho chúng tôi có thể an tâm động thổ? (Trần Từ Dung hỏi)
Đáp: Chỗ ở khởi sự xây cất lớn sợ sẽ có chấn động; vì thế, thai phụ hãy nên lánh đi. Nếu việc xây cất quá cần kíp, có thể chuyển thai phụ sang nơi khác rồi mới xây cất sẽ chẳng trở ngại gì. Đấy là biện pháp vẹn toàn đôi đàng. Còn như người sanh năm Ngựa, năm nay sẽ khó sanh, đó là [lời đoán định] xuất phát từ thuật Âm Dương Ngũ Hành, hễ tin bèn có, chẳng tin sẽ chẳng có! Người có đức sẽ vượt qua. Kẻ thiếu đức có thể bị trở ngại. Cư sĩ có thể khuyên cô ta lúc thảnh thơi hãy niệm thánh hiệu Quán Âm, lại còn hành kiêng giết, phóng sanh, chắc chắn mẹ con sẽ được bình yên!
* Hỏi: Tôi nghĩ vũ trụ có luật tự nhiên, tạm gọi nó là “luật tự nhiên”. Luật tự nhiên bao gồm sự sanh khởi của vũ trụ, sự sanh diệt của vạn vật, cho đến Phật bất sanh bất diệt đều do luật tự nhiên trong vũ trụ sai khiến. Vũ trụ có nghĩa là vô lượng tam thiên đại thiên thế giới. Vạn vật có nghĩa là hữu tình chúng sanh và vô tình khí thế giới. (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Trước khi trả lời thư của cư sĩ Lưu Định Nhất, tôi phải trình bày mấy lời cho dễ nói. Bởi những điều nói trong thư ông thiên về chuyện huyền hư lại quá rộng, nếu ắt phải giải thích cặn kẽ, cố nhiên chẳng phải là chuyện có thể nói trong vài câu được, nhưng sợ ông hoài nghi nên tôi biện định. Phật học và triết học có một điểm khác biệt lớn, tức là triết học dựa vào suy tư trừu tượng, Phật học từ thể nghiệm mà có. Phật học cũng có điểm khác biệt với khoa học, khoa học chấp trước “có, không, hư, thật” trong hiện tiền, còn Phật học viên thông, chẳng chấp trước một thời điểm, một hiện tượng. Đối với hai chữ Tự Nhiên, nếu hiểu là một khái niệm trong Phật học thì cũng chẳng phải là không được, nhưng nếu toàn bộ đều quy về tự nhiên thì không được! Phật học nói “Như Như Chân Không”, do duyên sanh mà có.
* Hỏi: Luật tự nhiên trong vũ trụ có trước Phật, chỉ có Phật là triệt để thấu hiểu luật tự nhiên, còn những kẻ khác chẳng thông đạt rốt ráo, Phật cũng do nương theo luật tự nhiên trong vũ trụ mà thành Phật? (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Đối với chuyện này, xin hãy đọc kỹ câu trả lời trên đây.
* Hỏi: Phật là sản phẩm tối hậu viên mãn nhất, cao nhất của luật tự nhiên trong vũ trụ. Phật chẳng có danh xưng, gọi là Phật thì đã là chẳng có ý nghĩa viên mãn, Phật là muôn điều đều rỗng rang, muôn điều đều có, không gì chẳng thể, mà cũng chẳng thể làm được điều nào! (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Nói phương tiện thì hết vô minh là Phật, chẳng qua là trở về cái chân thật vốn có mà thôi, trọn chẳng phải là sản phẩm tối hậu! Đối với những điều khác [như ông đã nói] thì hữu danh là Quyền, vô danh là Thật; nhưng nếu không có Thật, làm sao có thể nói là Quyền? Nếu không có Quyền, làm sao có thể hiển Thật? Phật pháp nói Có hay nói Không đều nhằm phá chấp trừ bệnh mà lập. Nếu không có nhân mà đột nhiên nói Có hay Không thì sẽ là không có đích ngắm mà vẫn buông tên vậy!
* Hỏi: Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh, cõi đời biết có Phật, nhưng cõi đời trước đó cũng có Phật, chỉ là con người chẳng biết đó thôi, hay tuy biết nhưng chẳng gọi là Phật? (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Kinh dạy “mười phương ba đời hết thảy chư Phật”. Đã nói là ba đời thì trước trước, sau sau, trần sa lại còn có trần sa Phật. Còn như nói chẳng gọi Phật là Phật, đó là thuộc về vấn đề danh tướng! Đã nói là biết thì gọi Như Lai, hay Minh Hạnh Túc v.v... đều tùy thuộc mười phương để nói, trên thực tế vẫn là như nhau mà thôi!
* Hỏi: Pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật nói được gọi là Phật pháp, nhưng thế gian trước đó đã có Phật pháp, chẳng gọi là Phật pháp, Phật pháp là luật tự nhiên trong vũ trụ. (Lưu Định Nhất hỏi).
Đáp: Trừ câu luật tự nhiên ra, những điều khác có thể xem câu trả lời trong phần trước.
* Hỏi: Phật pháp không ngằn, không mé, vì vũ trụ không ngằn, không mé, pháp do đấng Thích Ca đã nói khi Ngài trụ thế có thể là đã trọn chẳng giảng toàn bộ luật tự nhiên trong vũ trụ. (Lưu Định Nhất hỏi).
Đáp: Kinh Phật có nói: Công đức khen ngợi một đức Phật, nhiều kiếp còn nói chẳng trọn, làm sao trong bốn mươi chín năm đức Phật có thể nói trọn hết các pháp nhiều như số vi trần? Nhưng hãy chớ nên câu nệ, như nhét núi Tu Di vào trong hạt cải, đã nhét được núi thì cỏ, cây, đất, đá, chim, thú, rồng, rắn, mây, ráng, suối, thác, vàng, bạc, trân bảo, há chẳng bao gồm trong ấy ư? Hiểu rõ điều này, bảo là đức Thế Tôn đã nói trọn hết thảy các pháp cũng chẳng phải là không được!
* Hỏi: Khoa học của người đời là một bộ phận của luật tự nhiên trong vũ trụ. Phật pháp bao gồm khoa học; vì thế, Phật pháp là khoa học. Nhưng khoa học hiện tại vẫn còn rất kém cỏi, khoa học càng phát triển, Phật pháp càng rạng rỡ, đúng không? (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: “Khoa học càng phát triển, Phật pháp càng rạng rỡ”, kẻ hèn này tán đồng lời ấy.
Hỏi: Phật pháp không bờ, không mé, nhưng cũng chẳng thể chuyên cậy vào hình thức của Phật giáo để tiếp tục hoằng dương. Phật pháp ở một mức độ khá cao sẽ chẳng thể dùng ngôn ngữ, văn tự để hình dung. Phật pháp cũng có thể dùng phương thức vượt ra ngoài kinh Phật để độ sanh rộng lớn. Ngoài Tam Tạng mười hai bộ kinh ra, khí giới (thế giới) này đã còn có thể có Phật pháp thì các thế giới khác cũng phải nên có những loại Phật pháp khác. (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Hình thức của Phật giáo chính là nghi tiết, như thường nói “ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh”, chưa thể nào bỏ được. Nói đến chuyện hoằng pháp, trọn chẳng phải là chuyên cậy vào những thứ ấy. Tứ Nhiếp, Lục Độ, các thứ phương tiện, há có hình thức nhất định; chủ yếu là phải khế hợp căn cơ của mọi người! Chỉ cần khế lý lẫn khế cơ, ngũ dục, lục trần đều là công cụ để hoằng pháp, nhưng cũng có người ưa thích hình thức của Phật giáo, há có thể gạt bỏ chẳng dùng ư? Còn như ông nói dùng các phương pháp ngoài kinh Phật để độ sanh trên một mức độ rộng lớn, tôi chẳng biết ông nói những phương pháp vượt ra ngoài kinh Phật nhằm chỉ điều gì. Nếu có thể dùng phương pháp vượt ra ngoài kinh điển mà độ chúng sanh về nẻo giác thì cũng chẳng phải là không được. Nếu dùng phương pháp vượt ngoài kinh điển mà dẫn chúng sanh hướng ra ngoài kinh thì phương pháp ấy liên can gì với Phật pháp? [Ông nói]: “Đời khác phải có Phật pháp khác”, [đúng là] đời khác có Phật khác, bèn có Phật pháp, nhưng Phật Phật đạo đồng, trọn chẳng thể nói là khác được! Nếu khác, sẽ chẳng phải là Phật pháp! Như trăng tròn ngày Rằm tháng Giêng và trăng ngày Rằm tháng Hai, tháng Ba cho đến trăng Rằm tháng Mười Một, Mười Hai, không gì chẳng đều tròn đầy. Nếu có lúc nào mặt trăng biến đổi thành hình tam giác sẽ là tình trạng kỳ quái, bất thường vậy!
* Hỏi: Chẳng biết chữ, chẳng biết đến kinh cũng có thể thành Phật. Nghiên cứu thông suốt kinh sách thế gian và Phật giáo cũng chẳng nhất định sẽ có thể thành Phật. [Như vậy thì] chẳng phải là Phật giáo đồ bèn có thể thành Phật, ai ai cũng có thể thành Phật. Nhưng cần phải mong sớm lìa khỏi nỗi khổ luân hồi, hay là phát tâm niệm Phật sẽ chắc ăn hơn? Pháp môn Tịnh Độ thù thắng, nhưng niệm Phật (念佛) khác với niệm Phật (唸佛) ư? (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: “Chẳng biết đến kinh cũng có thể thành Phật”, kinh là pháp lý giác ngộ, chẳng cầu giác làm sao có thể thành chánh giác? “Nghiên cứu kinh chẳng nhất định sẽ có thể thành Phật”, đây là cái lỗi kể chuyện ăn, đếm của báu. “Chẳng phải là Phật giáo đồ cũng có thể thành Phật”, tụng lời Phật, hành theo giáo pháp của Phật thì là tín đồ nhà Phật. Chẳng tin lời Phật, làm chuyện trái nghịch, sẽ chẳng phải là tín đồ nhà Phật. Nếu trái nghịch Phật, chính là đã trái nghịch giác, xuôi theo trần lao mà có thể thành Phật, hóa ra trồng đậu mà được dưa ư? “Niệm Phật khác với niệm Phật”, niệm (念) thuộc ý nghiệp, còn niệm (唸) thuộc về khẩu nghiệp. Học Phật là tam nghiệp thanh tịnh, sao lại giữ lấy một điều (tức khẩu nghiệp), bỏ sót hai điều kia (thân nghiệp và ý nghiệp)!
* Hỏi: Con người chẳng dễ gì biết rõ căn nguyên (hoặc còn gọi là căn khí) của chính mình, tức là [chẳng biết rõ] đời quá khứ như thế nào, bản thân mình vốn là như thế nào, cho đến thoạt đầu từ đâu mà tới? Người ta hay nói “trở về quê nhà”, quê nhà của con người ở nơi đâu? (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Tu đắc Túc Mạng Thông sẽ biết đời quá khứ. “Người ta hay nói trở về quê nhà”, “người” [ở đây] là nói tới phàm phu hay thánh nhân? Phàm phu tâm tánh mê hoặc, điên đảo, lời họ nói chẳng đáng để noi theo! Xét theo học Lý để nói, hồng trần, ba cõi, vô minh đều gọi là nhà, đều phải giải thoát. Nói phương tiện thì Chân Như bổn tánh giả gọi là “quê nhà”. Muốn trở về nhà thì chỉ có một mình đức Phật triệt để hiểu biết Chân Như, phàm phu chẳng liễu giải mảy may!
* Hỏi: Thành Phật là như thế nào? Thành người là như thế nào? Thành ma quỷ như thế nào? Tuy đều tuân theo luật tự nhiên trong vũ trụ mà thành, nhưng vì sao mà thành, tôi chẳng thể hiểu! (Lưu Định Nhất hỏi).
Đáp: Phật là do đoạn hết Kiến Tư, Trần Sa, vô minh, tự hành, giác tha, giác hạnh viên mãn mà thành. Người do thiện ác hỗn tạp, nghiệp lực dẫn dắt đầu thai, thọ báo. Ma là mê đắm các thứ dục, chẳng nghĩ đến giải thoát, nên bị đọa lạc. Qua lời đáp ở đây liền biết [những cảnh giới ấy] đều chẳng phải là tự nhiên vậy!
Nói thêm: Qua lời lẽ của cư sĩ, xét thấy vẫn còn tôn sùng Phật. Hãy nên biết “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp không có người giảng nói, dẫu là kẻ có trí vẫn chẳng thể hiểu). Nếu cậy vào suy nghĩ cá nhân để dò lường Phật pháp, đúng là dùng bầu để đong biển, dẫu có trí huệ như Ái Nhân Tư Thản (Einstein) mà chẳng nghiên cứu sâu xa thì vẫn chẳng thể hiểu được! Câu nói “học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi” (học mà chẳng nghĩ sẽ lầm loạn, nghĩ mà chẳng học thì nguy lắm thay!) của Khổng Tử đúng là danh ngôn. Mong quý cư sĩ hãy tham phỏng bậc cao tăng, đọc kỹ kinh điển nhà Phật, mấy năm sau sẽ đạt được lợi lạc.
* Hỏi: Pháp vận của Phật chia thành Chánh Pháp một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm là tính từ khi nào? Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp khác nhau ra sao? (Khoan Châu hỏi)
Đáp: Ông đã rộng lòng hỏi về khởi điểm để phân chia từng thời kỳ trong Phật pháp thì [câu trả lời] là tính từ lúc Phật diệt độ. Chánh có nghĩa là chân xác, pháp nghi chưa thay đổi, có giáo, có hành, chứng quả vừa dễ lại nhiều. Tượng (像) có nghĩa là tương tự, đạo dần dần sai ngoa, chứng quả khó khăn lại ít ỏi. Mạt (末) nghĩa là suy vi, có giáo, thiếu hành, chứng quả đã càng khó mà lại còn ít ỏi.
* Hỏi: Trước khi Thích Ca Thế Tôn giáng sanh, pháp vận là gì, chúng sanh có Phật pháp để học hay chăng? (Khoan Châu hỏi)
Đáp: Trước khi Thích Tôn giáng sanh, lúc ấy trọn chẳng có Phật pháp. Bởi lẽ, pháp của đức Phật trước Ngài sau khi đã trải qua các thời kỳ Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp, pháp như mặt trời đã lặn, nên gọi là thời Diệt Pháp, ý nói vũ trụ rất tối tăm, chúng sanh chẳng thấy quang minh, chẳng nghe Phật pháp.
* Hỏi: Cõi nước của Thích Ca Mâu Ni Phật ở phương nào, có tên là thế giới gì? (Thái Thế Phương hỏi)
Đáp: Chính là phương này, có tên là thế giới Sa Bà.
* Hỏi: Vi Đà có phải là thiên thần hay không, vì sao Ngài vũ trang toàn thân? (Thái Thế Phương hỏi)
Đáp: Vi Đà[10] tuy hiện tướng thiên thần, nhưng Ngài cũng là Bồ Tát vì hộ trì Phật pháp mà hóa hiện.
* Hỏi: Căn cứ theo sách Phật đã chép, kinh Tiểu Thừa là do sau khi đức Phật diệt độ, các môn đồ đã dựa vào trí nhớ của người nghe để rút ra những điểm chánh yếu mà soạn thành. Lại sau khi đức Phật đã diệt độ mấy trăm năm, đối với những kinh điển mới nhằm thích ứng với trào lưu thời đại, các vị đại đức xác định chúng phù hợp với bổn ý đức Phật bèn biên soạn thành kinh Đại Thừa, mỗi bộ đều dùng câu “như thị ngã văn, nhất thời Phật tại mỗ xứ thuyết pháp” (tôi nghe như thế này, một thời đức Phật ngự tại chỗ nào đó để thuyết pháp) để quy về Phật. Do vậy, xét ra, kinh Đại Thừa chẳng do đức Phật nói; tức là các vị Phật, Bồ Tát đã nói trong kinh [Đại Thừa] chưa chắc đã là những vị có thật! (Thái Thế Phương hỏi)
Đáp: Cư sĩ nói “sách Phật” là nói đến những kinh sách do chính đức Phật nói đó chăng? Hay là nói đến những tác phẩm do các vị Bồ Tát trần thuật ý chỉ của Phật bèn soạn thành luận đấy chăng? Hay là nói đến những sách khảo cổ do các bậc danh sĩ thế trí biện thông trước tác? Giới tuyến chẳng rõ ràng, chẳng tránh khỏi nghi ngờ! Đối với hai loại sách trước, tôi chẳng dám phản kinh, lìa đạo, khinh nhục lời lẽ của bậc thánh nhân, để rồi dám bàn định xằng bậy! Nếu cư sĩ nói đến loại sách sau cùng thì cái trí và học vấn của những kẻ ấy vẫn chưa thể vượt trội các vị hiền nhân La Thập, Huyền Trang, tôi thật sự chẳng dám tin tưởng! Đã chẳng tin lời họ, ắt chẳng cần phải thảo luận nữa, nhưng chẳng thể nào không kính cẩn thưa cùng quý cư sĩ: Đối với người sơ cơ, các thứ học vấn vẫn chưa trọn đủ, mà trước hết đã phỉ báng Đại Thừa, sợ rằng sẽ chẳng có nền tảng phước huệ. Ông có biết hai vị Thiên Thân và Vô Trước hay chăng? Xin hãy tra đọc, nghiên cứu sách vở để [lấy hai Ngài ấy] làm gương thì may mắn lắm thay!
* Hỏi: Có phải là trong tam thiên đại thiên thế giới có vô số thế giới Sa Bà, Đao Lợi Thiên v.v... hay không? (Thái Thế Phương hỏi)
Đáp: Đao Lợi Thiên là một cõi trời trong một đơn vị thế giới. Một ngàn đơn vị thế giới gọi là một tiểu thiên, một ngàn tiểu thiên gọi là trung thiên, một ngàn trung thiên gọi là đại thiên. Tính toán một đại thiên như vậy, tự nhiên trong ấy sẽ có một số lớn các tầng trời Đao Lợi.
* Hỏi: Sách Phật có nói lúc lâm chung, nếu là kẻ ác phải đọa địa ngục, sẽ thấy binh sĩ cầm đao, khiên, mâu, kích, dây trói vây kín v.v... không biết binh sĩ do người ở phương nào sai đến? (Thái Thế Phương hỏi)
Đáp: Điều này cũng rất khó nói, bởi Phật pháp giảng luận chú trọng khế cơ nhưng chẳng trái Lý. Kẻ sơ học chỉ nên tin tưởng chuyện ấy là được rồi. Đối với người đã thâm nhập, tự nhiên sẽ nói kèm thêm Lý với họ. Sự và Lý cùng viên dung bèn thuộc về chân tướng. Đối với câu hỏi này, đáp theo mặt Sự thì [những binh sĩ ấy] do vua Diêm La sai đến, còn nói theo Lý thì do tự tâm biến hiện.
* Hỏi: Theo rất nhiều người nói, mấy tháng trước, chùa X... khi tổ chức truyền Ngũ Giới, [người xin thọ giới] phải ở chùa ấy năm ngày (ban ngày lẫn ban đêm đều phải ở nơi ấy, chẳng được rời khỏi), do đó, những người làm công chức, giáo viên, hoặc thợ thuyền ăn lương công nhật không có cách nào thực hiện được. Xin hỏi làm như vậy có ổn thỏa, thích đáng hay không? Hay là còn có phương pháp khác ứng phó giản tiện hơn? Xin hãy phiền ban lời chỉ dạy. (Liêu Tăng Long hỏi)
Đáp: Đấy cũng là ý thận trọng. Đối với người do tình hình đặc biệt chẳng thể tham gia dài ngày thì trước đó phải nói rõ, thỉnh cầu [nhà chùa] phương tiện cũng chẳng phải là không được! Nhưng [người thọ giới] chẳng nói thì ai có thể biết người nào bận bịu hay rảnh rỗi; vì thế, chẳng tránh khỏi có chuyện trở ngại.
* Hỏi: Kim Cang Khoa Nghi Bảo Quyển có phải là kinh sách Phật giáo hay không? Nếu chẳng phải, sẽ là tả đạo, xin hãy chỉ dạy rõ nguyên do? (Phương Tích Hoa hỏi)
Đáp: Kim Cang Khoa Nghi Bảo Quyển chính là đem các phần của kinh Kim Cang thêm vào kệ tụng cùng với những lời cơ phong, dùng pháp khí tấu lên, xướng niệm, nhằm nghe cho sướng tai, là sách dùng trong ứng phó kinh sám Phật sự. Cố nhiên người thật sự cầu mong tu trì và nghiên cứu kinh giáo chẳng cần đọc tụng [sách ấy]. Nhưng những kệ tụng và khai thị thêm vào, phần nhiều trích từ ngữ lục nhà Thiền, chắc là do người tinh thông Phật lý biên soạn, nên vẫn chẳng phải là sách vở của tả đạo.
