* Hỏi: Theo báo Bồ Đề Thụ kỳ thứ chín, điều thứ mười trong Châu Tử Biện Dị Lục có một câu nói về linh quỷ, chẳng biết nghĩa là gì? (Ngô Diệu Vinh hỏi)
Đáp: Trong lục đạo chúng sanh có quỷ đạo, tức là như thế tục hay nói: “Người chết thành quỷ”, có loài quỷ thông minh có thần thông, nên gọi là “linh quỷ”.
* Hỏi: Nói “phước báo thiên” là chỉ chư thiên trong Dục Giới hay là Sắc Giới Thiên? (La Đức Chương hỏi)
Đáp: Chỉ chung tam giới, do phước khác với huệ. Nếu là người có trí huệ, sẽ vượt khỏi tam giới.
* Hỏi: Niệm Phật có thể vãng sanh, lại còn có thể tu bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, bất luận nhàn rỗi hay bận bịu. Như vậy thì Phật giáo chẳng cần đến Tăng đoàn, [Tăng đoàn] chỉ tốn hao nhiều tiền tài của thí chủ mà thôi! Nếu người xuất gia làm chuyện hoằng pháp thì kẻ tại gia cũng có thể hoằng pháp. Nếu người xuất gia chẳng hoằng pháp, há chẳng phải là đâm ra mắc tội ư? (Lý Vĩnh Bạch hỏi)
Đáp: Đoạn trước [trong câu hỏi của ông] ý nghĩa chẳng rõ ràng, nên chẳng thể đáp được. Trong đoạn sau, [đối với câu hỏi] người xuất gia chẳng hoằng pháp v.v... có thể phỏng theo ý nghĩa quở trách bậc hiền giả để có thể nói là vị ấy chẳng phát đại tâm mà thôi!
* Hỏi: Vì sao cư sĩ chẳng thể cho người khác quy y? Cư sĩ hữu đức, hữu học, há chẳng tôn quý, thù thắng hơn kẻ xuất gia vô đức, vô học ư? Vì sao cư sĩ hữu đức hữu học vẫn phải hướng về kẻ xuất gia vô đức, vô học đảnh lễ? (Lý Vĩnh Bạch hỏi)
Đáp: Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo nhất thể, đấy là nghĩa lý nhất định trong Phật giáo. Tăng là tiếng gọi chung cả tập đoàn tỳ-kheo, chứ không chỉ một ai. Lời dạy của Phật được giữ trong kinh, Tăng đoàn có trách nhiệm lưu truyền kinh. [Phật, Pháp, Tăng] như ba chân của cái đỉnh, khuyết một chẳng thể được. “Quy y Tăng” là quy y Tăng đoàn, chứ không phải là bái một ai đó làm thầy! Cư sĩ chẳng thuộc vào đó, nên chẳng có tư cách quy y cho người khác. Nay tôi lập ra một thí dụ để giảng rõ: Trường học có hiệu trưởng, có giảng nghĩa (những nghĩa lý được giảng dạy), có đông đảo giáo sư. Học sinh vào trường, ắt cần phải nương theo ba thứ trên đây để học hành thì mới được ghi vào hồ sơ. Nếu kẻ ấy học ở ngoài trường ấy, theo người khác học giảng nghĩa, mà xưng là đã học từ trường ấy ra thì có được hay chăng? Còn như đảnh lễ người xuất gia thì cũng là [đảnh lễ] toàn thể Tam Bảo, trọn chẳng phải là chuyên kính trọng một người nào. Túc hạ nói người xuất gia vô đức, vô học, cố nhiên là có người như vậy, nhưng chẳng thể bảo toàn bộ Tăng đoàn đều là như thế. Cư sĩ hữu đức, hữu học, chẳng thể bảo là không có ai, nhưng hiện thời hãy xét coi, có ai được như Duy Ma Cật, Nguyệt Thượng Nữ, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Phó Huyền Phong, Bàng Đạo Huyền chư hiền?
* Hỏi: Chúng sanh phiền não chưa đoạn, khi được Phật tiếp dẫn tới thế giới Cực Lạc, nếu tập khí ác trước kia lại khởi lên, sẽ làm ác, há Tịnh Độ chẳng bị quậy lung tung thành đời ác Ngũ Trược ư? Chúng sanh do gây tạo vô thỉ vô minh đến nỗi luân hồi trong sáu nẻo không ngơi, huống chi tập khí ác trùng trùng? (Lý Vĩnh Bạch hỏi)
Đáp: Tâm vốn chẳng sanh, do cảnh mà có, các pháp do duyên sanh. Hãy thử nhìn xem cảnh duyên nơi Cực Lạc giống như thế nào, sẽ biết lời hỏi ấy thuần là hý luận!
* Hỏi: Đệ tử Phật áo mũ đơn sơ, giản dị, chẳng đeo anh lạc. Phẩm Phổ Môn có chép: Vô Tận Ý Bồ Tát cởi chuỗi anh lạc kết bằng các thứ bảo châu đeo trên cổ đem tặng [Quán Thế Âm Bồ Tát]. Bồ Tát là bậc tiên giác học Phật, trên thân đeo chuỗi anh lạc, nghĩa là sao? (Cung Văn Thái hỏi)
Đáp: Người học Phật còn tu nhân, hết thảy đều giản dị, sơ sài, chỉ sợ phương hại đạo tâm, nên phải tận lực tránh né trần nhiễm. Bồ Tát nơi quả địa, mãn phận nhị nghiêm (phước trí vẹn toàn), trọn đủ trăm phước, [các thứ trang nghiêm] tự nhiên hiện ra; như tỳ-kheo thời đức Phật râu tóc tự rụng, ca-sa đắp trên thân. Phật và Chuyển Luân Thánh Vương đều trọn đủ ba mươi hai tướng, đó là phước báo. Đó là lý do thứ nhất. Bồ Tát là đại phước điền, vì từ bi, thường nhận cúng dường. Đó là lý do thứ hai.
* Hỏi: Thái Tử Tất Đạt Đa giáng sanh trong vương cung xứ Ca Tỳ La Vệ ở Trung Ấn Độ. Nơi trang ba mươi của bộ Viên Anh Pháp Sư Giảng Diễn Tập, luận về Phật giáo và nhân sinh đã viết: “Phật là bậc đại giác ngộ, giáng sanh trong nước Ca Duy Vệ của Trung Ấn Độ, làm Hoàng Thái Tử...” Ca Duy Vệ và Ca Tỳ La Vệ là hai nước ư? (Cung Văn Thái hỏi)
Đáp: Đấy là dịch âm khác nhau, như A Bệ Bạt Trí và A Duy Việt Trí, A Tu La và A Tố Lạc... Những trường hợp như vậy rất nhiều, chẳng có gì là lạ. Hiện thời cũng chẳng thiếu gì chuyện ấy. Như Trung Quốc dịch tên hai nước Đức và Nga là Đức Ý Chí (Deutschland) và Nga La Tư (Russia), người Nhật dịch là Độc Dật và Lộ Tây Á v.v...
* Hỏi: Các tôn giáo đều là khuyến thiện, pháp luật chấp thuận tự do tín ngưỡng. Tôi nghĩ bất luận học một tôn giáo nào cũng đều là học lấy sự tốt lành, nhưng các tôn giáo công kích lẫn nhau, hành động như thế có thể coi là thiện ư? Nếu dựa vào nói suông để khuyên kẻ khác học theo điều thiện, chính mình bất thiện, có phải là có chút mâu thuẫn hay không? (Một độc giả tại Hoa Liên hỏi)
Đáp: Tuy các tôn giáo đều khuyến thiện, Phật giáo tự có tánh chất đặc biệt, tức là chú trọng liễu sanh thoát tử, các tôn giáo khác chưa thể triệt để, điều này ắt phải nghiên cứu giáo nghĩa sâu xa rồi so sánh mới biết được. Nếu nói là học điều tốt, chẳng phải là nói phạm vi của tôn giáo chỉ hạn chế trong việc trở thành người tốt ư? Nếu biết suy lường, [sẽ nhận biết] Phật giáo chẳng phải chỉ có vậy mà thôi. Nói đến chuyện công kích thì chính là vấn đề giữa con người với nhau, chẳng phải là giáo nghĩa như thế, nhưng Phật giáo từ xưa luôn chịu đựng công kích, chẳng hề tự mình khởi xướng [chuyện công kích kẻ khác]. Nay tuy tranh biện với kẻ khác, cũng là do một số ít người kém sức nhẫn nại, nên chống lại mà thôi. Vì tính cách hộ pháp mà chẳng thể không có người như vậy, mâu thuẫn há phải tại ta ư?