* Hỏi: Liên quan đến những câu chuyện trong tác phẩm Thế Tôn Thị Hiện Đồng Nhân Pháp (bản in lần đầu vào tháng Mười Một năm Dân Quốc 12 (1923), do Thượng Hải Y Học Thư Cục xuất bản, không rõ tác giả) và sách Tam Tạng Pháp Số (quyển thứ hai) trích theo Thụy Ứng Kinh và Phiên Dịch Danh Nghĩa thì kinh nói Thái Tử cưới ba phi tử vào năm mười bảy tuổi nhằm thị hiện giống với phàm nhân. Một phi tử là Địch Di, tiếng Phạn là Địch Di, tiếng Hán là Minh Phi Nữ, cha tên là trưởng giả Thủy Quang. Ngày sanh người con gái ấy, mặt trời sắp lặn, ánh chiều tà chiếu vào nhà sáng rực, nên đặt tên là Địch Di, đấy là phi tử thứ nhất của Thái Tử. Phi tử thứ hai là Da Thâu, tiếng Phạn là Da Thâu Đà La, tiếng Hán là Mỹ Sắc, là phi tử thứ hai của Thái Tử, tức mẹ của La Hầu La. Cha tên là trưởng giả Di Thí. Phi tử thứ ba là Lộc Dã, Lộc Dã là phi tử thứ ba của Thái Tử. Cha tên là Thích trưởng giả. Những chuyện như thế, kiểm trong bộ Thích Ca Mâu Ni Phật Truyện của pháp sư Tinh Vân và theo Thích Thị Gia Phổ thì Da Thâu Đà La là công chúa của đại vương Thiện Giác, thuộc bộ tộc Câu Lợi, chúa thành Thiên Tý. So sánh giữa hai phương diện, khó thể biện định rõ thuyết nào đúng, thuyết nào sai. Do trong hiện thời đang là lúc tà giáo, ngoại đạo hưng thịnh, Phật giáo đồ chánh tín chúng ta có trách nhiệm hộ giáo trọng đại, cầu xin bậc đại sĩ hãy chỉ giáo về những bộ sách tường thuật sự tích ấy. (Phương Tích Hoa hỏi)
Đáp: Điều này thuộc về ngành khảo cứu học, chắc là đôi bên đều có căn cứ, quyết chẳng phải là tùy tiện nói này, nói nọ. Trong lời hỏi của Ngài đã dẫn chứng kinh Thụy Ứng, tức là đã có một chứng cứ, còn thuyết của pháp sư Tinh Vân ắt cũng có kinh để làm chứng. Như chuyện đức Phật xuất gia vào tuổi nào, các kinh ghi chép khác nhau, xét đến nguyên nhân sai khác ở chỗ nào, cho đến hiện thời năm tháng đã lâu xa, mờ mịt, chắc là có một thuyết bị sai lệch. Nếu xét coi ai đúng, ai sai, cần phải là bậc học giả tinh thông lịch sử, phổ hệ, so sánh, suy lường thì mới hòng gần đúng với sự thật. Nếu chẳng thể khảo sát dựa trên lịch sử, mà bảo là đúng, hay phán định là sai, đều chưa đủ sức thuyết phục! Kẻ hèn này chẳng thông hiểu lịch sử Ấn Độ, nên chẳng thể trả lời câu hỏi do Ngài đã rộng lòng hỏi tới. Xin hãy rộng dung.
* Hỏi: Như Tịnh Độ phải Tin, tham Thiền phải Nghi, như “phiền não tức Bồ Đề”, lại bảo “niệm Phật sanh sang thế giới Cực Lạc”, đức Phật lại nói: “Phải thường trụ địa ngục, trang nghiêm địa ngục”. Những câu ấy trong các sách vở Phật học khá mâu thuẫn, dễ khiến cho kẻ mới học mê hoặc, xin hãy giải thích. (Cố Canh Đồng hỏi)
Đáp: Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn bệnh, Phật có tám vạn bốn ngàn pháp, pháp giống như thuốc. Bệnh đã khác nhau, thuốc làm sao giống nhau cho được? Cần phải biết, nhân sâm, hoàng kỳ[11] là vị thuốc tốt, có thể trị bệnh. Hồng phàn[12], bạch tỳ[13], độc thạch[14] cũng có thể trị bệnh. Dùng đúng bệnh thì hồng phàn, bạch tỳ chính là tiên đơn; dùng sai, nhân sâm, hoàng kỳ cũng thành giết người. Thuốc cần phải đúng với chứng bệnh, pháp cần phải khế cơ. Hiểu rõ điều này, sẽ biết Phật pháp trọn chẳng mâu thuẫn. “Phiền não tức Bồ Đề” nhằm nói với kẻ đã thấu hiểu sâu xa lẽ đạo, “thường trụ địa ngục” nhằm nói với bậc đã chứng nhập. Kẻ mới học, còn chưa hiểu rõ giáo tướng rõ ràng, làm sao có thể tránh khỏi mê hoặc? Chỉ cần chịu cầu tiến, lâu ngày sẽ tự hiểu rành rẽ. Còn như Tịnh phải Tín, Thiền phải Nghi, ở đây tôi nêu một thí dụ. Ví như có người từ Đài Nam muốn đến miền Trung, phải đi theo hướng Bắc. Kẻ từ Đài Bắc muốn xuống miền Trung, phải theo hướng Nam. Đều đến Đài Trung, nhưng kẻ Nam người Bắc theo phương hướng khác nhau, do điểm khởi đầu [khác nhau] mà thành ra như thế, nhưng cùng đạt tới một chỗ, đó gọi là “quy nguyên vô nhị lộ, phương tiện hữu đa môn” (trở về nguồn chẳng hai đường, phương tiện có nhiều môn) vậy!
* Hỏi: Người học Phật giống như chơi cờ vây[15], có phải là tâm động sát cơ (dấy lên ý niệm giết chóc), tham giành phần thắng hay không? (Cố Canh Đồng hỏi)
Đáp: Sát cơ hay chẳng phải là sát cơ, hãy khoan bàn tới. Cái tâm chơi cờ vây là chơi cờ, chẳng dính dáng gì đến chuyện tham chiếu thoại đầu hay tịnh
niệm tiếp nối!
* Hỏi: Trong lịch sử Phật giáo, đối với những sự tích tán trợ khiến quốc gia xã hội hưng thịnh, xin hãy nêu một hai điều, có những sách vở nào để tham khảo hay chăng? (Cố Canh Đồng hỏi)
Đáp: Chuyện này chẳng thể nói vài câu là xong được! Bất đắc dĩ, chia thành bản chất và sự kiện để nói. Trước hết, nói về bản chất, kinh luật răn dạy tín đồ bốn đầu mối lớn: “Nhất, bất vi quốc chế; nhị, bất lậu quốc thuế; tam, bất báng quốc chúa; tứ, bất tác quốc tặc” (Một là chẳng trái phạm luật lệ quốc gia, hai là chẳng trốn thuế nước nhà, ba là chẳng hủy báng người cầm đầu đất nước, bốn là chẳng làm kẻ phản bội đất nước). Đấy chính là sự tán trợ đối với quốc gia. Ông Hà Thượng Chi[16] thời Nam Triều đã tâu với Tống Văn Đế: “Làng quê một trăm nhà, có mười người trì Ngũ Giới, ắt mười người giữ vẹn luân thường, cẩn trọng; một ấp ngàn nhà, trăm người giữ Thập Thiện, ắt trăm người hòa thuận. Gìn giữ nề nếp giáo hóa ấy trọn khắp thiên hạ, ắt ức ngàn kẻ an cư[17], người có lòng nhân trăm vạn. Có thể hành một điều thiện là trừ một điều ác. Trừ một điều ác là dứt một hình phạt. Một hình phạt chấm dứt nơi một nhà sẽ trở thành vạn hình phạt chấm dứt trong cả nước; noi theo đó, có thể ngồi yên hưởng thái bình”. Đấy là sự tán trợ đối với xã hội vậy. Nếu luận về những sự kiện thì chánh sử lẫn dã sử [ghi chép] chẳng thể kể xiết. Muốn tìm những nét chánh yếu thì có thể tham khảo bộ sách Lịch Sử Cảm Ứng Thống Ký.
* Hỏi: Anh tôi là cư sĩ Trác Trí Lập vào mùa Xuân năm Dân Quốc 11 (1922) sau khi quy với tổ Ấn Quang bèn niệm Phật, làm lành hết sức nỗ lực, tinh thần tu hành khăng khăng chẳng mệt mỏi trải suốt ba mươi mấy năm, rất được tổ Ấn Quang lúc sanh tiền coi trọng. Công phu tu tập tinh chuyên, tuy chẳng bằng các vị cao tăng xuất gia hiện thời, nhưng so với các tại gia cư sĩ niệm Phật, chắc là chẳng đến nỗi thua ai, mong mỏi sâu xa “Di Đà chẳng phụ kẻ tu hành”. Tiếc là mùa Đông năm ngoái, lúc anh tôi đã về Tây tại Đại Lục, không cách nào tránh khỏi chữ Bệnh, lại còn lúc lâm chung, thần thức hơi rơi vào trạng thái hôn mê, trọn chẳng lưu lại tuyệt bút hay di ngôn, tình hình ấy có phải là công phu tu hành hằng ngày chưa đủ, hay là do oan nghiệt đời trước nặng nề? (Trác Trung Chấn hỏi)
Đáp: Không bệnh mà mất, há có được mấy ai? Tổ sư các tông từ xưa vẫn có vị thị hiện mắc bệnh [lúc lâm chung], điều ấy trọn chẳng trở ngại sự thành tựu. Còn chuyện lâm chung nói kệ, cũng chẳng phải là chuyện cần thiết, bắt buộc. Chẳng bàn tới cổ nhân, ngay cả các vị cao tăng cận đại như tổ Ấn Quang, Đế Nhàn đại sư, Thái Hư đại sư v.v... lúc viên tịch đều chẳng nói kệ, có gì đáng tiếc hận đâu?
* Hỏi: Thực vật có phải là hữu tình hay không? Cây trinh nữ (mắc cỡ) có tri giác, cỏ bắt ruồi có thể dẫn dụ côn trùng để nuốt mất, dường như chẳng khác gì động vật. Nếu chúng thuộc về loài hữu tình thì ăn chay và ăn mặn có phải là bỏ trâu ăn dê, xa lìa bếp núc[18] đó chăng? (Hà Bác Nguyên hỏi)
Đáp: Cây xấu hổ và loài cỏ bắt ruồi đều chẳng phải là hữu tình. Chữ “tình” chỉ tâm trạng biến đổi, như mừng, giận, buồn, vui v.v... Cây xấu hổ, cỏ bắt ruồi, bất quá là loài có cảm xúc nhạy bén nhất trong các loại thực vật, điều này vẫn thuộc về quan hệ vật lý. Những thứ giống như vậy rất nhiều: Dùng móng tay gãi lên cây tử vi, nó bèn run rẩy, chăng giây thừng lên cây ngân hạnh nó bèn trút lá, rượu cao lương có thể khiến cho tú cầu bị héo, khói dầu cây Đồng có thể khiến hoa quế rụng. Lá chuối nẩy có thể khiến sấm động, rau Quyết[19] mọc khiến vượn kêu gào. Không chỉ như vậy, khoáng vật cũng phần nhiều như thế, như hổ phách hút hạt cải, nam châm hút sắt v.v... há chúng đều là hữu tình hay chăng?
* Hỏi: Từ Ca Diếp Phật cho tới khi Thích Ca Mâu Ni Phật xuất thế thành Phật, trong thời gian ấy, vì sao nhân loại lại phải khởi đầu từ thời đại nguyên thủy, chẳng lẽ văn minh nhân loại do niên đại đã lâu bèn thụt lùi ư? (Quách Gia Ninh hỏi)
Đáp: Đức Phật ứng thế, trọn chẳng nhất định phải bắt đầu từ thời đại nguyên thủy. Lấy ngay Thích Ca Như Lai để nói, Ngài giáng sanh tại Thiên Trúc, chính nhằm lúc cõi đời hưng thịnh, mà tại Trung Quốc ở phương Đông, nhằm đời nhà Châu, cũng gặp lúc văn hóa rạng rỡ, sao lại lầm lạc cho là nhân loại lại phải khởi đầu từ thời đại nguyên thủy? Đối với câu hỏi còn lại, “chẳng lẽ văn minh nhân loại do niên đại đã lâu bèn thụt lùi ư”? Hãy nên biết: Văn minh chẳng phải chỉ có một loại, thứ nào cũng đều như vậy; như đạo đức, chánh trị, nghệ thuật, công nghiệp v.v... đều là văn minh; nhưng chúng vốn là thứ này tiến, thứ kia lùi, thứ kia tiến, thứ này thụt lùi, đó là sự thật. Văn minh có lúc thoái hóa, có chi hiếm hoi, lạ lùng? Thử nêu ra [một thí dụ] để giảng rõ, nước ta thời cổ coi Thương là hạng bét trong bốn hạng dân chúng (sĩ, nông, công, thương), họ khá bị coi thường, nhưng năm mươi năm trước, thương nhân giao dịch, chỉ cậy vào một lời, đã chẳng có khế ước, mà cũng chẳng có biên nhận, nhưng trọn chẳng có sai lầm mảy may nào! Những giai cấp kia như Sĩ, Nông, Công cao hơn họ, càng chẳng phải bàn nữa! Đấy là văn minh đạo đức, còn hiện thời thì sao? Đầu thời Tam Đại, người cày nhường ruộng, kẻ đi đường nhường lối, trở thành cõi đời yên vui, ngục tù trống không, đấy là văn minh chánh trị cao nhất, còn hiện thời thì sao? Văn chương của Tả, Quốc, Ban, Mã[20], chữ viết của Trứu, Tư, Chung, Vương[21], tài vẽ của Cố, Ngô, Tào, Hàn, hậu thế phỏng theo, ai đạt được cái thần của họ? Đấy là văn minh nghệ thuật, còn nay thì sao? Văn minh hiện thời bất quá là chỉ thuộc khía cạnh công nghiệp mà thôi, chỉ có bề ngoài là phồn thịnh, tạm thời thấy là khả quan đó thôi! Há nên chỉ thấy một mặt, coi thường những điều khác! Cư sĩ nghi nó bị thoái hóa, tôi cho rằng chẳng phải chỉ là thoái hóa, mà còn đang bị hủy diệt. Hễ có hủy diệt sẽ có sự tái lập từ khởi đầu!
* Hỏi: Trong tương lai, khi Di Lặc Bồ Tát giáng thế thành Phật, trên không trung, hỏa tiễn sẽ là công cụ giao thông rất nhanh chóng, hay là đến lúc đó, vẫn phải tái diễn từ nguyên thủy, nhưng trong lúc ấy mới chỉ là kiếp thứ mười trong Trụ Kiếp, còn cách Hoại Kiếp rất xa? (Quách Gia Ninh hỏi).
Đáp: Lúc Phật giáng thế, chẳng nhất định là lại bắt đầu từ nguyên thủy như trong phần trên đã trình bày. Ở đây, ông lại nêu ra câu hỏi về hỏa tiễn trên không trung, tuy chẳng nói rõ, nhưng tôi trộm nghĩ ông coi đó là văn minh tiến hóa, chẳng phải là lại khởi đầu từ nguyên thủy. Ở đây, tạm thời chẳng bàn đến kiếp số, để khỏi sa vào lắm ngõ rẽ, chỉ nói đến chuyện quá trình tiến hóa lại tái diễn. Phải biết khi văn minh tiến hóa đến mức có bom khinh khí (H-bomb) thì quá trình tiến hóa bắt đầu từ nguyên thủy lại tái diễn. Đã nghĩ là sự thường thì cũng nên biết đến sự biến hóa của nó, hai mắt cần phải sáng suốt vậy!
* Hỏi: Khi chúng sanh chưa phát sanh luân hồi thì diện mục như thế nào? Do lẽ nào mà sanh khởi luân hồi? Tự tánh vốn thanh tịnh, do nhân duyên nào mà đọa lạc luân hồi? Trong tương lai, đã thoát ly luân hồi rồi thì còn có thể bị đọa lạc nữa hay không? (Lâm Hỏa Thọ hỏi)
Đáp: Bổn lai diện mục thanh tịnh bất động, vô thể, vô tướng. Nhất niệm bất giác bèn sanh huyễn hữu, do mê nên vọng động, bèn có luân hồi. Bổn lai diện mục ấy ví như vàng còn trong quặng, chẳng tránh khỏi bị cát bụi phủ lấp. Nếu trải qua tu trì, đoạn Hoặc, chứng Chân, vượt thoát luân hồi, sẽ giống như vàng được nung luyện thành các món vật, chẳng còn bị phủ lấp bởi cát bụi, nên chẳng bị đọa lạc.
* Hỏi: Khi con người thọ mười tuổi thì còn có nam nữ hay chăng? Hiện thời con người thọ bao nhiêu tuổi? Có phải là giảm kiếp hay chăng? (Lâm Hỏa Thọ hỏi)
Đáp: Khi con người thọ mười tuổi thì tình trạng sinh lý của họ khi ấy khác với hiện thời. Chẳng thể dùng cách nhìn hiện thời để định lượng thời của họ được! Chẳng thấy gia súc như gà, lợn, chưa đầy hai năm đã có thể sanh nở, trùng mùa Hạ được mấy tuần đã có thể sanh nở, há còn nghi nữa ư? Hiện thời là giảm kiếp, thọ một trăm tuổi.
* Hỏi: Hiện thời, nhục thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát vẫn còn ở tại Cửu Hoa Sơn phải không? Nhục thân là hóa thân, đúng không? Trong lịch sử có ghi chép Ngài xuất sanh vào triều đại nào và tại nơi nào hay chăng? (Lâm Hỏa Thọ hỏi)
Đáp: Nhục thân tại Cửu Hoa Sơn là vị tỳ-kheo Cao Ly đời Đường, là hóa thân của Bồ Tát, đến nay vẫn còn, được chép tường tận trong Cửu Hoa Sơn Chí. Ông nói đến “lịch sử” thì là nói đến lịch sử Trung Quốc, lịch sử Trung Quốc theo thói quen chú trọng ghi chép [tình hình] quốc gia hưng vong và những sự kiện chánh trị, quân sự, đối với những chuyện khác phần nhiều chẳng thâu thập. Biên soạn sách vở cũng thường noi theo lệ ấy.
* Hỏi: Xin hỏi điểm giống nhau và khác nhau giữa tam giáo Nho, Đạo, Thích, hòng tránh khỏi cái thuyết nói bừa tam giáo hợp nhất của người đời! (Lâm Hỏa Thọ hỏi)
Đáp: Nghĩa lý trong giáo điển của tam giáo đều mênh mang như khói trên mặt biển, sách biện luận của cổ nhân cũng đầy ắp tận nóc. Cột báo này ba chữ đôi dòng làm sao có thể bàn thấu triệt? Chẳng làm gì khác hơn là hãy đọc Tam Giáo Bình Tâm Luận, Hộ Pháp Luận[22], sẽ có để nắm được đại cương.
* Hỏi: Một vị liên hữu ăn chay trường thường ham ngủ (có phải là ma vương đang nhiễu loạn bà ta hay không), thường tán chuyện gẫu. Đối với hai chuyện này, dùng cách nào để độ bà ta liễu thoát sanh tử? (Tín Huệ hỏi)
Đáp: Thích ngủ là tâm hôn trầm, nói nhiều là tâm tán loạn, hai thứ ấy đều là bệnh. Bớt ngủ chẳng phải là trong một lúc liền có thể làm được, còn như ít nói thì chính mình phải nghĩ cách. Phương cách khuyên lơn cần phải xét đến gốc bệnh của mỗi người để trị, không có cách nhất định nào, mà cũng chẳng có lời lẽ nhất định nào!
* Hỏi: Có phải là Phật giáo chớ nên xin xăm và bói quẻ hay không? Vì sao trong các chùa miếu đều có vậy? (Tín Huệ hỏi)
Đáp: Theo nguyên tắc thì trong Phật giáo chẳng nên có chuyện ấy, nhưng trong các chùa phần nhiều đều có bày biện là do [tập quán] đã lâu, khó thể trách ai, trong tương lai, [chuyện này] sẽ dần dần tự tiêu diệt vậy!
* Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật Niết Bàn có bao nhiêu hạt xá-lợi? (Tín Huệ hỏi)
Đáp: Kinh Niết Bàn nói [xá-lợi] được chia thành tám phần, chẳng nói có bao nhiêu viên. Kinh Xử Thai chép chia thành ba phần, Thiên Đế lấy một phần, Long Vương lấy một phần, còn lại chia thành tám phần, cũng không nói số hạt. Về sau, vua A Dục tạo tháp, lấy những hạt do vua A Xà Thế đã chôn, lại còn lấy các hạt xá-lợi từ sáu chỗ mà nhà vua đã chôn, tạo ra tám vạn bốn ngàn cái tháp, mỗi tháp đựng một hạt xá-lợi. Đấy là đoạn văn ghi chép về số lượng. Còn có ghi chép số lượng tường tận hơn hay không, tôi kiến thức kém cỏi nên chẳng biết!
* Hỏi: Có người nói: Hễ cầu cảm ứng thì hết thảy đều là mê tín, kẻ ấy có ý nghĩ phá sạch phẩm Phổ Môn, Tịnh Độ, Mật Tông v.v... (Điền Đức Căn hỏi)
Đáp: Phơi nắng ắt nóng, uống băng ắt lạnh, [đấy là] thân có cảm, có ứng. Nghe khen thì vui, nghe chê bèn giận, [đấy là] tâm có cảm, có ứng. Đó là kiến thức thông thường, sao lại bảo là mê tín? Nếu ngay cả kiến thức thông thường ấy cũng chẳng có thì mới là mê vậy. Nếu dùng quan hệ giữa con người với nhau để sánh ví, “kính nhân giả, nhân hằng kính chi” (kính người thì người khác sẽ luôn kính trọng ta). Được người khác nhờ cậy, ắt sẽ tận hết sức lo toan, chẳng phải là một đằng cảm, một đằng ứng ư? Người ấy nếu chẳng thừa nhận Phật tồn tại thì chẳng cần nói chi nữa! Nếu không, người còn có ứng, lẽ đâu Phật chẳng thể ứng ư? Thành Thang cầu đảo nơi rừng dâu mà trời đổ mưa trọn khắp, bà Trưng Tại[23] cầu đảo nơi núi Ni mà sanh được Khổng Tử, Văn Vương cho Vũ Vương ba năm tuổi thọ, Tống Cảnh cảm sao Huỳnh Hoặc lùi ba lượt[24], các thứ cảm ứng đều chép trong kinh sử, nếu nói Tam Tạng lẫn Tứ Khố [Toàn Thư] đều chẳng đáng tin thì tuy tôi có nói gì đi nữa, há đáng tin tưởng ư?
* Hỏi: Nếu Phật tánh tách lìa nhục thể, con người bèn chết. Nếu chẳng tách lìa, thân thể Tứ Đại chẳng bị mục nát, [có phải là] kẻ ấy ngỡ thần thức là Phật tánh [hay chăng]! (Điền Đức Căn hỏi)
Đáp: Lời kẻ ấy nói vẫn chẳng trái lý, Phật tánh và thần thức chẳng qua giống như mặt trời và bóng nắng. Bóng nắng đã dời khỏi nơi đây, tức là mặt trời cũng đã dời đi!
* Hỏi: Đã chết thì Phật Tánh tách rời thân thể. Nếu chẳng tách rời, ta ăn thịt gà, vịt, Phật Tánh cũng bị nuốt vào bụng ư? (Điền Đức Căn hỏi)
Đáp: Chưa rõ ý câu hỏi này. Chắc là nói loài gà, vịt đều có Phật Tánh, ăn gà, vịt v.v... thì ngay cả Phật Tánh của chúng cũng bị nuốt vào bụng. Nếu có ý nói như vậy thì trước hết tôi hỏi ngược lại, kẻ ấy đã thừa nhận loài vật chết, Phật Tánh bèn tách lìa, chẳng biết kẻ ấy ăn gà vịt v.v... bằng cách ăn tươi nuốt sống trọn con, hay là giết nó chết, nấu, nướng rồi mới ăn? Chắc là kẻ ấy sẽ ú ớ! Dẫu là nuốt sống, trong thân kẻ ấy có tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, làm sao Phật Tánh có thể ở trong bụng được? Dẫu hoàn toàn dùng sơn bịt kín tám lỗ lớn trên dưới thân và các lỗ chân thông toàn thân, chỉ chừa lại một cái miệng, nuốt sống gà vịt, dặn trước người khác, đợi khi nuốt sống xong, ngay cả miệng cũng dùng sơn bịt kín lại, tưởng như thế thì Phật Tánh của gà, vịt, chắc sẽ phải ở trong thân, nào biết Phật Tánh như Kim Cang, không thứ gì cứng rắn có thể phá được, vẫn giống như không!
* Hỏi: Trong kinh Địa Tạng, Địa Tạng Bồ Tát bạch Phật: “Con được Phật phó chúc cho tới khi A Dật Đa thành Phật, phổ thí hóa độ chúng sanh trong địa ngục”. Như vậy là sau khi đức Bổ Xứ Phật ra đời, sự hóa độ của ngài Địa Tạng sẽ kết thúc ư? Hay là nguyện lực của đức Thích Ca Văn Phật được đặt giới hạn [trong khoảng thời gian kể từ khi Phật Thích Ca ứng thế] cho tới lúc đức Từ Thị (Di Lặc Tôn Phật) ra đời? Hiểu theo kiểu nào thì cũng dường như đều mang ý nghĩa trái nghịch với thệ nguyện vô biên, xin hãy khai thị ý nghĩa rốt ráo! (Cảnh Trường Thọ hỏi)
Đáp: Thế giới vô tận, chúng sanh vô tận, nguyện hạnh độ chúng sanh của Phật, Bồ Tát cũng vô tận; đó là nguyên tắc. Khi Phật xuất hiện, chúng sanh có căn cơ đắc độ khá nhiều. Lúc cõi đời không có Phật, chúng sanh có căn cơ đọa lạc khá nhiều, nhưng sau khi đức Thích Tôn diệt độ, đức Từ Thị chưa ra đời, nhằm lúc cõi đời không có Phật, trong kinh, đức Phật đã phó chúc Địa Tạng [cứu độ chúng sanh], điều ấy ở ngoài bổn nguyện của ngài Địa Tạng, tức là Ngài được đặc biệt giao thêm trách nhiệm khác, trọn chẳng ảnh hưởng tới bổn nguyện của Ngài. Thích Tôn ứng hóa, chuẩn theo nguyên tắc trên đây, vốn cũng là vô tận. Vì thế, cho đến nay, đã có hơn tám ngàn lần [Phật Thích Ca giáng sanh trong cõi Sa Bà]. Trước đã là như vậy, ắt có thể suy ra sau này [Ngài cũng sẽ lại giáng sanh]. Khi ngài Từ Thị xuất hiện trong nhân gian, thệ nguyện ứng hóa trong lần này của đấng Thích Tôn giống như đã kết thúc, lần sau sẽ lại bắt đầu.
* Hỏi: Ngày tháng trên cõi trời và nhân gian dài ngắn khác nhau, người tu hành “trì ngọ” (không ăn sau giờ Ngọ) vì sợ ngạ quỷ nghe tiếng chén đĩa sẽ bị lửa đói thiêu đốt nên chẳng nỡ ăn. Chư thiên ăn vào sáng sớm, ngạ quỷ ăn vào buổi chiều. Nếu là như vậy thì dường như ngày đêm trên cõi trời và trong đường ngạ quỷ giống như trong nhân gian. Nên giải thích điều này như thế nào? (Cảnh Trường Thọ hỏi)
Đáp: Trong kinh đã dạy rõ thời gian dài ngắn [khác biệt] giữa cõi trời, cõi người và cõi quỷ, nên chẳng cần phải nói nữa. Nếu tính năm mươi năm trong nhân gian là một ngày trong cõi trời và quỷ (đây là giả định, trời có nhiều tầng, quỷ có nhiều loại. Trời càng lên cao, quỷ càng xuống thấp, tính ra tuổi thọ càng dài), nhưng chẳng nói sáng tối, cũng chẳng nói mỗi ngày ăn mấy bữa? Ba bữa, hay là đến trăm bữa, hoặc mấy ngàn bữa, đều chẳng thể biết. Như tại Nam Cực và Bắc Cực của địa cầu, nửa năm là ngày, nửa năm là đêm, giống như một năm chỉ có một ngày, há có thể coi là cùng một giuộc với cuộc sống ở phần giữa địa cầu ư? Cho rằng ở nơi ấy mỗi ngày ăn ba bữa, tức là một năm chỉ ăn ba bữa, tôi nghĩ chẳng phải là như vậy! Trụ xứ của quỷ là Ngũ Thú Tạp Cư[25] trong Dục Giới, sự sáng tối trong cảnh ấy chắc là thuận theo ngày đêm của con người, bất luận ăn bao nhiêu bữa đều lấy sự sáng tối trong Dục Giới để làm hạn. Quá Ngọ chẳng ăn, chẳng khuyết thiên đạo, nên hãy để lại đó, chẳng bàn tới nữa.
* Hỏi: Thích Ca Thế Tôn là một vị Phật trong Hiền Kiếp, từ lúc thị hiện sanh trong vương cung đến khi diệt độ và cho tới khi ngài Từ Thị ra đời, làm giáo chủ thế giới Sa Bà. Sau đấy, các vị Phật [kế tiếp] sẽ lần lượt giáng thế. Có phải là kinh giáo của đức Thế Tôn sẽ giống như các vị cổ Phật trong quá khứ cũng bị diệt mất chẳng còn hay chăng? (Cảnh Trường Thọ hỏi)
Đáp: Khi đức Phật sau ứng thế, giáo điển của đức Phật trước đã chẳng còn; bởi lẽ, kiếp số xa xôi, hang hốc biến thành gò đống, biển xanh biến thành ruộng dâu, thảy đều lắm nỗi đổi thay, quyển vàng, bìa nhạt[26], đã nương nhờ khí thế gian, làm sao có thể chẳng bị biến mất theo? Phật pháp gọi lúc ấy là thời kỳ Diệt Pháp, chư Phật do từ bi nên lại ứng thế. Nhưng Phật Phật đạo đồng, nên đức Phật sau vẫn dạy cùng một đạo như đức Phật trước đã nói.
* Hỏi: Trong lúc thấy súc sanh bị giết chóc khổ sở, có thể thành tâm niệm Phật hoặc niệm chú cho chúng hay không? Chú Chuẩn Đề có phải là chú Vãng Sanh hay không? (Trần Thánh Âm hỏi)
Đáp: Niệm Phật và niệm chú để hồi hướng cho chúng sanh bị giết hại đều có công đức. Đã nói là “thành tâm”, ắt có cảm ứng. Chú Chuẩn Đề và chú Vãng Sanh chính là hai thứ pháp môn [khác nhau], trọn chẳng phải là một chú có hai tên.
* Hỏi: Đối với kinh điển tụng niệm mỗi ngày, theo như người già nói, phải dùng hồng châu (châu sa) chấm lên giấy vàng để gìn giữ, để dự bị sau này về Tây Phương sẽ có thể dùng, giống như tích trữ một chút tiền của. Cách nghĩ ấy có phải là mê tín hay không? Hay là một thứ thường được gọi là “lộ dẫn” (giấy thông hành), đó có phải là giấy chứng minh thân phận trong cõi âm hay không? (Trần Thánh Âm hỏi)
Đáp: Lời người già nói ấy chỉ là lời phương tiện trong thế tục nhằm khích lệ kẻ sơ cơ khiến họ chẳng thoái chuyển đó thôi, cũng chẳng phải là không thể làm theo! Thật ra, niệm Phật do đã phát cái tâm ấy, tiếng [niệm Phật] và ý niệm ấy lại in vào tâm, tâm liền là một trang giấy vàng (trang kinh), tiếng niệm và ý niệm bèn là một chấm son khoanh vào đó, tự nhiên sẽ có ký hiệu, tự nhiên sẽ tích trữ. Giấy thông hành là vật tùy thuộc phong tục của từng nơi, mỗi nơi có chỗ còn dùng, có chỗ chẳng còn, chẳng thuộc về lãnh vực Phật học, nên có thể chẳng cần bàn tới!
* Hỏi: Tín đồ nhà Phật đã quy y nếu đối với giáo lý có tâm đắc thì có thể xưng là pháp sư hay không? Xưng là pháp sư thì cũng có thể thâu nhận đệ tử hay không? Tín đồ quy y Phật có vật gì để làm tiêu ký hay không (tức là có vật gì chứng tỏ thân phận giáo đồ nhà Phật)? Có thể hưởng nhận sự ưu đãi trong chùa chiền Phật giáo hay không (như mượn sách đọc miễn phí, ở trong các tự viện miễn phí)? (Kha Văn Hùng hỏi)
Đáp: Câu hỏi này cần phải chia thành từng điều để trả lời.
1. Pháp sư có năm cách nói. Nói theo Lý, hễ hợp điều kiện bèn có thể gọi là pháp sư. Nhưng xét theo Sự để nói, hai chữ “pháp sư” đã sớm trở thành tiếng để dành riêng gọi bậc xuất gia, nhằm tránh kẻ tục lạm dự vào hàng tăng chúng, nên kẻ tại gia chẳng thể dùng.
2. Nếu đã tinh thông nghĩa lý trong kinh, có người đến xin dạy thì thu nhận đồ đệ để dạy dỗ cũng chẳng phải là không được, nhưng quyết chẳng được cho người khác quy y, lạm quyền đặt pháp danh; bởi pháp quy y là quy chế chuyên biệt của Tam Bảo.
3. Quy y có điệp, thọ giới có điệp, đều là tiêu ký.
4. Mượn kinh từ nhà chùa để đọc, chưa hề phải trả tiền, nhưng cư ngụ trong chùa thì không được phép. Nếu kẻ quy y đều ở trong chùa, mỗi chùa đều chẳng thể chứa xuể. Hơn nữa, oai nghi, quy chế dành cho tăng tục khác nhau, đôi bên đều bất tiện, nhưng nếu là người được mời mọc, hay ủy thác để lo liệu công việc trong nhà chùa thì là ngoại lệ.
* Hỏi: Quy tắc quản lý đối với mỗi tự viện tại các nơi là như thế nào? (Kha Văn Hùng hỏi)
Đáp: Mỗi người có cách nhìn khác nhau, chẳng thể luận định nhất loạt được!
* Hỏi: Kinh Phương Quảng nói đến năm thứ Pháp Thân, một là Tướng Pháp Thân, hai là Công Đức Pháp Thân, ba là Pháp Tánh Pháp Thân, bốn là Ứng Hóa Pháp Thân, năm là Hư Không Pháp Thân, thân nào là thân của chính mình? (Tiêu Thiệu Hinh hỏi)
Đáp: Mặt trời gồm có luân tướng (mặt trời thật sự), quang minh, nhiệt độ, xin thử hỏi, thứ nào là bản thể của mặt trời?
* Hỏi: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, thọ trì, đọc tụng kinh này, nếu bị kẻ khác khinh rẻ, là người ấy đời trước đã tạo tội nghiệp đáng đọa ác đạo, do đời này bị kẻ khác khinh rẻ, nên các tội nghiệp đã tạo trong đời trước liền bị tiêu diệt, sẽ đắc A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nghĩa ấy như thế nào? (Tiêu Thiệu Hinh hỏi)
Đáp: Đấy là nghĩa “báo nặng chuyển thành nhẹ, mau chứng Bồ Đề”.
* Hỏi: Kinh Niết Bàn dạy: “Định đa huệ thiểu, bất ly vô minh; định thiểu huệ đa, tăng thượng tà kiến; định huệ đẳng dụng, tức danh giải thoát” (Định nhiều, huệ ít, chẳng lìa vô minh. Định ít, huệ nhiều, tăng thêm tà kiến. Định huệ vận dụng quân bằng, liền gọi là giải thoát), nghĩa ấy như thế nào? (Tiêu Thiệu Hinh hỏi)
Đáp: Định nhiều, huệ ít, giống như trâu sắt kéo cày, chẳng có linh giác. Huệ nhiều, định ít, như đuốc trước gió, chẳng thể soi vật. Vì thế đều chẳng thể thành tựu. Hễ định lẫn huệ đều sâu thì mới chứng Niết Bàn.
* Hỏi: Hai mươi lăm Hữu là gì? Ý nghĩa như thế nào? (Tiêu Thiệu Hinh hỏi)
Đáp: Nói trong giới hạn tam giới, tức là chúng sanh trong hai mươi lăm chỗ, đều có thọ quả báo, nên gọi là Hữu. Các loại ấy chính là bốn đường ác (A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục) trong Dục Giới, bốn châu, Lục Dục Thiên, Tứ Thiền trong Sắc Giới, Đại Phạm Thiên, Tịnh Cư Thiên, Vô Tưởng Thiên, Tứ Không Thiên trong Vô Sắc Giới.
* Hỏi: Hôm trước, kẻ ngu này gặp một vị tín đồ nói ăn chay trường vô dụng, bởi lẽ, trong vũ trụ, qua lại trong không khí luôn có những vật mang tánh huyết nhục, hơi hướng tanh tưởi rất nhiều, nên ăn chay vô dụng. Như đến nhà bếp, gặp người ta đang nấu đồ mặn, cũng có nhiều hơi hướng huyết nhục. Hoặc là đến chỗ chợ bán thịt cá, sẽ bị hơi tanh tưởi bám vào, nên ăn chay trường vô dụng. Người tại gia học Phật nếu vào nhà bếp đang nấu đồ mặn và đến chỗ chợ bán cá thịt là điều chẳng thể nào tránh khỏi được; vì vậy, chớ nên phát tâm ăn chay trường. Người ấy nói xong, thân tâm tôi bất an. Thế nào mới thật sự là thanh tịnh, trường trai? (Trương Minh Phước hỏi)
Đáp: Ý nghĩa chủ yếu của việc ăn chay trường là né tránh sát sanh, đấy là biện pháp rốt ráo để quán triệt chủ nghĩa từ bi. Không khí thanh tịnh hay không, đối với chuyện vệ sinh cố nhiên phải chú ý, nhưng đó là vấn đề cành lá. Nếu vì chẳng thể tránh khỏi không khí tanh hôi bèn chẳng nên ăn chay, thử hỏi nhân loại tử vong là điều chẳng thể tránh khỏi, nếu lỡ bị bệnh, cũng chẳng nên chữa trị ư? Có thể nói “con người rốt cuộc cũng chết, chớ nên phát tâm uống thuốc men” hay chăng?
* Hỏi: Đức Thế Tôn sanh ra bèn một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, đi trọn bảy bước, tự nói “thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, kẻ ngu này có hai điểm nghi vấn: Đức Thế Tôn vừa ra đời bèn có thể nói năng ư? Đức Thế Tôn đại từ bi, chẳng có kiêu mạn, cớ sao tự nói “duy ngã độc tôn”? (Lý Hàm Vinh hỏi)
Đáp: Sanh ra bèn có thể nói, sách Trung Quốc cũng có ghi chép. Chữ Ngã chỉ bản lai diện mục, còn có gì tôn quý hơn nó nữa? Ai nấy đều có, ai nấy đều tôn quý, bình đẳng, đức Phật nói toạc ra nhằm khai tông, giảng rõ nghĩa cho con người, ông lại hiểu lầm là kiêu mạn, chẳng hiểu ý Ngài!
* Hỏi: Kinh sách của Phật giáo Nhật Bản toàn là văn tự tiếng Hán, nhưng gần ba mươi năm qua, họ lợi dụng phương pháp khoa học, chỉnh lý kinh Phật rất có hệ thống, khiến người ta nhìn vào thấy có lớp lang rạch ròi, khiến cho mọi người có hứng thú xem kinh. Lẽ ra, toàn bộ kinh điển trong Tam Tạng phải phỏng theo phương pháp khoa học chỉnh lý lần nữa khiến cho người đời sau nghiên cứu, xem đọc kinh Phật bèn có thể phát huy to lớn. (Tạ Nguyên Phủ hỏi)
Đáp: Kinh Phật được người Nhật chỉnh lý có phải là chỉnh lý mục lục, hay là sửa đổi kinh văn? Hay là cắt vụn ra để biên soạn thành bản khác, cũng như chọn lựa phương pháp khoa học nào? Cư sĩ chẳng nói rõ, kẻ hèn này chẳng dám đáp bừa!
* Hỏi: Tôi nghĩ chuyện nằm mộng là thật, chẳng giả, chẳng phải là hư vọng. Tôi nhớ năm Dân Quốc 36 (1947), lúc ở Bắc Bình, Thiên Tân, đã nằm mộng hai lần. Có một lần, trước lúc trời sáng, đang trong khi ngủ say, mộng thấy lúc trời sắp hoàng hôn, tôi đi về phía trước, bỗng nhìn lại phía sau, cách tôi chừng ba mươi mét có một người nữ mặc âu phục màu trắng, tuổi chừng ba mươi hay hai mươi mấy, phong thái khá nhã nhặn, duyên dáng, cũng đi cùng hướng với tôi trên đường, từ đầu đến cuối giữ nguyên khoảng cách vốn có. Sau khi tôi nhận ra, bèn xoay mình tiến lên trước, chẳng quan tâm đến nữa, cho đến khi tôi tỉnh giấc mộng mới biết đó là mộng. Sau này, tôi ở thành phố Đường Sơn, cả nhà là tín đồ đạo Cơ Đốc, ở trong nhà họ, tôi kể lại giấc mộng, họ bảo đó là do Gia Tô (Jesus) [thác mộng], nhưng tôi phán đoán rồi luôn nhấn mạnh, đấy là Quán Thế Âm Bồ Tát trong rừng trúc tía đã che chở tôi. Kết quả là người tán thành lời tôi chiếm chín mươi phần trăm trở lên. Chẳng rõ tôn ý như thế nào, xin hãy phiền giải thích. (Lý Thánh Quỳnh hỏi)
Đáp: Cảnh do tâm tạo, tướng đều hư vọng, huống hồ mộng huyễn lại càng [hư vọng] rõ rệt ư? Ông đã tự nói là Quán Âm thì hãy coi như là Quán Âm, vẫn hợp lý! Lại hướng về kẻ si khác kể lể, tức là chuốc lấy phiền; người khác sẽ khăng khăng tranh thủ chiếm lấy chuyện trong mộng của người ta, kẻ khuấy động chính là mình. So ra, tự mình nằm mộng nói chuyện mộng, chẳng phải là đã ở trong mộng lại còn mộng nữa ư? Kẻ hèn này chưa tỉnh giấc mộng lớn, giả sử có trả lời thì cũng là trong mộng nói chuyện mộng!