* Hỏi: Kinh điển Phật giáo chữ đã kỳ quái, mà lời văn lại khó hiểu. Hiện thời vẫn giữ phương pháp cũ kỹ, chẳng biết thay đổi cho tốt đẹp hơn; do vậy, sức truyền giáo chẳng sánh bằng đạo Chúa. Tại hạ [phê phán như vậy] vẫn là do hảo ý, sao không nghĩ cách dịch cho kinh văn thông tục hơn một chút, khiến cho người khác vừa xem liền hiểu ngay! (Một độc giả tại Hoa Liên hỏi)
Đáp: Thế tục có tục học, thánh có thánh học, thánh có thể bao gồm tục, nhưng tục chẳng thể gồm thâu thánh. Tuy vậy, trọn chẳng phải là không thể [lãnh hội thánh học], ắt phải tinh tấn cầu học, tuân theo thứ tự, có thể dần dần nâng cao trình độ. Giống như nhà trường trong thế tục, có Tiểu Học, Sơ Trung, Cao Trung, Đại Chuyên v.v..., chẳng thể nhảy lớp được! Hoặc như đối với văn học thế tục, kẻ ít thông đạt, dẫu đọc sách của Khổng Tử cũng chẳng thể hiểu, huống là kinh Phật ư? Nếu như dạy cho người ấy kinh văn thông tục, hễ nghe liền dễ hiểu, đấy chính là khiến cho kẻ căn tánh kém hèn chẳng thể tiến nhập cao sâu. Xin hãy coi các thứ bảo quyển[1] và loan thi (thơ giáng cơ) của các thiện đường đều là vừa thông tục, vừa khuyến thiện, nhất là xem các truyện Tây Du Ký, Phong Thần Bảng v.v... càng cảm thấy thông tục, mà cũng có thể cảnh tỉnh cõi đời, nhưng có gì dính dáng tới đạo đâu! Còn như nói phiên dịch kinh sách, [điều này chưa thể tiến hành là vì] lý do tuyệt đối chẳng đơn giản, chẳng phải là có thể giải quyết trong vài câu! Xin hãy xem bản dịch Tứ Thư sang Bạch Thoại của Giang Hy Trương, trăm nỗi sai lầm, đã sớm bị kẻ hiểu biết chê trách. Thế đế mà còn như thế, thì cũng có thể biết thánh đế như thế nào!
* Hỏi: Ngày Hai Mươi Bốn tháng Chạp theo tục lệ là ngày tiễn thần, chẳng biết có ý nghĩa gì? (Liên hữu thuộc ban Triều Tân hỏi)
Đáp: Ngày hôm ấy tống tiễn chư thần, chính là một diễn biến khác [của cổ tục] ở nơi đây. Theo cổ tục Trung Quốc, ngày hôm ấy là ngày tiễn ông Táo, chẳng dính líu gì đến Phật học, cho nên chẳng cần phải bàn luận nhiều!
* Hỏi: Đại Thế Chí Bồ Tát là vị Bồ Tát nào? Tu thành tựu địa vị Bồ Tát nào? Đạo tràng ở đâu? Nhiệm vụ của Ngài như thế nào? (Trần Thánh Âm hỏi)
Đáp: Tứ sanh lục phàm trong mười pháp giới đều từng xoay vần nhiều kiếp, trong kinh cũng chẳng ghi chép trọn hết tên họ của từng người [trong các đời quá khứ] được. Những người được ghi chép đều là mấy vị đã quen nghe đến, biết đến, nhưng [kinh điển] cũng chỉ [chép] mấy đời có liên quan tới cái quả trong hiện tại. Hiểu rõ điều này, ắt sẽ biết các vị đều tu tập nhiều kiếp. Ở đây nêu lên một vị, quả thật e rằng đã sót cả vạn, đâm ra chẳng hay lắm. Đạo tràng của vị Bồ Tát này hiện ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài cùng Quán Thế Âm Bồ Tát phù tá A Di Đà Phật, thực hiện nhiệm vụ tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh Cực Lạc.
* Hỏi: Các thành viên trong gia đình do cá tánh, chí hướng, yêu thích đều khác nhau, đến nỗi cảm tình giữa đôi bên ngày càng xấu kém, tinh thần bị đè nén trong một thời gian dài. Nếu tranh luận, ắt sẽ phạm khẩu nghiệp. Nếu không, trong tâm chẳng thể kìm nén sự phẫn nộ. Trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh có nói: “Thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được lìa sân”, tôi cũng thường tuân lời Bồ Tát thực hành nhưng vô hiệu! Xin hỏi có phải là vì bản thân nghiệp nặng, nên Bồ Tát chưa thể cảm ứng hay không? Đối với cảnh ngộ như vừa mới trình bày, nên dùng thái độ nào để ứng phó? (Trần Thánh Âm hỏi)
Đáp: Tuy cư sĩ đã học Phật, nhưng đọc mấy câu hỏi, sợ rằng cư sĩ chỉ biết Sự, chưa hiểu Lý! Tám nỗi khổ trong đời người, trong ấy có hai thứ là chán ghét mà phải gặp gỡ và yêu thương phải chia lìa, trong gia đình cảm nhận nỗi khổ ấy nặng nề nhất. Nếu hiểu Lý, sẽ chiếu phá giả tướng, thấy mọi thứ đều bình đẳng, không khổ, không sướng. Dẫu trong nhất thời, chưa thể đạt đến cảnh giới ấy, cũng nên quán trừu tượng: Quyến thuộc chẳng hợp ý kiến, thường dấy lên xung đột, sẽ có thể giảm nhẹ nỗi khổ do yêu thương mà phải chia lìa, vừa khéo để cắt đứt vướng mắc, chuyên tâm tu hành, đó là chuyển đổi chướng ngại, biến nó thành Tăng Thượng Duyên. Còn như niệm thánh hiệu không có hiệu quả, là do phiền não ma trong tự tánh nặng nề, sức Tam Bảo trong tự tánh quá nhẹ, liền biết hai phần nhiễm và tịnh trong tự tánh đang tranh hùng với nhau. Hễ mê thì nhiễm chướng ngại tịnh, hễ giác khởi lên thì tịnh chế ngự nhiễm. Nhiễm chướng ngại tịnh là “pháp nhược, ma cường” (pháp yếu, ma mạnh); tịnh chế phục nhiễm là đạo thắng, ma lùi. Mấu chốt là sức giác chiếu có đủ hay không?
* Hỏi: Niệm Phật muốn giải thoát sanh tử, thoát khỏi nỗi khổ luân hồi trong lục đạo, vì sao chỉ có rất ít người có thể liễu ngộ đời trước, còn đại đa số đều chẳng biết gì, tôi chưa hiểu đạo lý này! (Huệ Diệu hỏi)
Đáp: Điều này thuộc về vấn đề tri thức của mỗi người, như Nho sĩ trong cõi đời đọc câu “du hồn vi biến”[2] trong Châu Dịch và câu “vị tri sanh, yên tri tử” (chưa biết rõ sống, làm sao biết chết) trong Luận Ngữ, Tả Truyện chép Bành Sanh hóa thành lợn, Sử Ký chép Như Ý là chó v.v... liền ngộ con người có đời trước. Kẻ học Phật đắc Túc Mạng Thông, biết đời trước, hoặc hiểu sâu xa Phật lý cũng tin có đời trước chẳng phải là hư huyễn, nhưng giữa biển người, bậc kiệt xuất nói chung như “lông phượng, vảy lân”, những kẻ không biết [đông đảo như thế] có gì là lạ?
* Hỏi: Hư không vô cùng, đại thiên vô tận, Phật giáo cũng thế, nhưng vị Thỉ Giác tối sơ đã nương vào đâu mà giác, [giác ấy] có phải là vô thỉ hay không? (Lý Học Thi hỏi)
Đáp: Muốn biết Thỉ Giác, ắt trước hết phải biết Thỉ Mê. Nếu tiên sinh có thể biết rõ Thỉ Mê, sẽ tự hiểu rõ Thỉ Giác do nương vào đâu mà giác. Cuối cùng, [tiên sinh] lại nêu ra câu chất vấn: “Có phải là vô thỉ hay không?” Trong ý của Ngài có nỗi nghi vấn này, dường như có chỗ tự mâu thuẫn với chính mình. Trong phần trên, chẳng phải là tôi đã nói: “Để biết về giác, ắt trước hết phải biết về mê”. Kẻ hèn này học ít, chỉ nghe nói “vô minh” (mê) có “vô thỉ”, lại nghe nói có Bổn Giác; xét kỹ, chữ Bổn cũng chứa đựng ý nghĩa “vô thỉ”. Xin hãy gộp [những điều trên đây] để xem xét, chắc nỗi nghi của tiên sinh sẽ tiêu tan!
* Hỏi: Đức Phật dùng chánh pháp để đánh thức quần mê, nếu chín mươi chín chúng sanh đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì một chúng sanh cuối cùng có thể chứng đắc hay không? (Vì chữ Phật dịch ra là “tự giác, giác tha, giác hành viên mãn”. Dựa theo nghĩa này để giải thích thì chúng sanh cuối cùng có thể tự giác, nhưng không có giác tha và giác hạnh viên mãn!) (Lý Học Thi hỏi)
Đáp: Đối với những kinh kẻ hèn này đã được đọc, được nghe, chỉ biết đến những lời như “hư không vô tận, thế giới vô tận, chúng sanh vô tận” v.v... hễ biết bèn có thể dựa theo kinh để kính cẩn đáp lời. Nếu bàn đến câu hỏi về một chúng sanh cuối cùng, há chẳng phải là hý luận, chẳng phải là giả thiết ư? Tôi vốn chẳng thể đáp, nhưng lại sợ chẳng nhắc đến sẽ thiếu cung kính, chỉ đành vượt khỏi phạm vi [hiểu biết của chính mình] mà nói bừa: “Chúng sanh cuối cùng” nghĩa là chỉ còn sót lại một chúng sanh ấy, sau đó sẽ chẳng còn sanh nữa, nên một chúng sanh còn sót lại ấy ắt sẽ nghiệp tận, tình không, cho nên mới có thể chẳng sanh. Nếu không, vẫn còn sanh, chẳng thể nói là “tối hậu”. Nếu chúng sanh ấy nghiệp tận tình không, chẳng còn đầu thai, có thể nói là “tối hậu”, cũng ắt trước hết phải độ chúng sanh, rồi mới chứng quả ấy. Dẫu không có chúng sanh nào khác để độ, thì vẫn còn chúng sanh trong tự tánh để độ, vậy là tự độ và độ tha, không nghĩa nào chẳng viên!
* Hỏi: Đối với những người chẳng thâu liễm hành vi, chẳng ra tăng, chẳng ra tục, có thể gửi thư cảnh cáo hay chăng? Nhưng cảnh cáo đối phương, chẳng tránh khỏi tạo khẩu nghiệp; nhưng tạo khẩu nghiệp chỉ là một người, nếu đối phương biết lỗi ắt sửa, sẽ duy trì, bảo vệ được danh dự Phật giáo cho đại chúng. Khẩu nghiệp ấy sẽ chứa đựng trong thức thứ tám, hay sẽ do đối phương hối cải mà băng tiêu? (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Đầy dẫy trong thiên hạ đều là như vậy, dường như chẳng thể cảnh cáo xiết! Cổ nhân chẳng nắm giữ địa vị, chẳng mưu tính đến sự cai trị, mà còn phân chia kẻ nào có thể nói, kẻ nào chẳng thể nói! Cư sĩ tuy sẵn nhiệt tâm, nhưng nếu chẳng phải là quan hệ bạn bè thân thiết, chớ nên đụng chạm để rồi chuốc oán. Còn đối với câu hỏi về khẩu nghiệp, vốn là chuyện lo nghĩ quá đáng! Phàm lợi lạc chúng sanh, dẫu quở trách, mắng chửi, vẫn là thiện nghiệp. Hại chúng sanh, dù là cung kính, khen ngợi, vẫn là ác nghiệp!
* Hỏi: Trong sách do đàn cầu cơ ở tỉnh nhà [lưu truyền], có những bài do Thích Ca Mâu Ni Phật, Tây Phương Giáo Chủ và chư vị Bồ Tát v.v... mười phương ba đời chư Phật đến giáng bút, có chuyện ấy hay chăng? (Trần Kiện Hưng hỏi)
Đáp: Có trường hợp là do kẻ hầu cơ bịa đặt [những bài giáng bút ấy] để dối đời! Có trường hợp do linh quỷ mạo danh gạt người. Tuy nói là giả mạo danh nghĩa, rốt cuộc vẫn là khuyến thiện, nhưng lời lẽ quê kệch, hoang đường, quả thật có thể gây trở ngại cho chánh tín của người khác, có lợi ích nhỏ nhặt cho những vùng quê mùa hẻo lánh, nhưng có hại lớn cho chánh đạo!
* Hỏi: Tôi vốn là loan sanh (thanh đồng chuyên phò cơ), nay đã quy y Tam Bảo làm đệ tử Phật, chẳng đến loan đường (điện cầu cơ) có bị các thần khiển trách hay chăng? Nếu lại làm loan sanh thì có phù hợp với giới điều quy y hay không? (Trần Kiện Hưng hỏi)
Đáp: Thoạt đầu, thọ Tam Quy, được gọi là Phiên Tà Tam Quy, có nghĩa là cải tà quy chánh. Phật là thầy của trời người, là đấng được cả tam giới tôn quý; ai dám khiển trách đệ tử Phật? Giới đầu tiên trong Tam Quy là “quy y Phật, chẳng còn quy y thiên ma ngoại đạo”. Nếu lại làm loan sanh, rành rành là phạm quy giới, đánh mất tư cách đệ tử Tam Bảo!
* Hỏi: Chuyên ở nhà xem kinh sách và niệm Phật có được hay không? (Trần Kiện Hưng hỏi)
Đáp: Phật pháp viên dung, phương tiện tùy duyên, lẽ nào chẳng được! Chỉ có thành tâm là điều kiện bậc nhất, những thứ khác đều là phụ thuộc!
* Hỏi: Học Phật vì lẽ gì? Mục đích là như thế nào? Có đệ tử Phật bảo tôi là vì liễu thoát sanh tử, giải thoát lục đạo luân hồi, tôi nghĩ đó là cảnh giới xuất thế, nhưng phàm nhân chúng sanh nhập thế phải nên làm gì để đạt đến cảnh giới ấy? (Hoặc là thấy thấu suốt sanh tử, hay là sống chết thuận theo tự nhiên) (Kỷ Vũ hỏi)
Đáp: Nhập thế thì hãy nên “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, hiếu, đễ, trung, tín, chớ để thiếu sót”. Đấy là kiềm chế bản thân. Tiến hơn nữa là Lục Độ, Tứ Nhiếp, phương tiện thiện xảo, rộng độ chúng sanh vượt sang bờ kia. Đó là lợi tha. Hai điều vừa nêu trên đây đều là đạo phải làm trong học Phật nhập thế. Hiểu rõ chuyện này, sẽ biết xuất thế dễ, mà nhập thế khó. Hơn nữa, hiểu Phật lý thì mới có thể thấy thấu suốt sanh tử. Đã học Phật, ắt sẽ chẳng phó mặc sanh tử cho tự nhiên.
* Hỏi: Đối với giới tà dâm trong Ngũ Giới, có đệ tử Phật bảo tôi, thường quán tưởng [kẻ mà ta khởi lên dâm niệm] là thân nhân, sẽ tự giữ được. Tôi là thanh niên ba mươi mấy tuổi chưa kết hôn, lại làm việc giữa cả đống chúng sanh, bên ngoài bị lời dâm, tiếng tà dẫn dụ, bên trong có những xung động sinh lý, huống chi sống trong vùng á nhiệt đới[3], tôi không có cảnh giới học Phật khá, tuy quán tưởng là người thân, vẫn chẳng thể khắc chế ma chướng. Tự biết đời trước nghiệp nặng, xin hãy chỉ dạy phương pháp, khó nhất là khống chế về mặt sinh lý! (Kỷ Vũ hỏi)
Đáp: Người tại gia vốn được phép chánh dâm trong hôn nhân, cần gì phải chuyên nghĩ đến tà dâm? Dẫu chẳng học Phật mà phạm tà dâm thì cũng chẳng được đạo đức lẫn pháp luật chấp thuận, lại còn bị báo ứng nhân quả chi phối. Cầu khoái lạc chỉ trong chốc lát, chịu khổ ngàn kiếp, người thật sự thông minh sẽ tự có thể khống chế. Người ta nói “quán tưởng là người thân”, chẳng qua là một phương pháp! Nếu dùng loại thuốc ấy chẳng được, hãy nên đổi loại thuốc khác, có thể chọn cách quán năm thứ bất tịnh để hành, thử xem như thế nào.
Chú thích: Ngũ Bất Tịnh Quán là:
1. Chủng tử bất tịnh: Thân này lấy nghiệp đã kết trong quá khứ làm mầm mống, hiện nay lấy tinh huyết của cha mẹ làm mầm mống.
2. Trụ xứ bất tịnh: Ở trong thai mẹ là chỗ bất tịnh.
3. Tự tướng bất tịnh: Thân này có chín lỗ, thường tuôn chảy đờm, nước mắt, đại tiểu tiện, các thứ bất tịnh.
4. Tự thể bất tịnh: Thân do ba mươi sáu vật bất tịnh[4] hợp thành.
5. Chung cánh bất tịnh: Thân này đã chết, đem chôn tan thành đất, trùng ăn vào thải ra phân, hỏa thiêu biến thành tro. Truy tìm đến rốt ráo, chẳng có một tướng thanh tịnh nào!
* Hỏi: Xin hãy chỉ dạy những sách vở căn bản nói về phương pháp trì giới và nhân quả thần thông trong Phật giáo. (Kỷ Vũ hỏi)
Đáp: Người mới học đọc về giới thì có sách Ngũ Giới Tướng Kinh Tiên Yếu[5] dễ hiểu nhất. Sách nhân quả nhiều đến nỗi chẳng thể kể xiết, chắc là những nơi lưu thông kinh Phật đều có, nhưng viết bằng Văn Ngôn hay Bạch Thoại khác nhau, cần phải do chính mình chọn lựa. Có hai cuốn Thọ Khang Bảo Giám và Dục Hải Hồi Cuồng đều nói về cái hại do phạm lỗi tà dâm, hãy nên chọn đọc trước. Sách ấy là thuốc chữa căn bệnh của tiên sinh vậy!
* Hỏi: Trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao có nói: “Nếu kẻ nào trung tiện, xông thấu Tam Bảo, có thể bị đọa làm giòi trong nhà xí” (xem trang chín mươi hai sách [Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao] Tinh Hoa Lục). Nếu khi chúng ta đeo đội huy chương có hình Phật hay mật chú, ở chung với người khác, trong ấy có người trung tiện, xông trúng huy chương có hình Phật hay pháp bảo trên thân chúng ta, kẻ nào sẽ mắc tội? (Huệ Khang hỏi)
Đáp: Tội ở nơi hữu tâm tạo tác, ta đeo huy chương có hình Phật hay mật chú, người ấy làm sao có thể biết được? Hễ có chuyện như vậy, chúng ta nên tránh né để đôi bên chẳng phạm lỗi! Nhưng kẻ hèn này cho rằng những vật như huy chương có hình Phật hoặc mật chú chớ nên đeo thường xuyên, vì người tại gia, ở trong nhà phần nhiều bất tịnh, đấy cũng là khinh nhờn, hoặc lỡ quên đeo luôn vào nhà xí, sẽ thành bất kính!