* Hỏi: Còn có một lần, nhằm buổi đường cùng mờ mịt, trong tâm vô cùng khó chịu, ở Lưu Ly Hà[27] nằm mộng, nhớ như thế này, tôi ở vùng đồng bằng dưới chân một quả núi, cách núi mấy trăm mét, có hai con đường dẫn lên núi, giống như hình chiếc kéo. Phía Chánh Bắc có chỗ núi lõm xuống, phía Đông Bắc cũng thế. Kết quả là không đi theo phía chánh Bắc, mà tiến đến chỗ núi lõm ở phía Đông Bắc, trèo lên tới chỗ miệng núi lõm bèn ngừng lại, ngay lúc đó tỉnh mộng, mới biết là mộng. Ngày hôm sau trong đầu nghĩ đi nghĩ lại chuyện nằm mộng, quả quyết đi theo hướng Đông Bắc như đã thấy trong giấc mộng, vừa để tìm việc, vừa thăm bạn, ông có biết sao không? Kết quả là vừa đến đó liền nghe tin tốt, ngay hôm ra đi ấy bèn có việc, há chẳng phải là lạ lùng hay sao? (Lý Thánh Quỳnh hỏi)
Đáp: Chuyện con nai ở dưới lá chuối[28], chẳng có gì là lạ!
* Hỏi: Còn có một lần nằm mộng là khi đồn trú tại tiểu đảo Mai Sơn thuộc quần đảo Châu Sơn[29], mộng thấy một quả núi, thế núi gập ghềnh, chỉ có một con đường, dưới núi có khe suối nhỏ, tôi ngồi trên một chiếc xe hơi chạy từ trên xuống dưới, lúc sắp quẹo chạy ra hướng đường cái, tôi bảo tài xế: “Đến chỗ rộng rãi trên đường cái, xin hãy chạy nhanh hơn”, nhưng người tài xế ấy chưa lái đến đường cái đã tăng tốc, kết quả là xe lọt xuống suối, chẳng thể xoay trở được, may là tôi chưa bị thương, liền tỉnh giấc. Đến ngày hôm sau, sau khi thức dậy, gặp ai cũng kể giấc mộng ấy, họ đều nói không sao. Chiều hôm ấy, khắp đảo ấy tràn ngập chiến thuyền. Sáng sớm ngày hôm sau, toàn bộ [chiến thuyền] rút về đảo Lục Hoành, tôi từ đầu đến cuối kể giấc mộng với người khác, [cho rằng] điều ấy cho thấy tôi chẳng thể trở về Mai Sơn, mà cũng chẳng thể ra đi được nữa. Nào ngờ bị hỏa pháo của kẻ địch uy hiếp phải triệt thoái khỏi Mai Sơn, kết quả là bọn giặc gian ác nghiễm nhiên chiếm lãnh Mai Sơn. (Lý Thánh Quỳnh hỏi)
Đáp: Kinh sử tuy có nói đến mộng mị, nhưng sự vẫn phải do người làm, Nếu cứ dựa dẫm vào giấc mộng để rồi tùy ý buông xuôi, khác nào thói tệ nghe lời, tin tưởng bọn tướng số! Như Khổng Tử mộng thấy Châu Công, người tu Tịnh Độ mộng thấy Phật Di Đà, đều là do chủng tử chánh niệm dấy lên hiện hành, là dấu chỉ công phu thành thục, khác xa kẻ mộng huyễn điên đảo!
Nói thêm: Kính khuyên cư sĩ hãy chú trọng nghiên cứu học lý; chứ nếu vẫn ưa chuộng chuyện lạ lùng, huyền hoặc, e rằng sẽ đi vào ngõ rẽ!
* Hỏi: Từ khi phát tâm đến nay, điều nguyện nhỏ nhặt nào cũng được thỏa, đại nguyện trong tương lai rồi cũng được thỏa hay chăng? (Chiến Giác Lực hỏi)
Đáp: Nếu thật sự là nguyện chánh đáng, bất luận lớn hay nhỏ đều được viên mãn.
* Hỏi: Trống đánh trong chùa miếu, da bịt trống quả thật là da trâu. Dẫu chẳng phải là da trâu thì cũng là da chúng sanh. Sanh mạng của chúng sanh đã kết thúc rất lâu, da còn sót lại, vẫn bị chúng ta gõ mỗi ngày, dường như trong lòng có chút bất an. Có phải là khi tụng kinh, niệm Phật cũng có thể tế độ hồn phách của chúng được giải thoát vãng sanh hay chăng? (Chiến Giác Lực hỏi)
Đáp: Trong chùa dùng da chúng sanh bịt trống, [tiếng trống] thường hòa nhịp với âm điệu tụng kinh, âm thanh phát ra, trở thành [một phần của] tiếng [tụng niệm] kinh kệ, có thể khiến cho người nghe hoan hỷ, phát tâm học Phật. Đã có công đức độ sanh thì thần thức [những chúng sanh có] bộ da ấy sẽ có thể nhờ vào đó mà siêu thăng. Nếu không, da ấy bị người ta đem làm giầy, bị chà đạp, hoặc làm yên ngựa để người ta ngồi cưỡi ngựa, so với đem bịt trống trong nhà chùa, quý trọng hay khinh rẻ khác nhau rất xa!
* Hỏi: Nến thắp trước Phật điện thật ra cũng làm bằng mỡ bò, hoặc mỡ của những chúng sanh khác. Sanh mạng của chúng đã chết, chúng ta lại đem mỡ chúng nó đốt lên, trong tâm cũng bất an. Có phải cũng là cũng dùng thần lực của Phật pháp để cứu vớt chúng hay chăng? (Chiến Giác Lực hỏi)
Đáp: Cùng một lý với lời đáp cho câu hỏi trước. Phật chế định dùng đèn sáng hay nến là vì lễ nghi thế gian ưa chuộng, nhưng trong nội địa đã sớm có người phát minh loại nến chế bằng dầu thực vật lưu hành đã lâu, chẳng biết ở tỉnh này thì như thế nào?
* Hỏi: Chim ưng trong sinh hoạt hằng ngày chỉ có cách sát hại tánh mạng [những con vật khác], trọn chẳng còn làm thế nào khác được! Tôi là người niệm Phật, lấy chuyện cứu vớt chúng sanh trọn khắp làm mục đích. Nếu mắt thấy chim ưng vồ mồi, tánh mạng chúng sanh bị nguy ngập, chúng tôi trông thấy ắt xua đuổi chim ưng, cứu mạng chúng sanh. Thường là mỗi khi như vậy, chúng sanh được sống sót đều vui vẻ. Từ đầu đến cuối, chim ưng chẳng có cái ăn, mạng sống nguy ngập, khổ chẳng thể nói nổi! Làm thế nào để có thể mãn chúng sanh nguyện? (Chiến Giác Lực hỏi)
Đáp: Mắt thấy tánh mạng chúng sanh nguy cấp, ra tay cứu vớt, là do tâm từ bi thúc đẩy. Chỉ cầu tâm an trong một lúc, còn tính toán như thế nào sau này cho kẻ gia hại, quả thật sức ta chẳng thể làm được! Nếu muốn triệt để vẹn toàn cho đôi bên, mỗi ngày có thể treo thịt trên cây cho chim ưng khỏi đói lòng cũng được. Có thể làm được hay không? Ở đây tôi nêu một thí dụ, lúc thấy kẻ khác đang vùng vẫy trong lúc bị hãm hiếp, hay bị cướp đoạt, ắt ta sẽ thông cảm [với người bị hại], ra tay giúp đỡ, giải cứu, không cần phải lo cho kẻ toan hãm hiếp, trộm cướp chẳng được thỏa dục, há có phải lo kẻ ấy chẳng có được vợ, chẳng có ăn ư?
* Hỏi: Chúng sanh trong lục đạo sanh trưởng chẳng ngoài bốn loại thai, noãn, thấp, hóa, chúng ta có thể thấy những sinh vật trong hai loại thấp sanh và hóa sanh hay không? Thế giới Cực Lạc liên hoa hóa sanh có thuộc về hóa sanh hay không? Tu La, ngạ quỷ, địa ngục và vi sinh vật, vi khuẩn thuộc loại nào [trong tứ sanh]? Chư thiên trong Dục Giới đã có nam nữ, phải thuộc loại thai sanh, còn Sắc Giới có phải là hóa sanh hay không? Nếu đúng như vậy, họ do vật gì hóa ra? (Lâu Vĩnh Dự hỏi)
Đáp: Các tiểu động vật trong nước và chỗ ẩm thấp rất nhiều, phải dùng kính hiển vi mới thấy được, quá nửa là chúng do hơi ẩm và sức nóng mà sanh trưởng. Sách xưa chép cỏ mục sanh đom đóm, chim sẻ vào trong nước ngập biến thành sò, đấy chính là hóa sanh. Thế giới Cực Lạc và thiên giới, địa ngục v.v... đều là hóa sanh. Quỷ có loài sanh nở bằng bào thai; Tu La chia thành bốn đường (noãn, thai, thấp, hóa), chẳng phải chỉ có một cách sanh. Dục Thiên (cõi trời trong Dục Giới) tuy có dâm dục, nhưng hoặc là cười, hoặc là dùng mắt ngó nhau v.v... đã là hành dâm, không giống như nhân gian phải kết hợp thể xác. Đã nói là hóa sanh thì đa số thuộc về tâm (trừ đom đóm, sò v.v...); thử hỏi người trong giấc mộng có thân là do sự vật nào hóa thành vậy?
* Hỏi: Người ta nói đèn nến thắp trước Phật chẳng được dùng miệng để thổi tắt, hòng khỏi bị thất lễ, đúng không? (Lâu Vĩnh Dự hỏi)
Đáp: Đấy là lý do thứ nhất, ngoài ra còn mang ý nghĩa sợ tổn hại sanh vật.
* Hỏi: Tụng chú Bạch Y, thiêu hóa cho người đã mất, người đã mất có nhận được hay không? (Lâm Thục Trinh hỏi)
Đáp: Phật pháp duy tâm, chỉ mang lòng hồi hướng, người đã mất sẽ được lợi ích. Nếu [giữ tấm lòng ấy] mà thiêu hóa thì cũng có ý nghĩa giống như hồi hướng.
* Hỏi: Trong kinh có những chữ không biết rõ nên tụng sai thì có tội lỗi hay không? (Lâm Thục Trinh hỏi)
Đáp: Đọc kinh chớ nên hời hợt, bộp chộp. Nếu nghi chữ ấy bị sai, phải liền xin người khác chỉ bảo cách đọc đúng. Nếu chỉ mong đỡ mất công, sẽ thành “đem lầm bù lỗi”, thiếu cung kính, chẳng đạt được lợi ích!
* Hỏi: Đối với văn bằng quy y của người quy y đã mất, nên thiêu hóa hay đặt trên thân người đã mất? (Lâm Thục Trinh hỏi)
Đáp: Tùy ý chọn một trong hai cách ấy đều được!
* Hỏi: Trong phần thứ hai trong bài giảng Phật Pháp Cứu Đời Giác Ngộ Con Người của Thái Hư đại sư, có câu: “Nhân Sanh là nói đến hết thảy các hữu tình chúng sanh thuộc nhân loại và chẳng phải nhân loại”, nên giải thích như thế nào? Tôi nghĩ giải thích theo nghĩa rộng thì đúng, nhưng ở tệ xứ có những người đồng hàng thuần giải thích chữ “nhân sanh” theo nghĩa hẹp, đến nỗi có nghi vấn. Vì thế, xin cụ hãy giải đáp! (Lưu Trạch Trung hỏi)
Đáp: Trong vũ trụ, đối với ba thứ vật thể là động vật, thực vật và khoáng vật, nhà Phật chia thành hai loại lớn là hữu tình (động vật) và vô tình (thực vật và khoáng vật), ngàn muôn sai khác, khó thể kể tên trọn hết. Dùng một chữ Nhân để đại diện hết thảy loài hữu tình, dùng một chữ Pháp để đại diện hết thảy loài vô tình. Đấy đều là những từ ngữ học thuật chuyên dụng. Lại nữa, thế giới nhân sanh do các duyên tập hợp mà sanh khởi, duyên khởi vô tận, nên có tương quan khắng khít với hữu tình trong toàn thể pháp giới; vì thế, gọi là “nhân sanh”. [Chữ “nhân sanh”] ấy chẳng thể chỉ riêng một loài là nhân loại được!
* Hỏi: Pháp Thân của chư Phật trọn khắp hư không, nên trụ xứ của Phật trọn chẳng có giới hạn, nhưng Báo Thân của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng như Báo Thân của quá khứ Phật có trụ trong Sắc Cứu Cánh Thiên hay không? (Hề Tử Vi hỏi)
Đáp: Báo Thân của Phật có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Đã nói là Báo Thân chẳng kết thúc thì chẳng thuộc về quá khứ. Có cõi Tịnh để Báo Thân cư trụ, trọn chẳng hạn cuộc trong Sắc Cứu Cánh Thiên của tam giới.
* Hỏi: Thế giới có bốn trung kiếp là thành, trụ, hoại, không. Trong một trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, vậy thì kinh Phật có nói rõ hiện tại thuộc tiểu kiếp thứ mấy trong Trụ Kiếp hay không? (Hề Tử Vi hỏi)
Đáp: Kinh Phật thường nói quá khứ vô lượng kiếp, suy từ trước kia bèn biết hiện tại, con số ấy há có thể nói được ư?
* Hỏi: Có hai người tỵ nạn chiến tranh đến ở trong núi rừng, hoặc nơi hoang vu, lương thực đã cạn, trong ấy có một người chỉ còn [lương thực] vừa đúng một bữa ăn. Nếu hai người cùng ăn cũng chẳng thể đỡ đói. Lúc đó, nên làm như thế nào? Giữ lại cho chính mình ăn, hay chia cho người kia ăn? (Trần Ngọc Bình hỏi)
Đáp: Cùng nhau chạy loạn, phải nên giúp nhau trong cơn hoạn nạn, sướng khổ cùng hưởng. Hai người chia nhau thức ăn, tuy chẳng thể đỡ đói, nhưng trọn hết tình, hợp lý, lại còn chẳng trái nghịch tín nghĩa. Nếu ăn riêng mình, nỡ lòng thấy đồng bạn chết đói, bất luận tình hay lý đều chẳng hợp, còn sợ người kia sanh ác tâm gây hại, cùng chết luôn! So với việc bội tín mà chết, sao bằng trọn nghĩa mà chết?
* Hỏi: Phật giáo suy vi là do tuyên truyền chẳng đủ, quá tiêu cực đối với người nghe giảng, cần phải tăng tánh tích cực thêm một bước nữa, khiến cho Phật lý có thể hoằng dương, nên chọn lựa phương pháp nào thì mới hòng hoằng giáo nhanh chóng? (Vương Khả Tiêu hỏi)
Đáp: Trộm nghĩ tuyên truyền chưa đủ, vẫn là điều thứ yếu. Người được gọi là tín đồ Phật giáo, ắt trước hết phải trống lòng cầu học, tinh tấn thâm nhập, chánh tri, chánh kiến, nghiêm trì giới luật, lấy thân làm gương rồi mới theo đuổi việc tuyên truyền, tự nhiên sẽ có sức hiệu quả to lớn, mạnh mẽ. Nếu không, chính mình chẳng học, tuyên truyền cho người khác nỗi gì? Chính mình thiếu đức, dạy người khác tu hành sao được? Đó là vấn đề căn bản, tuyên truyền thuộc vấn đề phương pháp. Nếu căn bản đã lập, dẫu phương pháp thiếu trọn vẹn, vẫn thu được nửa phần hiệu quả!
* Hỏi: Vì sao thánh nhân mới là chẳng chết? (Trần Vinh Tấn hỏi)
Đáp: Phật là bậc thánh của các thánh, ắt chứng quả ấy, nên mới đoạn hai thứ sanh tử.
* Hỏi: Nếu Địa Tạng Vương Bồ Tát thành Phật trước rồi mới độ chúng sanh trong địa ngục, há chẳng phải là rất có sức mạnh; cớ sao [Ngài phát thệ] “địa ngục chẳng không, thề chẳng thành Phật”? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Bồ Tát thật sự đã chứng thành Phật quả, pháp lực vô biên, cũng giống như Quán Âm tịnh thánh thả chiếc bè Từ, chẳng chịu nhập Niết Bàn.
* Hỏi: Xá-lợi vốn là xương Phật, cớ sao pháp sư Liễu Nhiên ở Tô Châu lại được xá-lợi sanh từ hoa đèn, nên giải thích ra sao? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Đấy là do lòng tinh thành cảm vời, nên Phật thị hiện. Khi khắc ván bộ Long Thư Tịnh Độ Văn, trong từng dòng chữ cũng hiện xá-lợi, do cùng một ý nghĩa này!
* Hỏi: Gần đây, đạo cao một thước, ma cao một trượng, dị giáo điên cuồng, hủy báng, chửi bới Phật giáo, thấy Phật giáo nhu nhược, chẳng có khả năng gì, toan muốn nuốt trọn, chắc là [những kẻ ấy] thuộc loài La Sát hay A Tu La giáng thế gây chướng nạn cho Thích tử. Ngu tôi nghĩ sao chẳng sưu tập những truyền đơn ấy để đưa ra trước hội nghị liên hiệp tôn giáo nhằm bình luận, suy xét coi ai đúng, ai sai, nhằm răn nhắc một số ít kẻ mê mộng trong tương lai! (Cố Khoan Văn hỏi)
Đáp: Tôi đã nhiều lượt trình bày, thỉnh cầu trong hội nghị liên hiệp các tôn giáo, nhưng đối phương bướng bỉnh, u mê chẳng nghe, biết làm như thế nào đây?
* Hỏi: Từ năm mười tám, mười chín tuổi, tôi đã nghiên cứu Phật học, nhưng chưa thể quy y, thọ giới. Muốn quy y, nhưng do cha và hoàn cảnh bức bách, lại nghĩ buôn bán có rất nhiều gian dối. Có người nói “anh lừa tôi, tôi gạt anh, không gian dối chẳng thể buôn bán được”, cho nên cha tôi chẳng thể đồng ý [cho tôi quy y] (ông cụ chẳng tin Phật), tôi chẳng biết làm như thế nào thì mới nên? (Phương Quán Âm hỏi)
Đáp: Học Phật là “nhất siêu trực nhập”, học theo thói gian dối là đọa lạc. Nhân quả chín muồi mỗi mỗi đều phải lãnh chịu quả báo. Người thật sự thông minh, chớ nên chỉ nhìn thấy chuyện tạm bợ trước mắt. Buôn bán chẳng trở ngại học Phật, buôn bán chẳng nhất thiết phải học theo thói gian ngoa. Muốn tiền vốn sanh lợi thì hàng hóa phải chân thật, chẳng lừa dối trẻ nhỏ, người già, dẫu một vốn vạn lời cũng chẳng thể nói là gian! Quan Đại Phu nước Việt là Phạm Lãi[30], cao đồ của Khổng Tử là Tử Cống[31] đều theo đuổi thương nghiệp, mỗi vị chẳng đánh mất tư cách của bậc cao hiền, có thể lấy đó làm gương soi mình.
* Hỏi: Chưa biết pháp sư Đế Nhàn lúc tuổi già bệnh tật nghiêm trọng là vì đâu? Pháp sư Đế Nhàn là bậc trưởng lão trong tông Thiên Thai, giảng kinh hơn mấy chục năm, danh rền khắp nước, nhưng lúc tuổi già, mắc phải bệnh ngặt, toàn thân chẳng thể cử động, ăn uống, đại tiểu tiện đều phải cậy người khác giúp đỡ. Lúc tuổi già còn mắc phải khổ báo ấy! Pháp sư Đế Nhàn giảng kinh độ chúng, công cũng chẳng ít, và cũng là người có thể diện trong Phật môn. Giả sử nghiệp chướng cũ sâu đậm, Phật cũng phải gia bị, chẳng để cho người khác hiểu lầm. Nếu không, kẻ hậu học sẽ kinh nghi chẳng cạn! Cuối cùng, chẳng biết Ngài có lành bệnh hoàn toàn hay không? (Lâm Mộng Đinh hỏi)
Đáp: Huệ mạng bất sanh, bất diệt, thân mạng ắt phải suy yếu, phải chết. Phàm phu chỉ biết thân mạng, đối với những chuyện chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh, chợt phát sanh ý tưởng hiếm có, tăng thêm Thân Kiến, đấy chính là kiến giải sai lầm hàng đầu trong các Kiến Hoặc. Chẳng phá được cái ải ấy, khó mong làm cho huệ mạng sống lại được! Đức Thích Ca nhập Niết Bàn, thị hiện cánh tay đau nhức. Tôn giả Mục Liên nhập diệt còn phải chịu ngoại đạo gia hại, đều nhằm thuyết pháp “thân mạng vô thường”. Đấy là lý do thứ nhất. Định nghiệp khó tránh là lý do thứ hai. Nếu lo lắng kẻ hậu học sanh nghi, thoái chuyển đạo tâm, chẳng thấy cư sĩ Vương Long Thư đứng niệm Phật qua đời, tổ sư Ấn Quang an tường viên tịch ư? Vả nữa, pháp sư Đế Nhàn, tổ sư Ấn Quang đều lưu lại rất nhiều hạt xá-lợi, chứng tỏ huệ mạng đã thành tựu. Đối với Sự nếu nhìn toàn diện, sẽ sanh huệ giải; chỉ nhìn một mặt sẽ bị vướng mắc, sanh lòng nghi vậy!
* Hỏi: Phật giáo tại Đài Loan rất hưng thịnh, có đại pháp sư hoằng pháp lợi sanh, còn có đại cư sĩ hộ trì Tam Bảo, chẳng biết khi giành lại Đại Lục có còn được như thế hay không? (Thiệu Thanh và Chấn Bang hỏi)
Đáp: Sự hoằng pháp của Phật giáo tại Đại Lục từ xưa đến nay trọn chẳng gián đoạn. Chỉ vì đất rộng, tuy có đến mấy chục nơi có kinh đàn (nơi giảng kinh) nhưng rải khắp các tỉnh, nên thưa thớt như sao sớm mai, chẳng khiến cho người khác chú ý. Đài Loan chỉ là một tỉnh, bảy tám kinh đàn, tụ tập một nơi; vì thế, có vẻ rất hưng thịnh. Pháp sư, cư sĩ hoằng pháp, hộ pháp, chẳng hạn cuộc thời gian và nơi chốn. Sau khi khôi phục Đại Lục, lẽ nào chẳng bằng?
* Hỏi: Đến lúc độ sanh, các vị cao sư trong ngoài tỉnh ngàn năm khó gặp gỡ sẽ cùng một lúc tụ tập, nên làm như thế nào? (Toàn Chân hỏi)
Đáp: Tam Bảo giáng lâm, chính là do phước huệ của chúng sanh cảm thành. Đã nói là “ngàn năm khó gặp”, chớ nên bỏ lỡ dịp này, hãy nhanh chóng quy y, vâng giữ lời dạy, phụng hành.
* Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật tu hành khá lâu dưới cội Bồ Đề mới thành Vô Thượng Chánh Giác, trong thời gian ấy có ăn uống hay không? Thiền Định có gián đoạn hay chăng? (Thí Hiếu Học hỏi)
Đáp: Khi thâm nhập Thiền Định, chẳng cần ăn uống.
* Hỏi: Đối với sự tuần hoàn trong lục đạo, xin hãy dẫn chứng căn cứ triết lý để giải đáp. Do bạn bè hỏi tới điều này, vãn học do học Phật nên biết thuyết nhân duyên quyết định là xác thực. Chỉ vì hiện thời là thời đại khoa học, hết thảy đều nên dùng triết lý để làm căn cứ giải đáp thì mới hòng khiến cho kẻ khác tin tưởng. Trong kinh Phật, nhất định có giải đáp khẳng định, xác thật về chuyện này, nhưng vãn học do nông cạn nên chẳng hay biết! (Tạ Vũ Bình hỏi)
Đáp: Đối với câu hỏi thay cho bạn Ngài, cần phải phân tích thêm:
1. Một là khoa học và triết học là hai sự kiện có tánh chất bất đồng. Đối với kẻ tin khoa học mà dùng triết học để trả lời, vẫn là xoay càng xe về phương Nam mà toan đi về phương Bắc!
2. Hai là Phật pháp có ý nghĩa chân thật, chẳng thể hùa theo trào lưu mà biến đổi bản chất. Nếu thích dùng triết lý để giải đáp, [tức là] chẳng biết Phật học chính là triết lý chí cao vô thượng. Bỏ điều này để cầu những thứ triết học kém hơn, há chẳng phải tụt xuống khỏi cây cao để chui vào hang tối? Bạn Ngài có thật sự biết triết học hay không?
3. Ba là những câu trong triết học cổ đại của phương Đông như câu “du hồn vi biến” trong kinh Dịch, “cá Côn hóa làm chim Bằng” của Trang Tử đều là nói về sự luân hồi, bạn Ngài có chịu tin tưởng hay chăng?
4. Bốn là bất đắc dĩ, có thể bỏ Lý để bàn Sự, nước Anh là xứ khoa học lẫn triết học chẳng thua ai, lại tin có quỷ nhất, lại còn có thể trò chuyện cùng quỷ giữa ban ngày! Tôn giáo của Tây Dương càng nói nhiều về thiên đường, địa ngục hơn nữa, nhưng chẳng ai chê là trật! Nhìn chung, người tầm thường cũng biết có bốn đường trời, người, quỷ, địa ngục. Chỗ nào cũng thấy súc sanh; do vậy, năm đường là chuyện hiển nhiên, sao lại riêng nghi lục đạo vậy?
* Hỏi: Thiền Định và vãng sanh, trên là có thể đạt trí huệ, dưới là siêu thoát, nói kèm thêm thì còn có những thứ như thần thông v.v... Vãn bối tu tập Thiền Định, đương nhiên chủ yếu giải thích bằng Thiền, căn cứ triết lý là Nhất Nguyên Luận, Nhị Nguyên Luận để giải thích Con Người. Con người có cái tâm tư duy (hoặc tinh thần), mà cũng có cái thân xương thịt, nên Người là một, nhưng về hình tướng thì dường như là hai. Căn cứ vào nguyên tử để giải thích thì cũng thế, trong nội bộ nguyên tử, khi nó phóng xạ, toàn bộ bản thể bị hủy diệt, bất cứ một bộ phận nào cũng chẳng thể tồn tại. Do vậy, Thiền Định và vãng sanh tợ hồ chẳng phù hợp với La Tập (Logic, luận lý học)! Kính xin hãy giải thích để trừ nghi hoặc! (Tạ Vũ Bình hỏi)
Đáp: “Thiền Định, vãng sanh, trên là, dưới là, Nhất Nguyên, Nhị Nguyên” chưa tránh khỏi [là những lý luận] táp nham! Chúng đã chẳng phải là lẽ đương nhiên, càng chẳng đáng dùng làm căn cứ! Học hành, nghiên cứu kỵ nhất là rối ren, thiếu lớp lang, gán ghép khiên cưỡng! Câu nói “tâm và cái thân xương thịt là một người, nhưng về hình tướng thì có hai” chẳng rõ ràng. “Thiền Định, vãng sanh” trọn chẳng giống như nguyên tử phóng xạ; sao lại nói là chẳng hợp lý luận? Nếu bảo khi tâm đạt đến giác rốt ráo, giống như nguyên tử phóng xạ, nào biết tâm chẳng phải là vật chất, làm sao bị hủy diệt cho được? Nếu cứ chấp trước phải phù hợp với nguyên tử phóng xạ, Thiền gia có kệ rằng: “Giác hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cõi rỗng toang hoang) rất gần với ý ấy!
Nói thêm: Kính khuyên cư sĩ hãy tạm thời chẳng cần phải tập Thiền, bởi thiếu sư thừa sẽ dễ đi vào ngõ rẽ. Vẫn là học tập cách trì danh niệm Phật là ổn thỏa, thích đáng hơn. Nếu cứ muốn tập Thiền, trước hết phải tham học với một vị minh sư!
* Hỏi: Tôi chẳng hiểu do ý nghĩa nào mà đức Phật dạy con người sau khi chết hãy nên chọn cách hỏa táng? Xin hãy chỉ dạy! (Trần Thiện Chí hỏi)
Đáp: Hoả táng là một trong những cách mai táng của thế tục. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, [các đồ đệ] từng cử hành lễ trà-tỳ [kim thân của Phật], nên các đồ đệ Phật đa số làm theo. Nhưng mất rồi, hỏa táng, thật ra, chẳng hạn cuộc trong giới tín đồ nhà Phật, mà Phật giáo đồ sau khi mất cũng chẳng phải đều chọn cách hỏa táng.
* Hỏi: Gặp lúc phóng sanh, đối trước Phật, nên quy y cho các động vật theo cách thức nào? (Thích Thường Chánh hỏi)
Đáp: Trong cuốn khóa tụng có nghi thức phóng sanh. Nếu chẳng thể học tập nhuần nhuyễn ngay được, chỉ niệm chú Đại Bi một biến, hoặc chú Vãng Sanh ba biến, rồi niệm Tam Quy Y ba lượt. Phải giữ lòng thành thì mới có cảm ứng.
* Hỏi: Thanh Văn Niết Bàn và Đại Thừa Niết Bàn có gì khác nhau? (Sa Nhâm hỏi)
Đáp: Như Lai Tạng từ Thỉ Giác mà đạt đến Cứu Cánh Giác, trí như tấm gương tròn đầy, nên gọi là Bát Nhã. Các chướng đều hết, đức năng tỏ lộ toàn bộ, bèn gọi là Pháp Thân. Các khổ đều lìa, hai thứ sanh tử Phần Đoạn và Biến Dịch đều giải quyết xong, bèn gọi là Giải Thoát. Đấy là ba đức của Chân Như, là Niết Bàn được chứng bởi Đại Thừa. Nếu là Thanh Văn Niết Bàn thì đối với ba đức ấy, chỉ đạt được một phần của đoạn đức Giải Thoát tức là đoạn trừ Phần Đoạn sanh tử mà thôi.
* Hỏi: Phật giáo đồ chưa thọ Ngũ Giới có thể thay người khác cầu siêu cho người đã khuất hay không? (Sa Nhâm hỏi)
Đáp: Nếu tâm trọn đủ từ bi, chẳng ham danh lợi, đem điều chính mình hiểu biết để làm pháp thí cho người khác thì không gì là chẳng được. Người theo Tịnh Độ trợ niệm cho kẻ khác cũng chính vì lẽ ấy. Bất quá, người đã thọ giới pháp lực sẽ thù thắng hơn!
* Hỏi: Tu hành phải đoạn Hoặc và ngạo mạn, tà kiến v.v... Vì sao trong Phật môn rất nhiều hành giả đều tự xưng chính mình đạo cao, hoặc đã đắc thần thông, hoặc vẽ bùa, làm phép vào nước, chọn ngày, xem tướng v.v... Có phải là hành giả ấy thật sự có sở đắc hay chăng? (Lý Thiện Trung hỏi)
Đáp: Tự khen ngợi mình là chẳng có đức. Nói mình có thần thông, e là vọng ngữ. Phù thủy, xem tướng đều là tà mạng. Hành giả kiểu đó đã đi vào ngõ rẽ, há có thể nói là “đã đạt” ư?
* Hỏi: Đức Thế Tôn thần thông tự tại, Báo Thân có thể trụ thế cả trăm năm hoặc ngàn năm, cớ sao sau bốn mươi chín năm bèn nhập Niết Bàn, chẳng độ chúng sanh nữa? (Lâm Phước Tu hỏi)
Đáp: Thời hạn Phật thuyết pháp là bốn mươi chín năm, chứ không phải là tuổi thọ của Ngài chỉ có vậy! Cần biết Phật có ba thân, tức là Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân. Ở đây, tôi nêu một thí dụ. Pháp Thân giống như mặt trời, Báo Thân giống như ánh sáng tỏa từ mặt trời, Hóa Thân giống như hình bóng chiếu xuống. Ba thứ ấy cũng là một. Pháp Thân không khởi đầu, chẳng kết thúc, thường hằng bất động. Hóa Thân có trăm ngàn vạn ức, có khởi đầu, có kết thúc, giống như hình bóng mặt trời thoạt Đông, thoạt Nam, thoạt Tây, chợt có, bỗng không. Thân Thế Tôn đến trong cõi này chính là Hóa Thân. Vì duyên hợp mà đến, duyên hết bèn đi.
* Hỏi: Tại gia học Phật đều gọi là cư sĩ, nhưng nghe nói có người tự xưng cư sĩ, rốt cuộc thì có thể tự xưng hay chăng? (Tố Trinh hỏi)
Đáp: Có thể tự xưng [là cư sĩ], thời cổ đã có rất nhiều trường hợp như vậy.
* Hỏi: Địa ngục giống như địa cầu, mặt trăng? Trong tam thiên đại thiên thế giới, địa ngục có “sắc thể” hiện thực hay không? Hay nó là một thứ cảnh tượng huyền ảo, chẳng phải là một tinh cầu có thể chất? (Tố Trinh hỏi)
Đáp: Xét theo cơ cấu tổ chức của thế giới, chính giữa là núi Tu Di, bảy rặng núi, tám cái biển vây quanh. Rặng núi vây quanh ngoài cùng gọi là Thiết Vy Sơn. Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện dạy: “Tam hải chi nội, thị đại địa ngục, kỳ số bách thiên, các các sai biệt” (trong ba cái biển là đại địa ngục, số đến trăm ngàn, mỗi ngục đều sai khác). Theo như các kinh ghi chép, đa số nói địa ngục có thể gộp thành ba loại lớn:
- Một là “nhiệt địa ngục”, ở dưới đáy biển Diêm Phù, có nhiều tầng lớp.
- Hai là “hàn địa ngục”, ở chân núi Thiết Vy.
- Ba là “biên địa ngục”, rải rác trong núi, mé nước, đồng trống.
Theo đó, địa ngục ở kề bên chân núi, đáy biển và rải rác bốn phương, chẳng phải là có một tinh cầu riêng. Phàm thứ gì hiện hình thì gọi là sắc tướng. Nếu hỏi là thật hay huyễn, kẻ sơ học chẳng hiểu rõ giáo tướng, khó thể bàn về Lý, chỉ có thể nói về Sự. Hãy thử nghĩ, đọa địa ngục chịu khổ là thật, làm sao còn có thể nói địa ngục là huyễn?
* Hỏi: Vì sao quỷ luôn xuất hiện trên địa cầu chúng ta vào ban đêm? Có phải là ban đêm địa cầu thuộc về cõi Âm hay chăng? (Tố Trinh hỏi)
Đáp: Quỷ đạo là một cảnh giới riêng, không lúc nào chẳng có, nhưng mắt kẻ tầm thường chẳng thể trông thấy, trọn chẳng phải là ngày ẩn, đêm hiện! Do ban đêm chẳng có ánh sáng mặt trời, [chỉ có ánh sáng của] các ngôi sao. Đặc biệt là mắt con người dễ nhận biết [quỷ vào ban đêm] hơn ban ngày. Gọi cõi người là Dương Gian, gọi cõi quỷ là Âm Gian là do ngoại đạo và thế tục đặt tên như vậy, có ý nghĩa khác với chuyện địa cầu tự xoay chuyển, hướng về mặt trời gọi là ngày, ngược hướng với mặt trời thì gọi là đêm.
* Hỏi: Thường nghe một bà cụ đồng đạo nói “tam phòng bất tấn” (chớ nên vào ba loại phòng). Một là phòng của người mới sanh chưa đầy tháng, đó là “huyết phòng bất tấn”. Hai là phòng của người kết hôn chưa tròn một tháng, đó là “huân phòng bất tấn”. Ba là phòng của người chết chưa đầy một thất, tức là “tang phòng bất tấn”. Chẳng biết có lý do nào? Một Phật giáo đồ là bác sĩ ngành phụ sản, mỗi ngày đều sáng tối thắp hương, niệm kinh trong Phật đường, chỉ đành đối với điều răn thứ nhất không giữ vì đó là công việc của chính mình, có hợp lý hay không? Ngẫu nhiên gặp lúc hàng xóm bối rối vì sắp sanh, có thể giúp đỡ hay không? Sau khi làm việc xong, có nên chiếu theo thường lệ mà dâng hương, niệm Phật hay chăng? (Lưu Ngự Quân hỏi)
Đáp: Thuyết “tam phòng bất tấn” nếu chẳng phải là lời đồn đại thông tục thì cũng là lời lẽ của ngoại đạo! Đệ tử Phật vì cứu độ chúng sanh, không nơi nào chẳng có thể vào! Đệ tử Phật làm việc trong ngành sản khoa, nếu giúp người khác sanh nở, tốt nhất là hãy thầm niệm thánh hiệu Quán Âm, cầu cho sản phụ mẹ lẫn con an toàn. Làm việc xong, sau khi tắm rửa, liền có thể thắp hương, niệm Phật, trọn chẳng có gì không thích hợp!
* Hỏi: Cúng dường trái cây trên bàn Phật có phải là Phật, Bồ Tát đến huởng nhận hay chăng? [Trái cây] có vỏ, có màng bọc thì hưởng bằng cách nào? (Lưu Ngự Quân hỏi)
Đáp: Phật quốc thanh tịnh, trang nghiêm, uế phẩm trong thế giới trược ác quý báu nỗi gì mà đến hưởng thụ. Bất quá chúng ta có lòng thành trong sạch, Phật liền chứng biết, ta đã gieo phước vậy. Như lúc đức Thích Ca hành đạo, người đàn bà nghèo dâng cúng tấm chăn dơ, đứa trẻ cúng dường cát đất, đức Phật đều nhận lấy, để họ gieo phước. Phật là vị vương tử quý hiển, há cần đến tấm chăn và đất ư? Chấp nhận lòng thành của họ đó thôi!
* Hỏi: Phụ nữ lúc có kinh bất tịnh, không biết có thể làm những chuyện cúng dường như thắp hương, lạy Phật, niệm Phật v.v... hay không? (Ngô Luân Bỉnh hỏi)
Đáp: Chuyện này vốn do sinh lý khiến thành ra như thế, trọn chẳng phải là cố ý bất tịnh. Chỉ cầu ý tịnh bèn có thể chầu hầu Tam Bảo, chỉ nên lễ niệm như thường lệ, chắc chắn chẳng có gì là không hợp lẽ!
* Hỏi: A Tu La có thiện và ác, chẳng biết thần thì sao? Quỷ thì như thế nào? Thường trụ chỗ nào? Hoặc là các vị thần cõi âm nhận sự cúng dường của mọi người trong thế gian như Vương Gia, Thành Hoàng, Pháp Chủ Công[32], Nhạc Đế[33], Ma Tổ[34], Phật Tổ, Quan Đế, Bảo Sanh Đại Đế[35] v.v... là những vị thần thay trời quản trị cõi đời? (Ngô Luân Bỉnh hỏi)
Đáp: A Tu La có bốn đường trời, người, súc sanh, quỷ khác nhau. Nói sơ sài thì sanh trong đường nào sẽ trụ nơi đó. Nói cặn kẽ, y báo trong mỗi đường sẽ rất khác nhau. Cùng sanh trong một đường, mà trụ xứ còn rất khác biệt. A Tu La tuy là một trong tám bộ hộ pháp, vẫn chưa nghe nói có ai thờ phụng. Còn như đoạn sau trong lời hỏi, đã lẫn lộn giữa thần và Phật, những vị thần thay trời quản trị cõi đời v.v... đều là lời bịa đặt đồn nhảm, chẳng đáng để tin theo!
* Hỏi: Chẳng biết “nhân” trong “thiên nhân”[36] của ba đường lành có phải là con người có thân xác trong thế giới hay chăng? Hay là chư thiên trên cõi trời mà nhục nhãn chẳng thể thấy được? (Ngô Luân Bỉnh hỏi)
Đáp: Thiên đạo là hóa sanh, chẳng giống với thân xác của người đời.
* Hỏi: Trong kinh nói “cúng dường Phật” phải dùng chân châu, bảo bối, y phục v.v... để cúng dường, hiện thời đúng là chuyện khó thể làm được, chẳng biết cách cúng dường ra sao? (Ngô Luân Bỉnh hỏi)
Đáp: “Thất bảo cúng Phật” là nói đến vật quý báu tột bậc, chẳng phải là bắt buộc phải dùng những thứ ấy rồi mới là cúng Phật. Phải đọc kinh văn một cách linh động.
* Hỏi: Trong đời trước, đức Thích Tôn đã được Nhiên Đăng Phật thọ ký thành Phật, đời này vì ứng thân độ sanh nên xuất hiện tại Ấn Độ, phải nên trọn đủ thần thông, biết rõ chính mình là Phật, vì sao lại nói “tu hành chín năm thành đạo”, có ngụ ý gì? (Trí Hằng hỏi)
Đáp: Tám tướng thành đạo đều nhằm làm mẫu vậy!
* Hỏi: Lúc đức Phật thuyết pháp, thường có các Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng từ phương khác đến nghe, nhưng nơi chốn hữu hạn, làm sao có thể dung nạp số lượng nhiều như vậy? (Vương Quyền hỏi)
Đáp: Nơi chốn lớn hay nhỏ có thể biến hiện thuận theo Phật lực, chẳng thể câu nệ theo lẽ thường tình! Cư sĩ Duy Ma còn có thể hiện thần biến khiến căn phòng nhỏ tí dung nạp vô lượng tòa báu, huống là Phật lực? Nhưng tuy dung nạp đông đảo đại chúng, quả thật cuộc đất chẳng lớn hơn, nên gọi là Thần. Nếu chẳng thể tin, xin lập một tỷ dụ: Tấm gương vuông rộng một thước, dầy chẳng quá mấy phân, đặt giữa đồng trống, núi cao ngàn tầm[37], nước xa trăm dặm đều hiện bóng rành rành phân minh trong gương, mà gương cũng chẳng hề lớn thêm!
* Hỏi: Là đệ tử Phật môn có nên học tập thuật xem tướng, coi số mạng, tánh danh học[38], thuật thôi miên hay không? (Đỗ Tự Nhiên hỏi)
Đáp: Những thứ ấy đều là mê tín, chớ nên học tập. Nếu trước đây do nghèo hèn, từng lấy đó làm nghề để sống thì chẳng ngại tạm thời vẫn giữ như cũ.