* Hỏi: Trong nhà tôi không có Phật đường thích đáng, trong khi niệm công khóa mỗi sáng trong phòng, nhằm lúc người nhà cầm bô nước tiểu đi qua cửa, mùi hôi thường xông vào tận phòng tôi, ai sẽ bị mắc lỗi? (Huệ Khang hỏi)
Đáp: Người học Phật cần phải có trí huệ và từ bi, đã sợ uế vật xông thấu Phật thì hãy nên phương tiện thiện xảo, dựa theo tình hình mà tìm cách. Người ấy cầm bô nước tiểu đi ngang qua cửa, chẳng bước vào phòng, sao không làm một tấm màn vải, treo ở cửa phòng để ngăn chặn? Ông lại nhiều lượt hỏi tội thuộc về ai, dẫu thuộc về người khác, nhưng người ấy tạo tội hoàn toàn do ta, ta yên lòng được sao?
* Hỏi: Nếu bị quỷ thần khuấy nhiễu thân tâm, sẽ có hiện tượng gì? (Huệ Khang hỏi)
Đáp: Cũng chẳng nhất định, vì tội nghiệp có lớn nhỏ, oán độc có cạn hay sâu, nên hiện tượng ngàn muôn sai biệt, cũng chẳng phải là một trạng thái!
* Hỏi: Tôi kể từ khi bị bệnh tới nay, mỗi ngày thường thấy vật gì đó trong suốt bay quanh, trong ngực lại còn như có vật gì lấp đầy, ép chặt, chẳng thể thoải mái. Nếu lúc niệm Phật ra tiếng thì càng nặng hơn, dường như có người dùng bàn tay đè lên vậy. Khi ngủ, cũng từng mộng thấy có vật gì đó tay cầm đao muốn đâm tôi, nhưng tôi nhanh nhẹn chạy tránh khỏi, rốt cuộc bị nó đâm trúng lưng và hông, khi tỉnh giấc mới biết là do bắp thịt co rút. Có lúc cũng mộng thấy đang ăn gì đó, tôi chẳng biết có phải là ngạ quỷ hay chăng? Bình thường, tôi cảm thấy tâm thần u ám, buồn bực, rởn da gà, lại còn thường sanh tâm kinh hãi, sân hận, ngờ vực. Đối với tình hình như trên, mong lão cư sĩ ấn chứng có phải tôi bị bệnh do quỷ khuấy phá hay chăng? Nên chữa trị như thế nào? (Huệ Khang hỏi)
Đáp: Tình trạng bệnh tật như ông đã nói, cũng sợ rằng là do oan nghiệt đời trước, hãy nên một mặt kiếm bác sĩ giỏi để chẩn đoán, chữa trị; một mặt nên cầu cao tăng, sám hối, thọ giới, chí tâm niệm Phật, hồi hướng trọn khắp, sẽ có thể hóa hung thành cát.
* Hỏi: Nếu người lúc đi ngủ, liền bất tỉnh nhân sự, ngẫu nhiên được lay gọi trong lúc ấy sẽ tỉnh lại, đây là do nguyên cớ nào? (Hà Khôn Mậu hỏi)
Đáp: Sự thấy, nghe, hay, biết, hết thảy động tác của con người hoàn toàn cậy vào lục căn và lục thức phan duyên lẫn nhau, liên lạc với nhau mà sanh khởi. Ở đây, tôi dùng đồng hồ để tỷ dụ, ý thức như dây cót (dây thiều), năm thức trước giống như các bánh xe răng cưa điều khiển kim giờ v.v... Khi ngủ giống như ngưng chạy, “ngưng chạy” để tạm nghỉ, nhưng sức thúc đẩy của dây cót trọn chẳng mất đi, tỉnh lại giống như lên dây cót cho “đồng hồ chết” khiến cho nó lại chạy. Sức thúc đẩy của dây cót phát ra, các bánh xe răng cưa điều khiển kim giờ đều khởi tác dụng. Đây là giảng theo thế tục, nếu sau này ông nghiên cứu Duy Thức sẽ hiểu rõ chân nghĩa.
* Hỏi: Lúc trời đất hỗn độn, những thần thức (linh hồn) chưa tu đến cõi Phật có thể tồn tại hay chăng, hay là bị diệt vong? Đệ tử đã biết thần thức đến được Phật độ sẽ có thể tồn tại, nhưng nếu người chưa thể sanh về cõi Phật, lấy thế giới Sa Bà để so sánh, hễ gặp khi thế giới hỗn độn, nếu thần thức của người đã chết vẫn tồn tại thì thần thức ấy phải tới nơi nào? (Hà Khôn Mậu hỏi)
Đáp: Cư sĩ thấy các ngôi sao trong hư không hay chăng? Số lượng của chúng có thể cùng tận hay chăng? Nếu chẳng thể biết trọn hết số lượng các ngôi sao, thì cũng chẳng thể biết trọn hết số lượng các thế giới, nhưng vô lượng thế giới quả thật là thành, trụ, hoại, không chẳng ngừng. “Hoại, không” như hỗn độn, như trong biển sóng mòi cuộn lên, tan mất chẳng nhất định. Thần thức chẳng ở trong thế giới này, ắt trụ trong thế giới khác, đâu phải lo không có chỗ nương gá! Nhưng một câu “hay là bị diệt vong” [trong lời hỏi của ông] lầm lẫn quá đỗi! Phải biết: Nếu có chuyện tiện nghi như thế, địa ngục há chẳng phải là uổng công lập ra hay chăng?
* Hỏi: Quỷ đạo là một trong tam ác đạo, cũng chính là một nẻo [luân hồi] hứng chịu ác báo do gieo nhân ác, vì sao quỷ đạo còn có sức thần thông, có thể vận dụng thần thông ấy để biến hóa, gây họa, tạo phước cho người đời trên dương gian, đó là do lẽ nào? (Phương Phấn Thanh hỏi)
Đáp: Tuy thuộc ác đạo, nhưng quả báo chẳng giống nhau, như súc sanh tuy thuộc về ác đạo, còn có lân, phượng, rùa, rồng là những con vật thiêng. Quỷ loại rất nhiều, [những con quỷ] thuộc về loại quỷ trong cõi trời Tứ Vương, và loài quỷ đa tài[6] thuộc quỷ đạo, sẽ có nhiều thần thông. Trong số ấy, có kẻ do quả báo mà đạt được, cũng có loài do sinh lý mà có thần thông. Chuyện họa phước trong chốn nhân gian là do quỷ quan thi hành sự quyền biến, hoặc do báo ân v.v...
* Hỏi: Tôi thấy gần đây ở Hương Cảng ấn hành tượng Địa Tạng Bồ Tát mười phần tinh xảo, trang nghiêm, nên cung kính thỉnh về thờ. [Trong tượng vẽ ấy], chầu hai bên Bồ Tát, bên trái là một cụ già râu dài, bên phải là một tỳ-kheo trẻ tuổi, họ là ai vậy? (Trạch Mạnh Thu hỏi)
Đáp: Tượng Địa Tạng Bồ Tát thường được thờ phổ biến ở Trung Quốc chính là hình của một vị tỳ-kheo Cao Ly đời Đường. Vị tỳ-kheo ấy đến núi Cửu Hoa, được Mân Công thí đất, cúng dường, con trai ông ta bèn được Ngài thế độ xuất gia, pháp danh là Đạo Minh. Trong bức tượng do Hương Cảng in, vị tỳ-kheo bên phải là tôn giả Đạo Minh, cụ già bên trái là Mân Công.
* Hỏi: Tôi có một người bạn chuyên xem tướng để kiếm sống. Một hôm, người bạn ấy đến nhà, vừa vào cửa liền nói: “Cửa nhà này hướng về phía Bạch Hổ[7], chủ phá tài”, tôi không đáp. Sau đấy, tôi nghĩ lời ấy chẳng thể tin, vì có Phật, Bồ Tát hiện diện, sẽ không có gì bất lợi, đúng chăng? (Trạch Mạnh Thu hỏi )
Đáp: Thuật Âm Dương Ngũ Hành sanh khắc hạn cuộc trong chốn phàm tục. Đệ tử Phật hãy tuân theo lời dạy trong kinh, tin sâu nhân quả. Làm lành, dẫu ở cuộc đất xấu, đất cũng chuyển thành tốt; làm điều bất thiện, dẫu ở cuộc đất tốt lành, đất cũng chuyển thành hung. Thử xem, từ xưa, những kẻ quyền quý nhưng gian tà, tội lỗi, đối với nơi họ sống, há lẽ nào chẳng chọn chỗ tốt lành, nhưng tới khi tội ác đã ngập đầu, vẫn chẳng tránh khỏi cảnh nhà tan người mất, đấy là do liên quan đến nhân quả hay là do cuộc đất tốt xấu vậy?
* Hỏi: Người già tu tập ở nhà bị quấy nhiễu, đến nỗi phải xin vào chùa ở để tu, nếu kiếp này chẳng liễu ngộ, có bị mang lông đội sừng đền nợ hay chăng? (Phan Chấn Bang hỏi)
Đáp: Ở trong chùa, bỏ tiền cúng dường, hoặc tự lo ăn uống; nếu không mắc nợ, có gì phải trả?
* Hỏi: Cha mẹ không biết chữ, hằng ngày niệm Phật theo đồng hồ chẳng gián đoạn, nhưng tôi làm con em trong khóa tụng sáng tối, nguyện hồi hướng cho cha mẹ, chẳng biết bài văn hồi hướng như thế nào? (Mong thầy viết một bài văn riêng) (Phan Chấn Bang hỏi)
Đáp: Dùng bài văn hồi hướng tám câu, mỗi câu năm chữ[8], thay đổi mấy chữ trở thành bốn câu là được rồi, kính cẩn nghĩ như thế này: “Nguyện dĩ thử công đức, thượng báo phụ mẫu ân, tận thử nhất Báo Thân, vãng sanh Cực Lạc quốc” (nguyện đem công đức này, hồi hướng ân cha mẹ, hết một báo thân này, vãng sanh cõi Cực Lạc).