* Hỏi: Kinh Kim Cang dạy: “Ư thử kinh trung nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết nhi thử phước đức...” (Đối với kinh này, thậm chí thọ trì một bài kệ bốn câu, vì người khác nói, thì phước đức ấy...) v.v..., đối với điều ấy, nếu chỉ tự đọc tụng, chẳng vì kẻ khác diễn giảng, phước đức sẽ như thế nào? (Thiện Nhân hỏi)
Đáp: Tự tụng là lợi mình, diễn thuyết là lợi lạc người khác. Lợi cả đôi đàng thì phước rộng lớn, lợi riêng mình thì phước đức hẹp hòi.
* Hỏi: Thân là Ưu Bà Tắc có thể vì người khác tụng kinh, làm công đức hay không? Đối với chuyện tụng kinh, nếu nhận tiền do người ta biếu thì có phạm tội lỗi hay chăng? (Thiện Nhân hỏi)
Đáp: Chẳng được theo đuổi chuyện kinh sám! Nếu có tình hình đặc biệt, vì người khác làm công đức, chẳng nhận tiền biếu xén thì được!
* Hỏi: Trong thế gian, nhân viên lo việc hộ tịch đến mấy ngàn vạn, chỉ quản lý nhân loại mà đã bận bịu đến nỗi chẳng được rõ ràng mười phần. Diêm Vương chấp chưởng sổ sanh tử, chỉ có mười vị mà phải cai quản tứ sanh lục đạo trên toàn thế giới, làm sao có thể cai quản phân minh được? (Thiện Nhân hỏi)
Đáp: Nhân viên quản lý hộ tịch mấy ngàn vạn đều là trực tiếp lo liệu, nhưng người quản trị tổng quát chẳng qua vài người mà thôi. Diêm Vương cũng là chức danh quản trị tổng quát, sao lại nghi điều này?
* Hỏi: Năm Dân Quốc 29 (1940), tôi theo quân đội đến Lạc Dương, ngắm cảnh Long Môn Nhất Nhật Tam Biến Sắc (Long Môn[39] một ngày ba lượt đổi mầu) trong tám đại cảnh, thấy có mấy vạn tượng Phật lớn nhỏ bằng đá, đó là kiến trúc thời nào? Lại nữa, đầu tượng Phật không tượng nào là chẳng bị khuyết mất một nửa, do nguyên nhân nào? Xin hãy chỉ dạy! (Tống Minh Cung hỏi)
Đáp: Tượng Phật tại Long Môn được tạo vào thời Nam Bắc Triều[40] của Trung Quốc, vô cùng nổi tiếng quý báu. Một ngày đổi màu ba lần là do núi ấy hình thế chót vót, nước sông vờn quanh, [phản chiếu] ánh mặt trời di chuyển lúc mờ, lúc tỏ mà ra. Tượng Phật tàn khuyết do rất nhiều nguyên nhân, [tạm kể thì] một là do những kẻ rập bia[41] để bán, mỗi lần rập bia thường cố ý hủy hoại để người rập bia sau họ chẳng có được hình ảnh vẹn toàn, nhằm tăng giá trị bản rập của họ. Hai là do khắc bằng đá nổi tiếng quý báu, những gã buôn đồ cổ đập lấy đầu để bán cho giới khảo cổ ngoại quốc.
* Hỏi: Hai câu hỏi dưới đây hoàn toàn do mộng cảnh mà có, nhưng là chuyện ngàn vạn phần chân xác, trọn chẳng phải là bịa đặt vu vơ. Hai tháng trước, tôi nghe tiên sinh Viên Kiến Huân giảng luận Phật pháp, xiển dương chân lý Phật giáo, Tây Phương có nước Cực Lạc, niệm thánh hiệu A Di Đà Phật lâu ngày có thể vãng sanh. Ông Viên lại dạy niệm Lục Tự Đại Minh Chú có thể khai trí huệ, có thể khiến bệnh được lành nhanh chóng. Lúc đó, tệ nhân bèn kiền thành tụng niệm, đến đêm thứ ba liền mộng thấy hai giấc mộng sau đây: Một là lúc sắp mộng, nằm trên giường liền niệm thầm Nam-mô A Di Đà Phật, trong khi mơ màng liền bước vào cảnh mộng, thấy trên núi có hai vị hòa thượng, ngồi đối diện nhau bàn về tâm. Tệ nhân đến trước hòa thượng, nghe nói hai câu: “Tích nhật Tam Tạng địa, kim thành Quảng Hàn cung” (Xưa kia đất Tam Tạng, nay thành cung Quảng Hàn), nhưng hai vị hòa thượng ấy trọn chẳng nói chuyện với tôi, mà hai vị đàm thoại đặc biệt nhiều, tệ nhân nhớ chẳng rõ rồi dần dần tỉnh giấc (khoảng mười hai giờ đêm), xin hãy chỉ dạy! (Châu Văn Hiến hỏi)
Đáp: Mộng đều do kết tưởng mà thành, tức là do tập khí phát khởi, hiện hành. Luận theo Lý, lúc tỉnh mộng còn chưa phải là thật, thì trong mộng càng hư vọng hơn nữa! Nhưng hai nhà Nho và Phật đều có thuyết giải mộng, nên chẳng ngại gì mà miễn cưỡng giải thích, suy đoán. Điều này chứng tỏ cư sĩ học Phật đắc lực. “Tam Tạng địa” chắc là nói đến Tạng thức nay đã được kinh Phật huân tập, dần dần có xu thế chuyển thành pháp tạng. “Quảng Hàn cung” là mặt trăng, nhà Phật thường sánh ví Đại Viên Kính Trí như mặt trăng, có lẽ là tạng thức nhờ sức huân tu kinh Phật nên có hy vọng dần dần chuyển thức thành trí. Tăng là một trong Tam Bảo, mộng thấy sẽ là thụy tướng (tướng tốt lành), hoặc là Bồ Tát hóa hiện để sách tấn, cũng chưa biết chừng!
Hỏi: Giấc mộng trước vừa tỉnh, chẳng biết lại bước vào cảnh mộng vào lúc nào, địa điểm là ở chỗ tôi ở, khi ấy có mười mấy cô gái trẻ trước nay chưa hề quen biết, vây quanh tôi, quấn lấy quấy nhiễu tôi, miệng thốt lên những lời dâm tà chẳng hợp lễ nghĩa, chẳng ra thể thống gì. Đáng sợ nhất là có một cô rốt cuộc ôm chặt lấy tôi, cởi quần tôi ra, trong khi ngàn cân treo sợi tóc ấy, trong tâm mạnh mẽ nhớ tới “Om Mani Padme Hum” liền tụng ra miệng, rất lạ lùng là mây tiêu, sương tan, chẳng biết các cô gái biến đâu hết, lúc tỉnh giấc toàn thân đẫm mồ hôi. Khi ấy là hai giờ bốn mươi phút, cũng xin hãy giải thích. (Châu Văn Hiến hỏi)
Đáp: Còn có thể làm chủ trong mộng, chẳng bị nhiễm dục, có thể trì chú để tự giữ mình, đó là học Phật đắc lực. Nếu có thể làm chủ trong mộng, thì khi tỉnh ắt sẽ làm chủ được. Hết sức khâm phục!
* Hỏi: Triết học gia Hy Lạp thời cổ nói vật chất trong vũ trụ do bốn nguyên tố hợp thành, một là nước, hai là lửa, ba là gió, bốn là đất, giống như Tứ Đại của Phật giáo, nhưng chẳng nói tới nguồn gốc của học thuyết ấy. Vì thế, xin hỏi là học thuyết ấy từ Ấn Độ truyền sang Hy Lạp hay từ Hy Lạp truyền sang Ấn Độ, hay là ngẫu nhiên xảo hợp mà giống nhau? (Diệp Khánh Đào hỏi)
Đáp: Từ Ấn Độ truyền sang Hy Lạp hay từ Hy Lạp truyền sang Ấn Độ, chẳng có sách vở nào để làm căn cứ, nên chẳng thể đáp tùy tiện. Hy Lạp nói vật chất trong vũ trụ đều do bốn nguyên tố ấy hợp thành, đều là những lời lẽ lầm lẫn thể chất giả tạm là chân thật. Đức Phật nói Tứ Đại là từ ngữ tỷ dụ trừu tượng sống động, hoạt bát, nên có thể nói là “ngẫu nhiên xảo hợp”, nhưng nếu [xét theo] ý nghĩa giải thích [của Tứ Đại và bốn nguyên tố] thì chẳng hoàn toàn giống nhau. Hơn nữa, Phật pháp chính là đạo được truyền thừa bởi tam thế chư Phật, ắt sẽ có học thuyết riêng. Tuy tùy thuận kiến giải thế gian, ngẫu nhiên nói giống nhau, nhưng phần nhiều là phương tiện, chứ xét đến chỗ rốt ráo, vạn phần chẳng phải là chuyện thuộc về tri kiến quen thuộc của con người.
* Hỏi: Khi đức Thích Ca Thế Tôn xuất gia đã bái vị nào làm thầy? Xin hãy dạy cho! (Hồ Viễn Chí hỏi)
Đáp: Thích Tôn từ nhiều kiếp đã sớm thành Phật quả, đến [thế giới Sa Bà] này vốn nhằm thị hiện để độ chúng sanh. Sau khi xuất gia, những người Ngài đến tham phỏng đều là ngoại đạo, nên Ngài nhất loạt bỏ đi [chẳng học theo họ]. Còn như nói tới chuyện thành Phật trong đời này, Ngài trọn chẳng có sư thừa.
* Hỏi: Có người niệm Phật cầu sanh Tây Phương do kiêng giết, ăn chay, chỉ là thường ăn trứng gà. Nếu căn cứ vào chữ Nghiệt trong bài kệ “tá vấn binh đao tai, hà thuật phương năng miễn, đề phòng tam xan thời, mạc thác oan nghiệt oản” (thử hỏi nạn chiến tranh, cách nào mới thoát được? Hãy ngừa trong ba bữa, đừng ăn thứ oan nghiệt) thì do không có máu, nước mắt, tiếng ai oán, nên dường như có thể ăn trứng gà; nhưng chúng sanh có bốn loại là noãn, thai, thấp, hóa, trứng gà là một trong bốn loại chúng sanh, chẳng biết thuyết nào đúng, thuyết nào sai? (Hồ Viễn Chí hỏi)
Đáp: Trứng không có cồ, trong ấy không có mầm sống, nên có thể phương tiện ăn được!
* Hỏi: Ngoại giáo nói đến Thượng Đế thì rốt cuộc là vị thần nào? (Lâm Liễu Lâm hỏi)
Đáp: Ngoại đạo đông đảo, “Thượng Đế” đại khái chỉ Thiên Đế. Các giáo khác phần nhiều cho rằng chỉ có một tầng trời, họ cũng chẳng biết đến các tên gọi Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Đã có nhiều loại trời thì số lượng Thiên Đế quả thật không chỉ là mấy ngàn vạn ức, bọn chúng ta chẳng thể định rõ được, chỉ đành nói là trong mỗi tôn giáo, tin vào vị trời, coi cõi lý tưởng là chỗ nào thì sẽ sùng phụng vị Thượng Đế nơi ấy mà thôi!
* Hỏi: Mạt học có chí hoằng pháp độ đời, hiềm rằng học thức nông cạn, lại chẳng biết nên bắt đầu nghiên cứu Phật học từ chỗ nào? Nghiên cứu ra sao? Trong tay lại chẳng có rất nhiều sách Phật học, hoặc những sách vở đang có chẳng thích đáng, không biết phải làm như thế nào mới nên? (Thiền và Tịnh chỉ có thể tự tu, để hoằng dương cũng cần phải nghiên cứu trước). (Quách Bổn Vân hỏi)
Đáp: Văn Tư là Phật học, tu trì là học Phật, hai điều ấy vốn chẳng thể tách rời. Tu mà chẳng học, tức là người mù, ngựa đui, ắt nhiều lầm lỗi. Học mà chẳng tu, tức là kể chuyện ăn, đếm của báu, trở thành hý luận. Hơn nữa, kẻ có học mà chẳng tu thì cái học ấy chẳng vững vàng, tự mình còn không làm, làm sao có thể dạy người khác cho được? Vạn pháp sâm la đều do tâm tạo. Bài Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của Tỉnh Am đại sư có câu: “Tâm chân thật, ắt sự là thật”. Do vậy biết: Không tu mà dạy người khác cũng sẽ chẳng thành! Nếu nói tu hành thì trong thời Mạt Pháp, chỉ có Tịnh Độ dễ tu. Nếu nói đến học thì Thái Hư Đại Sư Toàn Thư chính là văn khố dành cho kẻ sơ học. Thông hiểu bộ sách ấy rồi mới đọc những kinh sách khác sẽ thấy dễ hiểu. * Hỏi: Giáo đồ đạo Cơ Đốc truyền đạo, thường nhục mạ Phật giáo, vì sao chẳng dựa trên lý để tranh biện cùng họ? [Nếu chẳng làm như vậy], rõ ràng chẳng phải là lý của tự mình kém cỏi ư? (Lục Phương Nghĩa hỏi)
Đáp: Tôi còn chưa đích thân nghe, đích thân thấy. Nếu có chuyện ấy, sợ rằng là lời lẽ của những kẻ học thức nông cạn, vừa nhập đạo, khó thể chê trách được! Vì kẻ ấy chẳng những không hiểu Phật giáo, mà dường như đối với giáo nghĩa Cơ Đốc giáo hắn cũng chẳng hiểu rõ! Đó gọi là “ngửa mặt nhổ lên trời, vẫn là tự mình nhận lấy, trời chẳng nhổ xuống người”, há có phải là kém lý?
* Hỏi: Tôi nghĩ đến mấy năm trước, tại nội địa có báo X... có một lần nhục mạ Hồi giáo, giáo đồ Hồi giáo người ta đúng là nhiệt tâm, phá tan tòa soạn tờ báo ấy, lại còn kiện tụng ra tòa. Xảy ra chuyện ấy, cũng chẳng có ai dám lấn hiếp Hồi giáo, vì sao Phật giáo đồ chẳng có dũng khí như vậy? (Lục Phương Nghĩa hỏi)
Đáp: Phật giáo vốn giữ lòng bi mẫn, coi trọng hạnh Nhẫn Nhục. Báng Phật pháp là tội hàng đầu, thậm chí gấp vạn lần tội Thập Ác, Ngũ Nghịch, đọa vào địa ngục A Tỳ. Nếu kiếp này hết, lại chuyển sang địa ngục ở phương khác, xoay vần trong các địa ngục như thế trăm ngàn lần, mà đức Phật cũng chẳng huyền ký khi nào [kẻ ấy] sẽ thoát ra, bởi báng chánh pháp là giết hại huệ mạng của chúng sanh. Những người ấy chỉ quan tâm lời dua nịnh cho sướng ý trước mắt, chẳng biết đời sau tội báo vô cùng, rất đáng thương xót! Ta chẳng thể độ họ, đã phải buông bỏ, sao còn nỡ so đo với họ?
* Hỏi: Nhằm hộ giáo, nào ngại học một chút tinh thần thượng võ? (Lục Phương Nghĩa hỏi)
Đáp: Ông chẳng thấy Thập Tự Quân[42] mười lần đổ máu ư? Nhà Phật chẳng theo đuổi chuyện ấy, dẫu ngay tại Trung Quốc, bị Đạo gia ganh ghét, khiến xảy ra nạn Tam Vũ Diệt Pháp[43], bị Tống Nho phỉ báng, bài xích là dị đoan, nhà Phật chẳng mảy may dùng lời ác đáp trả, huống còn có những động tác khác. Do đấy là lòng từ bi, nên đó mới là điều vĩ đại [của Phật giáo].
* Hỏi: Trong số các pháp sư từ nội địa đến Đài Loan, tính ra có mấy vị có tu trì, có học vấn cao nhất? Tôi là kẻ đi sai đường, nay muốn kết giao cùng vài vị, chẳng thể không cẩn thận, xin cư sĩ hãy giới thiệu một hai vị cho tôi được không? (Vương Đa Tường hỏi)
Đáp: Phàm là người xuất gia, tôi đều tôn là thầy, vì họ là Tăng Bảo. Nếu nói đến tu trì, học vấn, nêu tên vị này, hay vị kia, đều tạo thành đầu mối thị phi, mà thật sự cũng chẳng cần phải giữ thành kiến ấy. Ngạn ngữ xưa có câu: “Tam nhật bất kiến, quát mục tương thị” (ba ngày không gặp, phải nhìn bằng con mắt khác). Trong vòng thăng giáng, mỗi thời mỗi khác. Trong kinh vốn có câu: “Y pháp, bất y nhân”, đấy là tiêu chuẩn tốt nhất. Đại pháp sư nếu lìa kinh, phản đạo, hãy nên “kính nhi viễn chi”. Tiểu sa-di một lời khế lý, cũng nên đảnh lễ tin nhận.
* Hỏi: Phật có ba thân, Pháp Thân trọn khắp hư không, mà trong mười phương ba đời, số lại nhiều ngần ấy, chúng sanh Sa Bà cũng đông, Phật đã là đại từ đại bi, cớ sao tự tại hưởng thụ trong hư không, chẳng nghĩ chúng sanh đang khổ sở? Giả sử mỗi vị Phật độ được mười người, còn lo gì chúng sanh Sa Bà ai nấy đều chẳng thành Phật ư? Chuyện này rất khó hiểu! (Song Mộc hỏi)
Đáp: Phật độ chúng sanh, chẳng phải chỉ là thuyết pháp, thuyết pháp dùng ngữ ngôn văn tự chỉ là một loại [trong vô vàn cách độ sanh mà thôi]. Các trần khác như thanh, sắc v.v... có thứ nào chẳng thuyết pháp. Như hoa rơi, lá rụng, sắc núi, tiếng nước, nhân sự lưu chuyển, mặt trời, mặt trăng vận hành, đều là diệu đế (chân lý mầu nhiệm) được diễn giảng bởi hư không Pháp Thân. Tiếc là chúng sanh phần nhiều chẳng chú ý, tuy đức Thích Ca ứng hóa lưu lại kinh giáo, há chẳng đồ sộ ư, nhưng có mấy ai chịu nghe? Đấy là Phật thuyết pháp chẳng gián đoạn, nhưng chúng sanh chẳng tiếp nhận, sao lại ngược ngạo trách Phật?
* Hỏi: Tôn giả Đại Mục Kiền Liên từng hiển lộ thần thông, nhưng Phật chưa hề quở trách. Vì sao tôn giả Tân Đầu Lô hiển thị thần thông, Phật liền quở trách? (Hứa Viêm Đôn hỏi)
Đáp: Do tôn giả Tân Đầu Lô hướng về lũ phàm phu khoe khoang chuyện kỳ dị, mà hiển lộ, khiến cõi đời kinh hãi. Tôn giả Mục Liên vì cứu dòng họ Thích, âm thầm vận dụng, phát xuất từ lòng từ bi. Tình hình đôi bên khác nhau!
* Hỏi: Học Phật há chẳng phải là tu đến công phu nhất định liền có thể chứng Vô Sanh, nhập Niết Bàn, vì sao Phật quở trách tôn giả Tân Đầu Lô chẳng cho phép nhập Niết Bàn, nên Ngài chẳng thể chứng quả, là do lý do nào? (Hứa Viêm Đôn hỏi)
Đáp: Từ ngữ Niết Bàn được dịch bằng rất nhiều danh từ, có khi dịch là Tịch Diệt. Tịch nghĩa là lìa phiền não, Diệt nghĩa là dứt sanh tử. Chứng là trọn hết cái nhân, Nhập là quả trọn vẹn. Tôn giả tuy đã chứng Vô Sanh, nhưng chỉ là nhân tận (trọn hết sự tu nhân), thân vẫn còn các thứ khổ hữu lậu khác. [Nói Phật] chẳng cho [tôn giả] nhập diệt tức là [tôn giả Tân Đầu Lô] chưa thể viên mãn quả Vô Dư.
* Hỏi: Theo tập tục, tháng Bảy Âm lịch cúng tế tổ tiên, hoặc niệm kinh, tụng chú để cầu siêu độ. Chiếu theo nhà Phật để luận, tổ tiên mất đã lâu, không chừng đã sanh làm người hay trời, hoặc thành súc sanh, há chẳng phải là uổng phí tâm thần ư? (Hứa Viêm Đôn hỏi)
Đáp: Theo kinh Vu Lan Bồn, ngày Rằm tháng Bảy là ngày Phật hoan hỷ, tức là ngày Tăng Tự Tứ. Ngày hôm ấy cúng dường Tam Bảo có thể siêu độ cha mẹ bảy đời. Thế tục lấy tháng Bảy để cúng tế tổ tiên là sai lầm. Nếu tổ tiên đọa quỷ đạo, sẽ có thể đến hưởng. Nếu ở trong ba đường trời, người, súc sanh, cúng tế vô ích. Nếu niệm kinh, tụng chú đúng pháp, xuất phát từ lòng chí thành, ắt sẽ cảm ứng, sẽ từ bậc hạ mà vượt lên bậc thượng, chẳng giống như sắp dọn cỗ bàn cúng bái [tổ tiên] suông!
* Hỏi: Con người trong thế gian, bất luận là người thông minh như thế nào, làm việc từ đầu đến cuối đều thuộc cảnh mộng. Nếu lúc con người hôn trầm, rơi vào giấc ngủ, chẳng phải là nằm mộng trong mộng ư? (Trí Lương hỏi)
Đáp: Cũng có thể nói như vậy.