* Hỏi: Cúng dường Địa Tạng dùng hương, hoa, y phục, thức ăn, các thứ ngoạn cụ. “Các món ngoạn cụ dùng cúng dường Bồ Tát” có ý nghĩa như thế nào? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Phàm những vật chẳng thuộc đồ dùng trong sinh hoạt thường ngày, như hết thảy các món cúng dường thanh tịnh để trang hoàng đều có thể gọi là “ngoạn cụ”. Những món như chuông, đỉnh, tranh chữ, tranh vẽ, đồ điêu khắc bằng kim loại hay đá, châu ngọc cũng đều là “ngoạn cụ”. Các thứ tràng, phan, lưới, luân, pháp loa trong nhà chùa, hoa, hương cũng đều là “ngoạn cụ”.
* Hỏi: Ví như người tên Giáp thấy do tiễn biệt người tên Ất mà sát sanh, bèn khởi lòng thương xót, điều ấy có công đức hay chăng? Công đức to chừng nào? (Trần Lâm Châu hỏi)
Đáp: Tâm khởi lên thương xót là ý thiện, một hạt giống tốt lành, đương nhiên có công đức, nhiều hay ít cũng tùy thuộc sự phát tâm lớn hay nhỏ, há có thể đoán sẵn được ư?
* Hỏi: Vì sao nhân loại có nam nữ khác biệt, lại xảo hợp mang thai sanh nở con cái, sao chẳng hóa sanh? (Lý Học Thi hỏi)
Đáp: Vạn pháp do nhân duyên sanh, có nhân và duyên của người nam bèn hiện thân nam, có nhân và duyên của người nữ bèn hiện thân nữ. Trời đất chia ra âm dương, nhị hoa cũng có đực và cái, không gì chẳng phải do nhân duyên. Bậc hiền triết thế gian cũng có các thuyết như vô cực, thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng v.v... biến hóa, có cùng một lẽ với thuyết duyên sanh. Nhân loại do dâm dục, nhục thể hòa hợp, nên có thai sanh. Cõi trời trong Dục Giới tuy dâm dục, nhưng chẳng chung đụng thể xác, nên hóa sanh. Sắc Giới Thiên chẳng dâm dục, nên cũng là hóa sanh. Noãn, thai, thấp, hóa, mỗi loài vốn đều có nhân duyên!
* Hỏi: Có phải là hết thảy các quỷ thần đều có Ngũ Thông? Nếu như vậy, vì sao họ chẳng thể tự độ hoặc độ tha, mà phải cần pháp sư (siêu độ)? (Mạc Ngã Hư hỏi)
Đáp: Sức thần thông của quỷ thần, có đến mấy thứ, hoàn toàn chẳng nhất định. Lại còn có lớn hay nhỏ sai khác! Phải biết: Chuyện “độ” lại còn có “siêu thăng” và “xuất thế” khác biệt, nhưng đối với hai thứ ấy, sức Ngũ Thông chẳng thể thực hiện! Vẫn là do nghiệp lực làm chủ thể, ác nghiệp đọa tam đồ, hữu lậu thiện bèn sanh trong cõi trời người. Nếu luận định về xuất thế, chỉ có Phật pháp; vì thế, ắt phải cậy vào pháp sư. Dẫu cho lục đạo thăng trầm trong thế gian, sau khi đã đọa, trước lúc thiện chủng tử khởi hiện hành, giống như té xuống vực sâu, ắt phải cậy vào thuyền bè mới có thể thoát ra. Phật pháp là chiếc bè báu, pháp ấy có sức chuyển nghiệp, nên nỗi khổ hiện tiền cũng phải cậy vào Phật pháp để giải thoát.
* Hỏi: Ngài Mục Liên cứu mẹ có phải là nhờ vào tâm lực của các vị đại Bồ Tát hay chăng? Vì sao tâm có sức mạnh ấy? Từ nơi nào phát ra? Phát ra như thế nào? Xe hay thuyền có thể di động theo ý muốn là do ngoại lực thúc đẩy, tâm thật sự có sức tự thúc đẩy ư? Mẹ ngài Mục Liên do nghiệp chướng đã tiêu trừ (sau khi nghiệp chướng giảm nhẹ) mà được cứu đấy chăng? Chúng sanh có thể đới nghiệp vãng sanh, nhưng nghiệp được mang theo trong ý thức, hay là mang theo ở nơi đâu? Vì sao trì chú, niệm Phật có thể tiêu nghiệp? Tiêu như thế nào? (Mạc Ngã Hư hỏi)
Đáp: Câu hỏi này được chia thành năm đoạn, cần phải chia ra để đáp.
1. Phàm là động vật sẽ có tâm (tâm ấy không phải là quả tim, mà chính là nói tới “linh giác”). Có tâm bèn khởi niệm, khởi niệm liền có chuyện tạo tác nơi ba chỗ thân, khẩu, ý. Chuyện được tạo tác có lớn, nhỏ, mạnh, yếu, lâu dài, tạm thời, các thứ khác nhau, đó là mức độ biểu hiện của tâm lực. Nho gia cũng nói tới tâm lực, họ từng nói: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị” (Chẳng chú tâm thì nhìn chẳng thấy, nghe chẳng lọt tai, ăn chẳng biết mùi vị). Hãy thử nghĩ: Thấy, nghe, phân biệt mùi vị là chuyện hết sức nhỏ nhặt, mà vẫn là tác dụng của tâm, huống gì những chuyện lớn hơn!
2. Ngài lại lấy xe và thuyền để tỷ dụ cái tâm, kẻ hèn này cho rằng tỷ dụ ấy chẳng thích đáng lắm, vì động lực có chủ động và bị động khác nhau! Xe và thuyền bất quá là vật thể bị động, chỉ có thể sánh với thân và miệng của con người, nhưng thân và miệng hoạt động là do tâm; như xe và thuyền hoạt động cũng có kẻ làm chủ, kẻ làm chủ ấy mới có thể ví như tâm!
3. Chuyện mẹ của tôn giả Mục Liên “tội tiêu, được cứu” chép trong kinh Vu Lan Bồn. Nếu chẳng tin kinh, chẳng còn gì để nói nữa!
4. Vãng sanh là thức thứ tám. Thức này còn có tên là Hàm Tàng Thức, hết thảy các chủng tử thiện ác đều chứa trong ấy, giống như cuốn phim nhựa: Ảnh chẳng lìa khỏi phim!
5. Tôi cũng dùng tỷ dụ để nói rõ cùng Ngài: Tủ lạnh đóng băng cứng, mà dùng tay sờ soạng, ắt cóng tay, buốt da. Nếu dùng khí nóng thổi vào tủ lạnh thường xuyên, thử hỏi bên trong tủ có đóng băng cứng được hay chăng?
* Hỏi: Kinh Kim Cang, trong phần thứ mười bảy tức phần Cứu Cánh Vô Ngã có câu “danh nhất thiết pháp” (gọi là hết thảy các pháp), pháp được nói trong phần trước là Phật pháp, đoạn giữa nói “pháp” chẳng phải là hết thảy các pháp, đoạn sau lại nói “cố danh nhất thiết pháp” (nên gọi là hết thảy các pháp). Ba đoạn ấy trước hết là “là”, rồi “chẳng là”, sau đấy lại “là”, chẳng biết đấy có phải là nói lời phương tiện hay chăng? (Nhan Văn Bạo hỏi)
Đáp: Ngã Kiến là chướng ngại lớn nhất trong việc cầu giác ngộ, trước hết ắt phải phá trừ, nhưng Ngã lại chia thành hai thứ là Nhân Ngã và Pháp Ngã, đều phải nên phá trừ. Mấy câu ấy mang ý nghĩa phá chấp trước Ngã và Pháp.
* Hỏi: Có sư X... là trụ trì chùa Y... tại làng Z... nhằm tuyên dương Phật giáo, thỉnh hai vị cư sĩ Giáp và Ất ở trong điện Tam Bảo chùa ấy, phát nguyện độ chúng sanh, chiêu sinh miễn phí, lập lớp học buổi tối nhằm mục đích khuyến thiện. Về sau, hai vị cư sĩ ấy giữ nghiêm ngặt nguyện trước, chẳng nhận của học sinh mảy may nào, nhưng vị trụ trì X... thấy chẳng thể kiếm lợi từ học sinh bèn khởi ác ý, muốn đuổi hai vị cư sĩ đi xa. Nhưng hai vị cư sĩ ấy do chính ông ta mời đến, nay lại bảo họ trở về, khởi xướng do ông ta mà phản đối cũng do ông ta, chẳng biết ai đúng, ai sai, kết quả về sau của ba người ấy như thế nào, kính xin khai thị? (Nhan Văn Bạo hỏi)
Đáp: Chẳng cần luận định đúng hay sai! Về sau sẽ tự có nhân quả, nhưng giữa khách và chủ đã có định sẵn ranh giới, chủ đã chẳng muốn giữ, sao khách cứ phải khiên cưỡng ở lại?
* Hỏi: Sau đấy, chuyện này khiến cho nhân sĩ nơi ấy bất mãn, liền can thiệp với trụ trì, bắt ông ta giữ hai vị cư sĩ sống vĩnh viễn trong chùa ấy, mở cuộc họp quyết định lo riêng cơm nước cho hai vị cư sĩ, [các nhu cầu] trong cuộc sống thường ngày do người chủ quản nơi ấy phụ trách cung cấp, trụ trì cũng đồng ý; nhưng thành toàn cho cư sĩ tại gia là do yêu cầu của nơi ấy, cho nên trong chùa lại chia ra ăn uống riêng rẽ, chẳng biết hai vị cư sĩ ấy có vi phạm Thanh Quy của chùa miếu hay không? (Nhan Văn Bạo hỏi)
Đáp: Chẳng ăn cơm nhà chùa, nên chẳng phạm Thanh Quy; nhưng cần gì mà phải làm chuyện oán ghét mà cứ phải gặp gỡ ấy!
* Hỏi: Nhưng cư sĩ Giáp là một người khách cô độc từ làng khác, nếu bây giờ bị đuổi đi, sẽ không có nhà để trở về, không chốn nương thân, do tình thế bức bách, bất đắc dĩ nhân sĩ nơi ấy phải chèo kéo, lưu lại, tạm thời ở trong chùa ấy, nhưng cư sĩ Giáp lại sợ sau này trụ trì chẳng vui lòng, nên đã cậy bạn bè khắp nơi xin ở nhờ chỗ nọ. Nếu may ra thành tựu, khi ấy, sẽ rời nơi đây sang đó. Chẳng biết vị cư sĩ này có trái nghịch tấm lòng phát nguyện và phạm tội vọng ngữ do đã nhận lời lúc được người nơi ấy chèo kéo hay chăng? (Nhan Văn Bạo hỏi)
Đáp: Duyên hợp thì ở, duyên hết thì đi. Con người có sanh, trụ, dị, diệt, thế giới có thành, trụ, hoại, không; há có pháp nào thường hằng?
* Hỏi: Đệ tử có thể thờ hình của Vân Công thượng nhân và Địa Tạng Bồ Tát trong cùng một khung hình hay chăng? (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Thờ riêng ra thì hay hơn! Nếu do vị trí hạn chế, dẫu thờ trong cùng một khung kiếng, phải đặt thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát ở phía trên.
* Hỏi: Khi cư sĩ hướng về tỳ-kheo-ni đảnh lễ, nên xưng hô ra sao? (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Cũng gọi là pháp sư, chẳng cần khởi phân biệt.
* Hỏi: Nếu ngẫu nhiên gặp những vị đại cư sĩ Phật giáo trọn đời hộ pháp như Phương Luân, Niệm Sanh v.v... hướng về họ đảnh lễ, nên xưng hô như thế nào? (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Người cao tuổi gọi là lão cư sĩ, người ngang tuổi thì gọi là đại cư sĩ.
* Hỏi: Tăng Bảo hiện thời, đang lúc cá rồng hỗn tạp, cớ sao những vị được gọi là đại cư sĩ trong Phật giáo chẳng phát động phong trào “kính Tăng”, khiến cho người trọn đủ tư cách Tăng Bảo được nâng cao địa vị. Có ganh đua, chọn lọc thì mới có thể đạt đến mục tiêu tuyển chọn, nhằm gạt bỏ những con quỷ làm kinh sám tăng chẳng ra tăng, tục chẳng ra tục, chấp Lý, hay những gã có vợ con, luôn mưu lợi cho tương lai cá nhân. Nếu có thể chọn lựa bất cứ vị nào cũng đầy đủ tư cách Tăng Bảo chẳng vướng mắc thì giáo phong mới được nâng cao. Nếu không, phong khí sẽ ngày càng bại hoại! (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Sống ở nơi đây, trong thời này, cần phải mở rộng tầm mắt, nhận biết hoàn cảnh, so sánh sự phát triển của Phật giáo và các tôn giáo khác thì [Phật giáo] đã trở thành lạc hậu, hãy nên nhẫn nại, đoàn kết, chớ nên tạo nên chuyện phân hóa nữa. Kẻ làm kinh sám để kiếm sống, quả thật chẳng phải là [theo đúng] đại đạo, nhưng vẫn chẳng thuộc vào năm thứ tà mạng. Há có biết giáo pháp của chúng ta gặp hoạn nạn to lớn chẳng do các tôn giáo ngoại lai [gây ra], mà là do mấy tôn giáo vốn có trong nước đều mượn chiêu bài Phật giáo, bí mật hoạt động, tín đồ Phật giáo thiếu chánh tri kiến, đa số bỏ cái này chạy theo cái kia. Vì thế, trước mắt, hãy nên tìm cách cứu vãn, chớ nên xua cá xuống vực sâu[9]!
* Hỏi: Câu “Phạm âm, hải triều âm” trong phẩm Phổ Môn chỉ sóng biển tại núi Phổ Đà, hay là nói Phật pháp phổ biến như hải triều? (Nhan Văn Bạo hỏi)
Đáp: Phạm Âm là âm thanh thanh tịnh, vô nhiễm; Hải Triều Âm là thuyết pháp khế cơ, giống như hải triều [lên xuống đúng giờ] chẳng lỗi hẹn. Triều Âm Động của Phổ Đà sơn là dựa theo kinh, chứ không phải là kinh văn mượn cảnh Phổ Đà để nói!
* Hỏi: Có người nói “Xá Lợi Tử” trong Tâm Kinh là ngài Xá Lợi Phất đệ tử trí huệ bậc nhất của đức Phật, có người nói là xá-lợi sau khi đức Phật nhập Niết Bàn lưu lại! Rốt cuộc là thuyết trước đúng hay thuyết sau đúng? (Nhan Văn Bạo hỏi).
Đáp: “Xá Lợi Tử” tuy có hai cách giải thích trước và sau như trên, nhưng Xá Lợi Tử được nhắc đến trong Tâm Kinh là tên người.
* Hỏi: Như Lai khởi lên pháp hạnh thanh tịnh khi tu nhân, nếu Bồ Tát ở giữa đại chúng, khởi tâm thanh tịnh, làm thế nào để xa lìa các bệnh, nghĩa ấy như thế nào? (Phan Diệu Huyền hỏi)
Đáp: [Ông nói điều trên đây] phát xuất từ kinh nào, chưa từng chỉ rõ, không cách nào tra khảo, chẳng thể đáp bừa!
* Hỏi: Muốn dạo trong biển đại tịch diệt của Như Lai, làm thế nào để có thể đoạn căn bản luân hồi? Trong các nẻo luân hồi, có mấy chủng tánh, tu Phật Bồ Đề có mấy thứ khác nhau? Nghĩa ấy ra sao? (Phan Diệu Huyền hỏi)
Đáp: Chưa thể hiểu rõ tôn ý, nên tạm thời chẳng đáp, xin hãy tha thứ.
* Hỏi: Đức Phật nói chẳng trụ trong hết thảy trụ, khi có hết thảy các cảnh giới xảy đến, chẳng thể giữ lấy. Con người hiện thời nói niệm Phật rất giống như Đại Thừa, [đó là do] vị tổ sư đời thứ mấy nói, hay là người ta thuận theo thời đại đã nói? (Phan Diệu Huyền hỏi)
Đáp: Tôi cũng chẳng thể liễu giải tôn ý trong câu hỏi này, nên chẳng đáp bừa!
* Hỏi: Nghe nói bên Mỹ có một đứa con nhà giàu, mẹ hắn có tài sản thật lớn, hắn mong sớm có ngày được hưởng, nên chẳng tiếc hết thảy, giết chết mẹ. Hắn có đáng bị phán tội tử hình hay không? Nếu bị kết tội tử hình, giết hắn đi thì có phạm giới hay không? (Nói theo quan điểm Phật giáo) (liên hữu thuộc ban Liên Vân hỏi)
Đáp: Chấp hành thưởng phạt thuộc về vấn đề chính trị. Giáo hóa, hướng dẫn lòng người là vấn đề giáo dục và tôn giáo, mỗi phương diện có quyền hạn riêng, chớ nên trộn lẫn lại để bàn định. Chính trị có các thứ pháp quy, tuân theo đó mà hành thì chính là tuân thủ phép nước. Kẻ phạm pháp bị phán tội tử hình là do pháp luật buộc tội chết, chứ không phải do quan tòa khiến cho hắn bị chết, giống như kẻ tạo ác vào địa ngục, là do nghiệp lực lôi dắt, quả thật chẳng phải do thần hay quỷ sai sử. Xét về lập trường Phật giáo, há có dị nghị!
* Hỏi: Kinh dạy “nan hành đạo dị thành Phật, dị hành đạo nan thành Phật” (đạo khó hành dễ thành Phật, đạo dễ hành khó thành Phật), xin hỏi nan hành đạo là gì, dị hành đạo là gì? (Chung Quán Tĩnh hỏi)
Đáp: Trong lời hỏi này, sợ là đã chép sai câu nói, hay là bịa đặt, xin hãy cho biết [câu ấy] xuất phát từ kinh nào, tôi sẽ lại kính cẩn trả lời để khỏi phạm lỗi!
* Hỏi: Tệ nhân có một chuyện lạ lùng! Có một khúc hát đã quên khuấy từ lâu, nay muốn hát khúc ấy, nhưng đã hoàn toàn không còn dấu vết hay ấn tượng để có thể tìm lại, từ đầu đến cuối không có cách nào nghĩ ra, nhưng về sau, đang trong lúc lơ mơ nửa thức, nửa ngủ, chợt buột miệng hát ra, đúng là mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn! Trước lúc ngủ, vì sao có huyễn giác? (Chương Phổ Minh hỏi)
Đáp: Phàm có một ý niệm, hay một chuyện gì, đều có một bóng dáng được ghi trong thức điền thứ tám, điều ấy được gọi là “chủng tử”. Đã có chủng tử, hễ gặp duyên sẽ khởi hiện hành, thế tục thường gọi là “phản ảnh”. Tuy ông nghĩ chẳng ra ca khúc ấy, nhưng nó thật sự ẩn tàng trong thức, chợt khởi hiện hành, nên tự nhiên có thể buột miệng hát ra.