Hỏi: Khi con người sắp mất, tâm thần tối tăm, ngừng thở, thần thức chẳng biết về đâu, ở trong một bầu u ám, theo gió dật dờ, bỗng nhìn thấy xa xa có ánh sáng liền hướng đến đó; do vậy, trầm luân trong lục đạo, chẳng có lúc hết khổ (xem phần Sức Chung (giúp đỡ lúc lâm chung) trong sách Kính Trung Kính). Vì sao tiến đến chỗ có ánh sáng bèn đọa, vì sao lục đạo có ánh sáng? Nếu đúng là như vậy thì Phật quang và ánh sáng lục đạo khác nhau như thế nào? (Trí Lương hỏi)
Đáp: Một tia sáng trong bóng tối là do nghiệp [đã tạo khiến cho người vừa mất] đáng phải sanh vào chỗ nào bèn cảm vời [chỗ ấy] phát ra [tia sáng đó]. Nếu là Phật quang, sẽ trọn khắp các nơi chốn, trọn chẳng có hắc ám.
* Hỏi: Trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Phổ Môn Phẩm có nói “chư ác quỷ thượng bất năng dĩ ác nhãn thị chi” (các ác quỷ còn chẳng thể dùng mắt để ngó), các ác quỷ ấy thuộc về đường nào trong lục đạo? (Lục Thiên Dưỡng hỏi)
Đáp: Thuộc quỷ đạo.
* Hỏi: Trong kinh Kim Cang có nói: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai” (Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy hành tà đạo, chẳng thể thấy Như Lai). Trình bày đại lược phạm vi của tà đạo thì có tự viện nuôi mèo, nuôi lợn, há chẳng phải là phạm sát giới ư? Trong tự viện lại để thơ giải quẻ xăm, ống xăm, lại đặt lư hương thờ Thiên Công (Thiên Đế, Ngọc Hoàng), Môn Thần[44] v.v... há chẳng phải là ngoại đạo ư? Chẳng do Phật giáo mà cứ hành, há chẳng phải là hành tà đạo ư? Nếu là như vậy, tôi kính mong quý báo hãy xúc tiến cải thiện. (Lục Thiên Dưỡng hỏi)
Đáp: Tự viện nuôi mèo, nuôi lợn, đặt thơ giải xăm, cùng đặt lư hương thờ Thiên Công, Môn Thần v.v... đều do họ chẳng thấu hiểu Phật pháp mà nên nỗi. Tạp chí này đối với các thứ sai lầm của Phật giáo đồ đã nhiều lần lớn tiếng kêu gào, khuyến thiện tuy do người khác, nhưng tiến lên vẫn phải cậy vào chính mình. Còn như kinh Kim Cang nói “thị nhân hành tà đạo”, thật ra chẳng phải là nói về những điều ấy, bởi lẽ trong tâm bọn họ (những kẻ nuôi mèo, lợn, giải xăm, thờ táp nham thần thánh v.v...) chẳng có một tí ti đạo nào, há có thể luận định tà hay chánh ư? Đoạn kinh văn ấy nhằm nói với những người tu hành chấp trước sắc tướng, chẳng xét đến tự tâm; ý nói: Người ấy tuy biết cầu đạo, nhưng tiếc rằng chẳng noi theo đường chánh. Bài kệ ấy tuy mang lời lẽ quở trách, vẫn chưa đủ để quở trách những kẻ mê man nuôi dưỡng gia súc, bày trò xin xăm.
* Hỏi: Hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, cớ sao hết thảy các pháp hữu vi, hết thảy chúng sanh nhiều hơn thời cổ? (Huệ Tánh hỏi)
Đáp: Nhiều hay ít thì phải gộp chung lục đạo và vô lượng thế giới lại để nhìn, nơi này nhiều, có thể nơi kia ít, như sóng biển, chợt cuốn về Đông, lại xô về Tây. Tuy chợt Đông, chợt Tây, nước biển quả thật chẳng tăng hay giảm. Điều này có thể tham khảo phần trả lời câu hỏi của Trương Kiếm Phân trong sách này.
* Hỏi: Phàm nhân bất luận chuyện gì đều xin xăm tại chùa miếu để xin giải quyết. Nếu tin Phật cầu sanh về Tây Phương, mà tự tâm chẳng định thì cầu giải quyết như thế nào? (Huệ Tánh hỏi).
Đáp: Nếu có thể tín tâm kiên cố, hãy nên y giáo phụng hành, cần gì cứ phải cầu giải quyết nữa?
* Hỏi: Nhiều người hỏi: Quan Công được thờ tại Văn Hành Thánh Đế[45] Miếu Từ chính là hộ pháp già lam chủ trong Phật giáo, có thể lạy hay không? Xin hãy chỉ dạy! (Huệ Tánh hỏi)
Đáp: Đã là hộ pháp của Phật giáo, đương nhiên phải lạy! Nhưng liên quan đến chuyện này, những tín đồ Phật giáo hiểu lầm khá nhiều, ở đây, xin giải thích: Cần phải biết kính lễ và quy y, căn bản là khác nhau. Quy y là tín phụng giáo pháp, một mực nương cậy, trọn hết đời làm đệ tử, chẳng sùng phụng giáo pháp nào khác! Kính lễ là chỉ lễ phép đối với đối phương. Điều này chẳng giới hạn trong vòng trời, người, thần, quỷ, mà đối với lục đạo chúng sanh đều phải cung kính đối với họ. Có Thường Bất Khinh Bồ Tát là như vậy đó. Nhưng đối với người ta đã quy y, hãy nên thường đến thân cận, cung phụng, còn đối với chư thiên, thần, quỷ v.v... lúc gặp nhau bèn lễ phép, không cần phải gần gũi, bợ đỡ họ.
Phật Học Hỏi Đáp Loại Biên Phần 5 hết
_________________________
[1] Thiều Nhạc (韶樂) còn gọi là Thuấn Nhạc là một loại cổ nhạc, tương truyền đã có lịch sử năm ngàn năm. Theo Lã Thị Xuân Thu, vua Thuấn sai một viên quan tên là Chất tu chỉnh các loại nhạc Cửu Thiều, Đại Liệt, Lục Anh nhằm tỏ rõ đức của nhà vua. Sau đấy, ba triều đại Hạ, Thương, Châu đều dùng nhạc Thiều làm nhạc tấu trong các dịp điển lễ của quốc gia. Khi Châu Vũ Vương diệt Trụ, đã phong cho Khương Tử Nha (Khương Thượng) đất Doanh Khâu, lập ra nước Tề, nhạc Thiều bèn được truyền vào đất Tề. Nhạc Thiều tại đất Tề đã hấp thụ trào lưu nhạc tại địa phương, đạt tới một mức độ cao hơn, chuyển biến thành một thể loại đẹp đẽ, tinh vi nhất thời ấy. Năm hai mươi lăm đời Lỗ Chiêu Công (517 trước Công Nguyên), Khổng Tử đến đất Tề, nghe nhạc Thiều tại nhà Cao Chiêu Tử đã tán thưởng: “Bất đồ vi nhạc chí vu tư! Học chi, tam nguyệt bất tri nhục vị” (Nào ngờ nhạc đạt đến mức độ ấy, học nhạc, ba tháng chẳng biết đến mùi thịt).
[2] Kể từ mồng Một tháng Giêng năm 1912, chánh quyền Trung Hoa Dân Quốc ban hành đạo luật sử dụng dương lịch (Gregorian Calendar) trong toàn quốc, gọi dương lịch là Quốc Lịch, còn âm lịch truyền thống gọi là Nông Lịch.
[3] Theo kinh Bảo Tích, Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký hội, Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sẽ thành Phật hiệu là Phổ Kiến Như Lai. Theo đó, sau khi nghe ngài Văn Thù Sư Lợi phát nguyện xong, do Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát khải thỉnh, đức Phật bèn giảng: “Khi thành Phật, Văn Thù Sư Lợi sẽ có hiệu là Phổ Kiến, vì sao có hiệu là Phổ Kiến? Do đức Như Lai ấy hiện khắp trong vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha các cõi Phật trong mười phương. Nếu các chúng sanh trông thấy đức Phật ấy, nhất định sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tuy Phổ Kiến Như Lai chưa thành Phật, nhưng trong hiện tại và sau khi ta diệt độ, có ai nghe danh Phổ Kiến Như Lai cũng đều nhất định đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chỉ trừ kẻ đã nhập địa vị Ly Sanh và kẻ tâm hẹp hòi, hèn kém”. Thật ra, đây cũng là thị hiện vì ngài Văn Thù Sư Lợi đã thành Phật từ lâu xa trong quá khứ với danh hiệu khác.
[4] Khóa học mở được nửa chừng, bèn xin dự vào lớp học ấy.
[5] Chú âm: Ghi âm đọc bằng các Chú Âm Phù Hiệu (hay còn gọi Bopomofo theo âm đọc của bốn chữ đầu trong bảng phù hiệu này), một hệ thống ký hiệu gần giống như một bảng chữ cái để ghi âm đọc chữ Hán theo âm Quan Thoại. Hệ thống ký hiệu này do học giả Chương Thái Viêm sáng chế (với danh xưng Chú Âm Tự Mẫu) dựa theo những nét viết chính của chữ Hán. Sau đó, Chú Âm Phù Hiệu được tu chỉnh bởi ủy ban Độc Âm Thống Nhất Hội của bộ giáo dục Trung Hóa Dân Quốc dưới sự lãnh đạo của Ngô Kính Hằng, và chính thức áp dụng trên toàn quốc từ năm 1918, gồm 37 ký hiệu và bốn dấu giọng. Hiện thời, cách này hầu như không còn sử dụng tại Hoa Lục, đa số dùng hệ thống phiên âm Pinyin tiện lợi hơn. Chú Âm Phù Hiệu cũng còn được dùng để ghi ngôn ngữ của một số sắc dân thiểu số tại Đài Loan như Atayal, Seedig, Paiwan, Tao v.v... .
[6] Thập Lục Quốc là một giai đoạn lịch sử từ năm 304 đến 439 khi nhà Đông Tấn suy yếu, các sắc dân không phải Hán tộc thừa dịp từ biên ải vào chiếm Trung Nguyên xưng đế. Vì phần lớn những triều đại này do năm sắc dân thiểu số chính sáng lập nên sử Trung Quốc thường gọi là Ngũ Hồ Loạn Hoa. Mười sáu nước là Tiền Triệu (do Lưu Uyên người Hung Nô sáng lập, thoạt đầu xưng là Hán), Thành Hán (do Lý Hùng, người Đê sáng lập), Tiền Lương (do Trương Thật người Hán sáng lập), Hậu Triệu (do Thạch Lặc người Yết sáng lập), Tiền Yên (do Mộ Dung Hoảng người Tiên Ty sáng lập), Tiền Tần (do Phù Kiến người Đê sáng lập), Hậu Yên (do Mộ Dung Thùy, người Tiên Ty sáng lập), Hậu Tần (do Diêu Trành người Khương sáng lập), Tây Tần (do Khất Phục Quốc Nhân người Tiên Ty sáng lập), Hậu Lương (do Lữ Quang người Đê sáng lập), Nam Lương (do Thốc Phát Ô Cô người Tiên Ty sáng lập), Nam Yên (do Mộ Dung Đức người Tiên Ty sáng lập), Tây Lương (do Lý Cảo người Hán sáng lập), Bắc Lương (do Đoàn Nghiệp người Hung Nô sáng lập), Hồ Hạ (do Hách Liên Bột Bột người Hung Nô sáng lập), Bắc Yên (do Mộ Dung Vân người Tiên Ty sáng lập). Ngài Cưu Ma La Thập (344-413) và ngài Huyền Trang (596-664) chênh nhau khoảng 250 năm.
[7] “Chưng thường” có nghĩa gốc là cúng tế Xuân Thu nhị kỳ, hiểu theo nghĩa rộng là cúng bái, giỗ quải. Nói “chưng thường” là dựa theo ý nghĩa tụ họp lại nấu nướng đồ ăn (chưng) xong, bày lên cúng rồi ăn uống với nhau (thường).
[8] Đây là một từ ngữ phát xuất từ một câu nói của Khổng Tử trong thiên Học Nhi sách Luận Ngữ: “Thận chung, truy viễn, dân đức quy hậu hĩ”, có nghĩa là cha mẹ đã mất, bèn chôn cất cẩn thận, kiền thành cúng tế để tưởng niệm ân đức tổ tiên thì đức hạnh của dân chúng sẽ được bồi đắp sâu dầy.
[9] Huyết thực: Là từ ngữ chỉ sự cúng tế bằng đồ mặn. Do cổ lệ thường cúng tế tổ tiên, thần thánh bằng tam sanh (ba con vật, thường là dê, bò, heo) mổ xong, cạo lông, để nguyên con trên bàn thờ nên gọi là “huyết thực”.
[10] Vi Đà (Skanda) là hộ pháp Bồ Tát, hóa thân làm một thần tướng của Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương, cầm đầu ba mươi hai vị thần tướng, Ngài còn được gọi là Vi Đà Thiên. Có thuyết nói trong tương lai Ngài sẽ thành Phật, tức là Lâu Chí Phật, vị Phật cuối cùng trong Hiền Kiếp.
[11] Hoàng Kỳ (astragali raxi, milky vetch) là một loài thực vật thuộc họ Đậu. Do thường mọc hoang tại Hoa Bắc, Nội Mông Cổ, nên còn gọi là Bắc Kỳ. Theo Đông Y, bộ phận dùng để làm thuốc là củ, có vị ngọt, tánh hơi ấm, thường dùng để chủ trị các chứng bệnh hư về tỳ và phế.
[12] Hồng Phàn có công thức hóa học là K2Cr2O7 (potassium dichormate) là một chất hóa học đỏ rực, hơi có màu cam, có tính oxide hóa rất mạnh, thường dùng để thuộc da, tráng phim, và nhiều ứng dụng khác, nó là chất độc, có thể gây chết người.
[13] Bạch Tỳ là arsenic trioxide (As2O3), có màu trắng không mùi, cực độc, chỉ cần nuốt phải một lượng rất nhỏ chừng 0,06 gram đã gây chết người.
[14] Độc thạch chính là tên gọi một số các chất chứa arsenic (thạch tín) dưới dạng khoáng.
[15] Cờ vây (dịch kỳ, vi kỳ) là một loại cờ truyền thống của người Hoa, được ưa chuộng hơn cờ tướng (Tượng Kỳ) rất nhiều. Quân cờ gồm hai màu đen và trắng, không khắc chữ. Bàn cờ được chia thành 19 đường dọc và ngang tạo thành. Người chơi cờ sử dụng các quân cờ để bao vây đối thủ. Loại cờ này cũng được phổ biến tại Đại Hàn (với tên gọi baduk) và Nhật Bản (với tên gọi Igo).
[16] Hà Thượng Chi (382-460), tự Ngạn Đức, làm Thượng Thư Lệnh của Tống Văn Đế thời Nam Triều.
[17] Nguyên văn “biên hộ” (編戶) có nghĩa là đăng ký tên trong hộ tịch thường trú của một địa phương. Do khi nào đời sống ổn định, chẳng loạn lạc, dân chúng không phiêu bạt, sẽ xin nhập tịch, làng xã. Do vậy, “an cư” còn gọi là “biên hộ”.
[18] Điển cố đến một câu nói của Khổng Tử trong sách Lễ Ký: “Quân tử viễn bào trù, phàm hữu huyết khí, phất thân tiễn dã” (quân tử xa lánh bếp núc, phàm những loài có máu, chẳng đích thân động tới). Trong sách Mạnh Tử, thiên Lương Huệ Vương, Mạnh Tử đã giảng: “Kiến kỳ sanh, bất nhẫn kiến kỳ tử, văn kỳ thanh, bất nhẫn thực kỳ nhục, thị dĩ quân tử viễn bào trù dã” (Thấy nó sống chẳng nỡ nhìn nó chết, nghe tiếng nó kêu, chẳng nỡ ăn thịt nó, do vậy, quân tử lánh xa bếp núc). Các nhà chú giải cho rằng hễ bước vào bếp chẳng tránh đến chuyện phải động dao thớt, sát hại chúng sanh, khiến cho quân tử mất lòng nhân từ, nên phải tránh xa chuyện bếp núc.
[19] Quyết là một loài rau dại thuộc loài Dương Xỉ, thường được biết đến dưới tên gọi là Common Brake hoặc Pteris Aquilina tại Hoa Kỳ, mọc nơi tối tăm, ẩm thấp. Đôi khi có những cây mọc cao đến hai ba feet là thường. Bộ phận ăn được là lá non (thường gọi là Quyết Thái), củ non của Quyết có thể ủ làm bia hay ăn như một thứ rau sống. Lá già thường được cắt nhỏ để dồn nệm. Người Hoa cho rằng rau Quyết thơm ngon, tôn xưng là Sơn Trân Chi Vương.
[20] Tả là Tả Truyện tức Tả Thị Xuân Thu, là bộ sử đầu tiên của Trung Hoa, do Tả Khâu Minh biên soạn, chép về lịch sử nước Lỗ từ đầu thời Lỗ Ẩn Công đến năm hai mươi bảy đời Lỗ Ai Công, là một tác phẩm quý để nghiên cứu về lịch sử thời Tiên Tần (trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa).
Quốc chính là Quốc Ngữ còn gọi là Xuân Thư Ngoại Truyện, chép về lịch sử, nhân vật, sự tích của các nhân vật tại các nước Châu, Lỗ, Tề, Tấn, Trịnh, Sở, Ngô, Việt. Tương truyền bộ Sử này do một vị quan mù của nước Lỗ, chuyên môn kể và giảng lịch sử các nước thời ấy, rất được Khổng Tử tán thưởng. Hậu nhân gom góp những lời này biên tập thành sách nên gọi là Ngữ, hoặc Quốc Ngữ.
Ban là Ban Cố, Mã là Tư Mã Thiên, hai đại sử gia lừng danh. Ban Cố (32-92), tự Mạnh Kiên, người xứ An Lăng (nay là Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây), sống vào thời Đông Hán. Mới lên chín tuổi đã nức tiếng văn chương, mười sáu tuổi vào trường Thái Học tại kinh đô, đọc rộng, hiểu nhiều. Tác phẩm để đời của ông là bộ Hán Thư. Trong quá trình biên soạn, do bị vu cáo là lén sửa chữa quốc sử, nên bị hạ ngục, may nhờ em trai là Ban Siêu thân oan mới được thả. Em gái của Ban Cố là Ban Chiêu cũng là một nữ học giả, từng được triệu vào cung dạy cung nữ học, người đời gọi bà là Tào Đại Cô. Khi Ban Cố chưa soạn xong Hán Thư nhưng vì dính líu đến vụ án Đậu Hiến phải tự sát, Hán Hòa Đế đã sai bà tiếp tục hoàn thành tác phẩm ấy.
[21] Trứu, Tư, Chung, Vương: Sử Trứu là Thái Sử Quan thời Châu Tuyên Vương, không rõ họ là Sử hay vì làm quan mà gọi là Sử, Trứu là tên. Hậu thế biết đến ông do Tư Mã Thiên đã ca ngợi ông là người giỏi viết chữ, đã chép hơn hai trăm bài văn theo lối chữ Đại Triện. Lý Tư (280-208) trước Công Nguyên là người xứ Thượng Sái, nước Sở, là một nhà chính trị gia theo chủ trương Pháp Trị. Thoạt đầu chỉ là thực khách của Tướng Quốc nước Tần là Lã Bất Vi. Do phân tích thế cục được Tần Vương Doanh Chính (Tần Thủy Hoàng sau này) tán thưởng, dâng kế sách liên hoành nên được phong làm quan Trưởng Sử rồi dần dần ngoi lên địa vị Khách Khanh. Sau khi thống nhất Trung Nguyên, ông được phong làm Thừa Tướng, đã khuyên Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò, thống nhất chữ viết Trung Hoa. Ông được coi là người sáng chế lối chữ Tiểu Triện.
Chung là Chung Diêu (151-230), tự Nguyên Thường, một nhà thư pháp nổi tiếng thời Ngụy, nổi tiếng về tài viết chữ Lệ và Khải.
Vương Hy Chi (303-361), tự Dật Thiếu, hiệu Đạm Trai, là một nhà thư pháp nổi tiếng đời Đông Tấn, có mỹ hiệu là Thư Thánh. Ông cũng tổng hợp những nguyên lý về thư pháp viết thành các bộ sách Bút Thế Luận và Dụng Bút Tặc. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Lan Đình Tập Tự, được ca ngợi là đệ nhất thiên hạ về lối chữ Hành.
[22] Tam Giáo Bình Tâm Luận do Lưu Mật soạn vào đời Nguyên, gồm hai quyển, mang ý nghĩa so sánh sự rộng hẹp trong giáo nghĩa, giáo thuyết, nhằm cực lực nêu bày những ưu điểm của mỗi giáo, đồng thời đả phá những quan điểm báng Phật hẹp hòi của Hàn Dũ, Phó Dịch và bọn Tống Nho như Trình Minh Đạo, Châu Hối Am, Trương Hoành Cừ v.v...