* Hỏi: Lúc đức Thế Tôn giáng sanh, có một vị Bà La Môn tên là A Tư Đà (Asita) tiên nhân được phụ vương của Phật cho xem tướng Thái Tử. Lại nữa, theo kinh Kim Cang, trưởng lão Tu Bồ Đề lúc sanh ra, cha mẹ cũng mời một thầy tướng số đến gieo một quẻ, bói được một quẻ tốt, cho nên Ngài có một tên là Thiện Cát (Thiện Cát là từ dịch nghĩa của danh xưng Tu Bồ Đề mà biết), nên hiểu lý ấy như thế nào, xin chỉ dạy! (Trần Tuyền Lâm hỏi)
Đáp: Đức Thế Tôn giáng thế, xuất gia, chứng đạo, trải một thời gian ba mươi năm, mới thuyết pháp độ chúng sanh nên có Phật giáo. A Tư Đà tiên nhân xem tướng là chuyện trước khi lập giáo ba mươi năm. Chuyện ấy đối với Phật giáo có gì đáng ngại! Tu Bồ Đề theo Phật làm đệ tử, cũng là lúc đã trưởng thành, những chuyện trước khi Ngài quy y Phật môn chẳng liên quan gì đến Phật giáo!
* Hỏi: Ma Ha là lớn nhất, Ma Ha Đại Pháp Vương là Ma Ha to lớn bao gồm cả càn khôn và vũ trụ ư? Coi tâm này là trời, trời cao chẳng có cực hạn, nhưng tâm vượt khỏi trời. Đất dày chẳng thể lường, nhưng tâm vượt hơn đất, tâm to lớn bao trùm thái hư, tâm lớn lao thay! Xin hãy chỉ dạy, trong hai đại nguyện ấy, nguyện nào là lớn? (Lý Thanh Mộc hỏi)
Đáp: Kinh dạy: “Đương tri hư không, sanh nhữ tâm nội, do như phiến vân, điểm thái thanh lý, huống chư thế giới, tại hư không da?” (Hãy nên biết, hư không sanh trong tâm ông giống như một vầng mây điểm giữa trời xanh, huống hồ các thế giới ở trong hư không ư?). Ngài nói đến trời, đất, bất quá là một phần ngàn vạn của tam thiên đại thiên thế giới, sao lại cho là lớn. Nếu đem trời đất so với tâm thì có khác nào một bọt sóng trong biển cả!
* Hỏi: Xét theo cổ lệ của nước ta, có các thứ tôn giáo khác nhau, đối với người thế tục, mỗi khi trong nhà có tang sự hay hỷ sự, ắt phải mời thầy Kham Dư[10] đến xem xét địa lý, trạch nhật, tức là chọn lựa giờ hên, ngày tốt, cho đúng lẽ tương hình, tương khắc[11] nhằm đón hên, tránh dữ v.v... Gần đây, tôi quy y Tam Bảo, trở thành tín đồ Phật giáo, đối với Phật lý cũng chưa nghiên cứu, trong bụng mười phần nghi ngờ, lo lắng; bởi lẽ, giáo đồ Phật giáo chúng ta cũng nên tuân thủ ba điều trên đây hay chăng? (Dương Kim Toàn hỏi).
Đáp: Những chuyện như xem Địa Lý, chọn ngày v.v... đều thuộc về bói toán cát hung. Phật giáo đồ mà làm nghề ấy sẽ gọi là “tà mạng”, kẻ tin những chuyện ấy gọi là “tà tín”. Phật giáo đồ hãy nên tuân theo lý trí, đối với chuyện hướng lành, tránh dữ, hãy cầu nơi nhân quả, sẽ ngàn vạn phần chuẩn xác, chẳng cần phải noi theo thói tục.
* Hỏi: Chẳng biết giáo chủ nguyên thủy của các thầy chọn ngày và thầy Địa Lý tên họ là gì? [Câu hỏi] thứ hai là từ cổ đến nay đã bao nhiêu năm? (Dương Kim Toàn hỏi)
Đáp: Thuật này đâu phải là tôn giáo, làm sao có giáo chủ được! Bất quá, loại kỹ thuật này phần nhiều thoát thai từ thuyết Bát Quái, Âm Dương, Ngũ Hành. Ắt bọn họ sẽ nêu tên một vị là tổ sư, nhưng phần lớn là gán ghép, hoặc bịa ra, kẻ hèn này chưa từng thân cận họ, nên chẳng biết họ tôn sùng ai!
* Hỏi: Quyết định tu theo một hạnh môn nào, phải quy y với pháp sư thuộc tông ấy để mong được chỉ ra chỗ mê mờ, nhưng tôi quy y với hòa thượng Quảng Khâm của Thiền Tông, nếu tu Tịnh Độ, có cần phải quy y lại với pháp sư trong Tịnh Tông hay chăng? (Trịnh Trường Lâm hỏi)
Đáp: Quy y Tăng là quy y Tăng đoàn, hết thảy các vị Tăng đều là thầy ta, không cần phải quy y lại. Nếu học pháp môn, hướng tới các vị đại đức thuộc một tông chuyên môn [tu tập pháp môn ấy] giữ lễ đệ tử để thỉnh giáo, như Khổng Tử thông thạo lục nghệ[12], thầy của Ngài cũng nhiều ngần ấy!
* Hỏi: Khi tôi thọ giới, mặc quân phục đứng trước mọi người là vì tập khí thế tục chưa trừ, lại vì người niệm kinh cho tôi là một vị ni sư nên cảm thấy rất bất an, tâm cũng thiếu chí thành, quy y như vậy có phải là vô hiệu hay chăng, hoặc là đâm ra còn có tội? (Trịnh Trường Lâm hỏi)
Đáp: Chuyện đã là quá khứ, dẫu hối chẳng làm được gì, nay chỉ còn cách đối trước Phật chí thành sám hối mà thôi!
* Hỏi: Phật tử do hoàn cảnh bức bách, phải ăn năm thứ tịnh nhục đến nỗi đâm ngán khó nuốt xuống được. Dẫu ăn rau bên cạnh thịt cũng thế, phải nên làm như thế nào? (Trạch Mạnh Thu hỏi)
Đáp: Chỉ có rau xanh là được rồi, điều này cần gì phải bàn định nữa?
* Hỏi: Đệ[13] đọc cuốn Nam Hải Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ Dị Văn Lục do pháp sư Chử Vân ở Phượng Sơn Phật Giáo Liên Xã trước tác, thấy những điều nói về sự linh cảm của đức Đại Bi Quán Thế Âm khiến cho kẻ khác nghiêm túc dấy lòng cung kính. Như vậy thì có phải là thánh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát được thờ bởi các Thiền tự thông thường khác và các cư sĩ niệm Phật đều chẳng linh cảm bằng Quán Âm Bồ Tát tại đại đạo tràng Phổ Đà Sơn? (Trác Trung Chấn hỏi)
Đáp: Bồ Tát linh ứng là do tâm cảm; nếu có thể chí thành, ở đâu cũng linh cả!
* Hỏi: Ngoài các cõi Phật trong mười phương, có các cõi Phật khác hay chăng? Trong mười phương chư Phật, Bồ Tát, địa vị Phật chẳng có cao thấp, vị Phật nào thành Phật sớm nhất? Và A Di Đà Phật có phải là địa vị cao nhất trong mười phương chư Phật hay không? Lại nữa, có phải là trong mỗi câu chú Đại Bi đều có thánh hiệu Bồ Tát? (Trác Trung Chấn hỏi)
Đáp: Đã nói là “mười phương”, ắt trọn khắp chiều dọc lẫn chiều ngang, làm sao còn có gì ở ngoài được nữa? Nói tới Phật thì Phật Phật đạo đồng, nói tới Bồ Tát thì có bốn mươi hai cấp sai khác. Ở đây, dùng mặt trăng để tỷ dụ, từ mùng Một tới Mười Bốn đều ví như Bồ Tát, ánh sáng mặt trăng mỗi hôm mỗi khác. Còn ngày Rằm ví như đức Phật, trăng đêm Rằm tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba cho đến tháng Chạp, không gì chẳng giống nhau. Lời kệ xưng tán “A Di Đà đệ nhất” nhằm ca ngợi thệ nguyện của Ngài. Chú Đại Bi thuộc về Chân Ngôn, theo cổ lệ chẳng được phép phiên dịch. Đối với bản chú giải [chú Đại Bi] bằng hình vẽ (thường gọi là Đại Bi Xuất Tượng) được lưu hành trong thế gian, do kẻ hèn này học thức nông cạn, chẳng hiểu Phạn văn, nhưng luôn cảm thấy hoài nghi. Chẳng hạn như trong bài chú, câu “sa bà ha” (svāhā) rất nhiều, nhưng mỗi câu “sa bà ha” lại được giảng khác nhau, sao lại có chuyện chữ giống nhau, âm giống nhau, mà rốt cuộc lại phân biệt nhiều đến thế? Cư sĩ hỏi điều này, xin thứ lỗi, tôi chẳng thể đáp được!