Hộ Pháp Luận do cư sĩ Vô Tận tức tể tướng Trương Thương Anh biên soạn nhằm nêu lên những luận chứng đả phá cách nhìn thiển cận về Phật giáo của Âu Dương Tu, chỉ rõ Âu Dương Tu chẳng hiểu gì về Phật giáo, chỉ máy móc nhắc lại những lập luận của Tống Nho để bài Phật.
[23] Trưng Tại chính là Nhan Trưng Tại (568-535 trước Công Nguyên) là mẹ đẻ của Khổng Tử, vợ lẽ của Khổng Ngột (do Khổng Ngột có tên tự là Thúc Lương nên thường gọi thành Thúc Lương Ngột). Khổng Ngột trước đó đã lấy bà Thí Thị chỉ đẻ được chín người con gái. Cưới thiếp, sanh được một trai tên là Bá Ni, chân lại có tật. Lại lấy bà Nhan Trưng Tại, sanh ra Khổng Tử, lúc ấy, Thúc Lương Ngột đã 72 tuổi.
[24] Đây là một câu chuyện được chép trong Tả Truyện: Thời Tống Cảnh Công, sao Huỳnh Hoặc (Hỏa Tinh) đi vào khu vực của sao Tâm, vua sợ hãi, triệu quan Thái Sử là Tử Vệ vào hỏi. Tử Vệ nói: “Sao Huỳnh Hoặc là điềm trời phạt, sao Tâm ứng với địa phận nước Tống. Nhà vua sẽ bị họa, nhưng có thể [dùng các cách cầu đảo] chuyển mối họa ấy sang Tể Tướng”. Tống Cảnh Công nói: “Tể Tướng là người giữ giềng mối đất nước, nếu bị chết, sẽ chẳng phải là điều tốt lành”. Tử Vệ nói: “Cũng có thể chuyển mối họa ấy sang dân”, Tề Cảnh Công đáp: “Dân chết thì ta còn cai trị ai? Thà để ta chết một mình”. Tử Vệ nói: “Cũng có thể biến thành mất mùa”. Cảnh Công nói: “Dân đói, ắt chết! Làm vua mà muốn giết dân để chính mình được sống thì còn ai coi ta là vua nữa. Như vậy là mạng của ta đã tận rồi, ông chẳng cần phải nói nữa”. Tử Vệ quay lại lạy vua, thưa: “Thần dám chúc mừng bệ hạ, trời cao nhưng nghe rất rõ. Vua đã thốt ba câu tốt lành, ắt trời sẽ thưởng ba lượt”. Đêm ấy, sao Huỳnh Hoặc lùi khỏi sao Tâm ba tinh tòa, vua sống thêm hai mươi mốt năm. Tống Cảnh Công tên thật là Tử Loan, con trai Tống Nguyên Công (Tử Tá, còn có tên là Đầu Mạn), làm vua từ năm 516 đến năm 469 trước Công Nguyên. Nước Tống thuộc huyện Thương Khâu, tỉnh Hà Nam hiện thời. Khi Vũ Vương diệt Trụ Vương, đã phong cho Vũ Canh (con trai Trụ Vương) đất Ân để thờ phụng tổ tiên nhà Thương. Sau khi Vũ Vương chết, Vũ Canh đã liên kết với quý tộc nhà Châu toan lật đổ Châu Công, bị Châu Công đánh bại, giết chết. Châu Thành Vương bèn phong cho Vi Tử Khải (anh của Trụ Vương) đất Thương Khâu, lấy quốc hiệu là Tống. Nước Tống truyền được 35 đời. Đến đời Tống Khang Vương, tự xưng vương, đi đánh các nước chung quanh, đến năm 286 trước Công Nguyên, Tề Mẫn Vương đem binh phạt Tống, tiêu diệt nước này.
[25] Ngũ Thú Tạp Cư: Do trong Dục Giới có sáu đường (trời, người, quỷ, súc sanh, địa ngục và A Tu La), nên gọi là Tạp Cư. Ở đây nói là Ngũ Thú (năm đường) tức là tính gộp A Tu La vào năm đường kia.
[26] Nguyên văn “tương phiếu” (緗縹), Tương là màu vàng nhạt, Phiếu là màu lam nhạt. Thời cổ có thói quen dùng các loại vải hay lụa có hai màu này để bọc bìa sách, nên chữ “tương phiếu” thường dùng để chỉ sách vở nói chung. Kinh Phật thường được gọi là “hoàng quyển” vì giấy chép kinh thường có màu vàng do nhuộm chất hoàng liên hay nhuộm nghệ để tránh mối mọt.
[27] Lưu Ly Hà là một tiểu trấn thuộc Bắc Kinh, thuộc về khu Phòng Sơn, nơi đây nổi tiếng với di tích Lưu Ly Hà từ thời Tây Châu. Đây là một khu mộ táng, cổ thành, là một địa điểm khảo cổ được coi là di sản quốc gia của Trung Quốc.
[28] Nguyên văn “tiêu lộc chi sự”. Đây là một điển tích trích từ sách Liệt Tử. Theo đó, nước Trịnh có người đi đẵn củi trong nơi đồng trống, gặp một con nai lạc lối, bèn đuổi theo, giết chết, sợ người khác trông thấy bèn đào hố giấu xuống, phủ lá chuối lên trên, vui sướng khôn cùng. Trong phút chốc, bỗng quên khuấy mình đã giấu ở đâu, bèn cho là mình nằm mộng. Do vậy, chữ “tiêu lộc” thường dùng để chỉ mộng huyễn. Ở đây, cụ Lý Bỉnh Nam bảo chuyện trong giấc mộng của ông Lý Thánh Quỳnh chỉ là mộng huyễn ngẫu nhiên trùng hợp, chẳng có căn cứ, hay ý nghĩa gì mà cứ phải lẩn thẩn hỏi đi hỏi lại mãi!
[29] Châu Sơn là một quần đảo ở ngoài khơi tỉnh Chiết Giang có đến 1.390 hòn đảo lớn nhỏ, trong ấy Châu Sơn Đảo lớn nhất. Các hòn đảo chính là Định Hải, Đại Sơn, Châu Gia Tiêm, Lục Hoành, Kim Đường v.v... Quần đảo này được chia làm nhiều huyện, trong đó Phổ Đà Sơn chiếm riêng một khu gọi Phổ Đà Danh Thắng Khu.
[30] Phạm Lãi tự là Thiếu Bá, vốn là người nước Sở, nhà nghèo hèn, nhưng cực thông minh, học rộng, về sau, sang nước Việt phù tá Câu Tiễn. Khi Phù Sai nước Ngô đánh bại Câu Tiễn. Câu Tiễn phải sang làm tù binh nước Ngô, Phạm Lãi đi theo, hiến kế, khuyên Câu Tiễn chịu khổ nhục để chiếm lòng tin của Phù Sai để được thả về nước, cùng với Văn Chủng thực hiện những sách lược khiến nước Việt cường thịnh. Lại lập kế dâng Tây Thi và Trịnh Đán cho Phù Sai khiến Phù Sai ham mê tửu sắc, xao nhãng chính sự, khiến Việt diệt Ngô thành công. Sau khi thành công bèn từ quan, mang theo Tây Thi dong buồm sang Tề, đổi tên là Chi Di Tử Bì, được vua Tề thỉnh làm Tướng Quốc. Gượng làm Tướng Quốc ba năm, treo ấn từ quan, phân tán hết tài sản, dời sang đất Đào (nay thuộc huyện Định Đào tỉnh Sơn Tây) đổi tên là Đào Châu Công, kinh doanh giàu to, khiến dân chúng cả vùng cũng nhờ đó được no ấm, nên mọi người tôn quý gọi ông là Tài Thần, và được coi là ông tổ của thương nhân Trung Hoa. Theo sử sách, ông là một chính trị gia, tư tưởng gia mẫn tiệp, biên soạn rất nhiều, nhưng đã thất lạc. Có những tác phẩm như Đào Châu Công Sanh Ý Kinh là do hậu nhân dựa theo những tư tưởng và nguyên tắc kinh doanh của ông mà soạn thành. [31] Tử Cống (520-446 trước Công Nguyên) tên thật là Đoan Mộc Tứ, người nước Vệ, tên tự là Tử Cống, là môn sinh đắc ý của Khổng Tử, được xếp vào hàng Thập Triết, giỏi biện luận, giỏi kinh doanh, giải quyết công việc nhanh chóng, hiệu quả. Tử Cống từng làm tướng cho hai nước Lỗ và Vệ, thường qua lại buôn bán giữa Lỗ và Tào, tài sản có đến cả ngàn lạng vàng. Khi Khổng Tử mất, ông chưa về kịp, về đến nơi, bèn bỏ mọi việc, thủ tang bên mộ thầy suốt sáu năm. Sau này, khen ngợi những ai có tài kinh doanh, người Hán hay dùng từ ngữ Đoan Mộc Di Phong, ý nói đã kế tục được tài nghệ của Tử Cống. Tại Hoa Lục, có nơi còn coi thần Tài chính là Tử Cống.
[32] Pháp Chủ Công (còn gọi là Thánh Quân Gia) là tên gọi tắt của một vị thần trong Đạo giáo thường được tôn sùng tại Phước Kiến, Tuyền Châu, Đài Loan v.v... có danh hiệu đầy đủ là Đô Thiên Đãng Ma Giám Lôi Ngự Sử Trương Thánh Pháp Chủ Chân Quân. Vị này vốn là một đạo sĩ có tên là Trương Từ Quán, người huyện Vĩnh Xuân, tỉnh Phước Kiến, theo truyền thuyết có thần thông, có thể hàng phục yêu ma. Phái Lư Sơn của đạo sĩ coi vị này là vị tướng thống lãnh Đông Doanh trong hộ pháp thần ngũ doanh thần tướng.
[33] Nhạc Đế là gọi tắt của Đông Nhạc Đại Đế (còn gọi là Thái Sơn Phủ Quân), tức thần núi Thái Sơn, tức vị thần chưởng quản cõi âm trong Đạo giáo.
[34] Ma Tổ tức Thiên Hậu Nguyên Quân, tức bà Lâm Mặc Nương, người đảo Mỵ Châu, tỉnh Phước Kiến. Theo truyền thuyết, bà có đạo thuật linh thông, từng trong giấc mộng cứu cha và anh đang bị nạn trên biển. Do bị mẹ đánh thức bất ngờ trong lúc bà thi triển pháp thuật nên chỉ cứu được cha. Bà được phong thần vào thời Minh, trở thành vị thần chuyên bảo hộ hàng hải và ngư dân. Thoạt đầu chỉ gọi là Thiên Phi, danh xưng Thiên Hậu bắt nguồn từ thánh hiệu Hộ Quốc Tỳ Dân Diệu Linh Chiêu Ứng Nhân Từ Thiên Hậu do triều đình sắc phong vào năm Khang Hy 23 (1684). Các chỗ thờ cúng thường được gọi là “chùa Bà” tại Việt Nam chính là miếu thờ Thiên Hậu.
[35] Bảo Sanh Đại Đế là tên một vị thần bảo hộ nghề y trong Đạo giáo, được tôn sùng phổ biến tại vùng Mân Nam, Đài Loan, còn gọi là Đại Đạo Công, Ngô Chân Nhân, Hoa Kiều Công. Ông vốn có tục danh là Ngô Thao (970-1036), vốn là một y sĩ, do lên núi hái thuốc, trượt chân chết, nên hiển thánh. Danh hiệu Bảo Sanh Đại Đế xuất phát từ phong hiệu Ân Chủ Hạo Thiên Kim Khuyết Ngự Sử Từ Tế Y Linh Diệu Đạo Chân Quân Vạn Thọ Vô Cực Bảo Sanh Đại Đế do triều đình sắc phong năm Hồng Hy thứ năm (1425) đời Minh Thần Tông.
[36] Ở đây, ông Ngô Bỉnh Luân đã lầm lẫn giữa chữ “thiên nhân” với “nhân thiên”. Khi nói “nhân thiên” thì có nghĩa là người và trời, còn “thiên nhân” có nghĩa là người trong cõi trời, tức chư thiên, còn gọi là “thiên tử” (nam) và “thiên nữ”.
[37] Tầm là một đơn vị đo lường thời cổ, bằng tám thước (thước Tàu), tức bằng khoảng bốn đến năm mét hiện thời. Sách Nhĩ Nhã giảng: “Bốn thước là một Nhận, hai Nhận là một Tầm”.
[38] Tánh Danh Học là một thuật bói toán dựa trên cách đếm nét trong lối viết tiếng Hán của tên họ để phối hợp với bát tự của ngày, tháng, năm, giờ sanh để luận đoán tốt xấu. Đôi khi còn dựa trên bát tự để đổi tên cho mạng vận được tốt hơn. Đôi khi còn đi xa hơn bằng cách xem xét thêm thanh vận khi đọc để phán định âm dương ngũ hành của cái tên. Thuật bói toán này dựa trên lý thuyết Mai Hoa Dịch Số trong cuốn Hoàng Cực Kinh Thế Thuật của Thiệu Khang Tiết đời Tống.
[39] Long Môn Thạch Quật là một quần thể kiến trúc Phật giáo nổi tiếng có đến hơn 2.100 hang động, cách Lạc Dương 12 km về phía Nam. Các hang động được khắc lõm vào đá, rải khắp hai quả núi Long Môn và Hương Sơn nằm hai bên sông Y Thủy. Tính ra có đến hơn mười vạn bức tượng, 3.600 tấm bia. Chữ khắc trên bia được gọi là tuyệt phẩm của thư pháp theo lối chữ Khải thời Ngụy. Long Môn Thạch Quật được tiến hành điêu khắc vào thời Thái Hòa (477-499) của Ngụy Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy. Công trình này kéo dài mãi đến đời Minh mới chấm dứt, nhưng các tượng Phật lớn nhất đều được khắc vào thời Ngụy và Đường. Long Môn Thạch Quật bị phá hoại nghiêm trọng nhất vào thời Đường Vũ Tông diệt Phật và thời đầu Dân Quốc khi các tướng lãnh quân phiệt nổi lên cát cứ.
[40] Nam Bắc Triều là giai đoạn Trung Hoa bị chia nhỏ thành nhiều nước, đánh nhau loạn xạ kể từ năm 420 đến năm 589, nối tiếp giai đoạn Thập Lục Quốc và trước khi nhà Tùy thống nhất Trung Nguyên. Bắc Triều gồm các nhà Bắc Ngụy (Thác Bạt Khuê sáng lập), Đông Ngụy (Nguyên Thiện Kiến sáng lập), Tây Ngụy (Nguyên Bảo Cự sáng lập), Bắc Tề (Cao Dương sáng lập), Bắc Châu (Vũ Văn Giác sáng lập). Bắc Triều kết thúc khi Dương Kiên diệt Bắc Châu vào năm 581, lập ra nhà Tùy. Nam Triều gồm các triều đại Nam Tống (do Lưu Dụ sáng lập), Nam Tề (do Tiêu Đạo Thành sáng lập), Nam Lương (do Tiêu Diễn tức Lương Võ Đế sáng lập), Trần (do Trần Bá Tiên sáng lập). Nam Triều kết thúc khi Dương Kiên diệt nhà Trần năm 589. Do Ngụy Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoằng, 467-499) là hoàng đế thứ bảy của nhà Bắc Ngụy khi dời kinh đô từ Bình Thành (nay là thành phố Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây) về Lạc Dương đã hạ lệnh kiến tạo Long Môn Thạch Quật nên cụ Lý Bỉnh Nam mới nói Long Môn được kiến tạo vào thời Nam Bắc Triều.
[41] Rập bia là dùng giấy bôi than đen, áp lên một tấm bia rồi chà mạnh cho nét chữ nổi lên thành vệt trắng. Những bản rập này thường được bán cho những người thích luyện thư pháp để họ mô phỏng theo hay nghiên cứu để sáng tạo ra lối viết mới.
[42] Thập Tự Quân (Crusader) là quân viễn chinh tuyển mộ từ quý tộc, tu sĩ của châu Âu sang viễn chinh tại Trung Đông với hy vọng giành lại quyền kiểm soát thánh địa Jerusalem, ngăn chặn sự phá hoại các thánh địa, cũng như cứu giúp những Cơ Đốc hữu bị quân Hồi ngược đãi, truy bức, do giáo hội Công giáo khởi xướng. Các chiến binh được Giáo Hoàng ban quyền miễn xá (plenary indulgence). Thập Tự Chinh kéo dài nhiều đợt từ năm 1095 đến năm 1291. Thập Tự Chinh bắt đầu bằng lời kêu gọi châu Âu giúp đỡ chống lại sự xâm lăng của người Thổ Seljuk của hoàng đế Alexios đệ nhất của đế quốc Byzantine. Đáp lời, Giáo Hoàng Urban đệ nhị (1035-1099) đã xướng suất cuộc Thập Tự Chinh lần thứ nhất trong hội nghị công đồng Clermont vào năm 1095, kêu gọi các vương tôn, công tử Cơ Đốc hãy mở cuộc thánh chiến chiếm lại vùng Đất Thánh, cũng như chiếm giữ những địa điểm quan trọng trên con đường hành hương từ Âu Châu sang đất Thánh.
[43] Tam Vũ Diệt Pháp là ba lần pháp nạn của Phật giáo Trung Hoa do ba hoàng đế cùng có chữ Vũ trong danh hiệu, tức Ngụy Thái Vũ Đế, Bắc Châu Vũ Đế và Đường Vũ Tông. Ngụy Thái Vũ Đế diệt Phật do đạo sĩ Khấu Chi Khiêm xúi giục. Cuộc diệt Phật này kéo dài sáu năm từ năm Thái Bình Chân Quân thứ năm (444) đến khi nhà vua băng. Trong có Khấu Chi Khiêm gièm báng, ngoài có quan tư đồ Thôi Hạo hùa theo dâng sớ chém giết sa-môn khắp thiên hạ, phá hủy kinh tượng nhà Phật khắp nước. Bắc Châu Vũ Đế khởi sự diệt Phật từ năm Kiến Đức thứ ba (574) đến khi vua băng vào năm 578. Do chiến tranh liên miên, vua mượn cớ cấm đạo để giảm thiểu số người xuất gia, cướp đoạt tiền của, điền sản của nhà chùa. Cuộc diệt Phật của Đường Vũ Tông (814-846) bắt đầu từ năm Hội Xương thứ hai (842) cho đến khi vua băng vào năm 846, nên sử còn gọi cuộc diệt Phật này là Hội Xương Pháp Nạn. Cuộc diệt Phật lần này do đạo sĩ Triệu Quy Chân xúi giục cũng như tể thần Lý Đức Dụ ra sức đàn áp Phật giáo. Nguyên nhân sâu xa là Đường Vũ Tông muốn dùng cớ diệt Phật để truy sát chú là Lý Thầm vì Lý Thầm ẩn náu trong các chùa chiền. Đường Vũ Tông (Lý Triền) vốn là em trai của Đường Văn Tông. Khi Đường Văn Tông chết, hoạn quan Cừu Sĩ Lương và Ngư Hoằng Chí vốn đã thao túng triều chánh từ trước, bèn phế thái tử Lý Thành Mỹ, đưa Lý Triền lên ngôi. Lý Triền sợ Lý Thầm là người có đức độ, bản thân nhà vua lại không được lòng dân, sợ hậu hoạn về sau, nên nhiều lượt mưu sát, khiến Lý Thầm phải trốn tránh trong dân gian, được các tăng sĩ che chở. Truyền thuyết nói có lúc Lý Thầm phải xuống tóc làm tăng sĩ, pháp danh Quỳnh Tuấn tại chùa Hương Nghiêm ở Chiết Giang. Do say mê thuật tu tiên, Đường Vũ Tông uống trường thọ tiên đan do Triệu Quy Chân bào chế, trúng độc, điên cuồng trong mười ngày rồi chết, chỉ thọ ba mươi hai tuổi! Triều thần tôn Lý Thầm lên ngôi, tức là Đường Tuyên Tông.
[44] Môn Thần là thần giữ cửa, thường làm tượng thờ hoặc vẽ hình trên cửa chính với mục đích thủ hộ các đạo quán, miếu mạo. Hai môn thần nổi tiếng nhất là Thần Đồ và Uất Lũy; hoặc các vị thần nổi tiếng trong Đạo giáo như Vương Thiên Quân và Mã Thiên Quân, Phương Bật và Phương Tướng, Tần Quỳnh và Uất Trì Cung (hai danh tướng của Đường Thái Tông), Triệu Vân (Triệu Tử Long) và Mã Siêu (hai danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc), Ngụy Trưng và Từ Mậu Công v.v...
[45] Văn Hành Thánh Đế là một tôn hiệu của Nho gia đối với Quan Công. Do danh hiệu này, Đạo giáo chủ trương có năm vị Văn Xương (chuyên chủ thiện phạt ác đối với khoa cử, công danh của mỗi người). Năm vị Văn Xương là Văn Xương Đế Quân, Khôi Tinh Tinh Quân, Châu Y Thần Quân, Thuần Dương Đế Quân (Lữ Động Tân), và Văn Hành Đế Quân. Quan Công cũng được coi là một trong ba vị Phục Ma, tức Phục Ma Đại Đế Quan Thánh Đế Quân, Đãng Ma Thiên Tôn Chân Vũ Đế Quân, và Khu Ma Chân Quân Chung Quỳ Đế Quân.
Trích từ: Phật Học Vấn Đáp Loại Biên