* Hỏi: Xứ Ấn Độ kể từ sau khi Phật Thích Ca thành Phật, đã trở thành thánh địa khởi nguồn của Phật giáo toàn thế giới, vậy thì trước khi Phật Thích Ca thành Phật, trong các quốc gia khác có Phật giáo tồn tại hay chăng? (Trác Trung Chấn hỏi)
Đáp: Pháp vận của Phật, gồm bốn thời kỳ lớn: Chánh, Tượng, Mạt, Diệt. Trong thế giới này, trước đó tuy có Phật pháp, nhưng sau khi pháp diệt, Thích Ca Thế Tôn mới giáng thế. Nói như vậy, có thể nói là trước khi Thích Ca Như Lai giáng thế, các nước hoàn toàn chẳng có Phật giáo.
* Hỏi: Liên Tông kể từ Sơ Tổ Viễn Công đại sư (tổ Huệ Viễn) cho tới Ấn Công đại sư (tổ Ấn Quang) viên tịch, tính tới vị tổ thứ mười ba chỉ có mười ba vị. Tổ sư hai tông Thiền và Mật, tính đến hiện tại có bao nhiêu vị? (Trác Trung Chấn hỏi)
Đáp: Thiền kể từ ngài Đạt Ma từ Tây Phương sang [Trung Hoa], trở thành Đông Độ Sơ Tổ, sau khi truyền tới Ngũ Tổ, bèn chia thành hai phái Nam Bắc. Phái phương Bắc chẳng phân chia, phương Nam từ Lục Tổ trở xuống có ngũ gia thất tông[14] khác nhau. Mỗi chi phái đều khởi sắc, mỗi tông có tổ riêng, phức tạp khó thể thuật trọn, ông có thể tra cứu trong sách Ngũ Đăng Hội Nguyên[15]. Hệ thống truyền thừa của Mật Tông được tính theo cách đặc biệt, khởi đầu từ Đại Nhật Như Lai ở Tây Thổ, trải qua [các tổ sư ở] Trung Quốc, cho tới Hoằng Pháp Thượng Sư của Nhật Bản thì ngừng, gọi là “bát tổ tương thừa” (tám vị tổ truyền thừa)[16].
* Hỏi: Ma Vương Ba Tuần đạt được phước ma ra sao? Khi phước ma đã hết, có đọa tam ác đạo hay không? Sau khi Ba Tuần đọa lạc, có phải là do ma con, ma cháu nối ngôi làm ma vương giống như Nhất Sanh Bổ Xứ được nói trong kinh A Di Đà hay không? (Trương Bảo Hành hỏi)
Đáp: Ma vương báo tận, tự nhiên đọa lạc. Còn như nói ma con, ma cháu kế vị, tuy chưa thấy kinh văn [nói như vậy], nhưng tôi nghĩ là chuyện đương nhiên.
* Hỏi: Địa ngục trong Phật giáo là nói tới nơi nào? Có phải là duy tâm sở tạo hay không? (Trương Bảo Hành hỏi)
Đáp: Trong kinh có nói dưới chân núi Thiết Vy và dưới đất v..v... đều là những chỗ có đại địa ngục; trong núi, ngoài đồng trống đều có, đấy là tiểu địa ngục cô độc!
* Hỏi: Trong Phật giáo, hai chúng xuất gia chẳng ăn các thứ thịt, nói là vì chúng sanh đều là cha mẹ trong nhiều đời nhiều kiếp quá khứ, và là chư Phật vị lai, nên chẳng nhẫn tâm ăn thịt chúng sanh, nhưng trong kinh điển có nói chư thiên khi hưởng hết phước báo trong cõi trời, có lúc đọa làm gỗ, đá, kim loại, đất. Vậy thì trong các thứ rau dưa cũng có chúng sanh bị đọa, nếu hai chúng xuất gia ăn rau dưa, há chẳng phải là phạm giới ư? (Trương Bảo Hành hỏi)
Đáp: Hưởng hết phước trời, đọa lạc trong các đường thấp hơn, đó là chuyện thường nghe nói. Còn như hóa làm gỗ, đá, kẻ hèn này xem kinh quá ít, chưa hề thấy, chỉ để đó chẳng bàn tới, chờ bậc thông gia [giải đáp]. Hàng xuất gia ăn các thứ rau, phải cẩn thận gột sạch các loài trùng nhỏ. Thời cổ chưa có nước máy, những thứ để uống phải dùng vải lọc, suy ra cũng biết! Nhưng hạnh kiêng giết cũng chỉ là dốc hết tâm lực [thực hiện], dốc hết sức tránh né, nhằm trọn hết lòng từ bi của ta. Nếu thân tâm chẳng làm được, chỉ đành thuận theo, như hít thở và đi lại, không gì chẳng sát sanh! Lỗi do vô tâm đã nặng nề lắm rồi; vì thế, càng chớ nên cố tình giết chóc!
* Hỏi: Trong quá trình địa cầu thành, trụ, hoại, không, trong thời kỳ hoại, lục đạo chúng sanh đều tới nơi nào? Kinh lại nói phía dưới Tứ Thiền Thiên đều bị phong tai, hỏa tai, thủy tai gây hại, vậy thì trong quá trình Không, Tứ Thiền Thiên vẫn tồn tại như cũ, hay cũng bị bại hoại? (Trương Bảo Hành hỏi)
Đáp: Thân chúng sanh trong Tứ Thiền có sanh tử, thế giới có thành, hoại; nhưng thế giới hoại chẳng bắt buộc phải trải qua ba tai nạn ấy, đến lúc, nó sẽ tự tiêu diệt, giống như nhà bằng gỗ bị cháy. Nước, lửa, gió cố nhiên có thể hoại [tam thiên đại thiên thế giới]. Dẫu chẳng trải qua những tai nạn ấy, lâu ngày, nó sẽ tự hư nát.
* Hỏi: Trong khóa tụng sáng tối, có câu Nam Mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát và Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát, hai vị Bồ Tát ấy là ai vậy? (Trương Bảo Hành hỏi)
Đáp: Kẻ ít học này chưa thấy bản khóa tụng ấy, chỉ có thể dùng sự để luận sự mà thôi! Nhật Quang và Nguyệt Quang là danh tự, giống như tên của người ta là X... hay Y... Nói chung, hai vị Bồ Tát ấy là “hiếp sĩ”[17] (Bồ Tát trợ thủ thân thiết) của Đông Phương Dược Sư Như Lai, giống như Tây Phương Di Đà Như Lai có hai vị hiếp sĩ là Quán Âm và Thế Chí.
* Hỏi: Giải hạ, kết hạ [nghĩa là gì?] Bùa là [thứ thường được sử dụng bởi] Đạo gia, nhà Phật có bùa hay chăng? (Hoàng Bá Kính hỏi)
Đáp: Đây là quy chế Tăng chúng tới mùa Hạ bèn an cư, bắt đầu từ ngày Mười Sáu tháng Tư tới chín mươi ngày mới xong. Khi bắt đầu thì gọi là Kết, khi kết thúc gọi là Giải. Cũng có lệ an cư bắt đầu từ ngày Mười Sáu tháng Năm, hoặc từ đầu tháng Tư hoặc tháng Năm, cho nên có ba thứ an cư khác nhau. Chưa hề nghe nói tới “bùa” trong nhà Phật. Hơn nữa, cư sĩ đã nói chính mình đã thỉnh Phật Học Từ Điển, mà vẫn không thể tra được. Thật ra, chẳng phải vậy, những điều đã hỏi trên đây, trong Phật Học Từ Điển đều có ghi chép tường tận. Vì thế, tôi trả lời đơn giản. Nếu muốn biết chi tiết, xin hãy tự tra!
* Hỏi: Tôi vừa đọc lời tựa của bộ Trạm Sơn Văn Sao[18] thấy có đoạn: “...Ngoài trần lao của pháp thế gian, còn dính thêm trần lao trong Phật pháp”. Tôi tợ hồ có cảm, nhưng chưa thật sự hiểu rõ nghĩa rộng và nghĩa hẹp của “trần lao trong Phật pháp” (Lâm Trường Thanh hỏi)
Đáp: Những thứ như Văn Sao, phần nhiều là lời lẽ cảm kích, trọn chẳng giống như lời giáo huấn trong kinh, chẳng cần phải đối với câu nào cũng coi như là mực thước về Phật lý. Huống chi lời lẽ ấy được ghi trong lời tựa, càng chẳng cần phải đổ công sức tìm tòi. Ở đây, tôi bỏ qua lời tựa, chỉ giải nghĩa bốn chữ “Phật pháp trần lao” là được rồi! Phật pháp chỉ là Nhất Thừa, không hai, cũng chẳng ba. Phàm những gì ở ngoài Nhất Thừa đều là trần lao, đấy là nghĩa rộng. Hương, đèn, củi, gạo, kinh sám, pháp hội, nhận lời mời đi cúng kiếng, trai tăng, tiếp đãi họ Trương, đưa tiễn họ Vương, không gì chẳng phải là trần lao, đều có thể nói chúng là [trần lao hiểu theo] nghĩa hẹp.
* Hỏi: Cổ nhân nói: “Vạn ác, dâm đứng đầu, chư thiện, hiếu làm đầu”, nhưng gia cảnh bần hàn đến nỗi phải bất hiếu, khiến cho song thân ngậm oán về với đất, nên làm như thế nào mới tốt? (Phan Chấn Bang hỏi)
Đáp: Trọn hết đạo hiếu không do giàu hay nghèo, cốt sao tận tâm tận lực mà thôi! Cha mẹ đã khuất bóng, muốn báo đại ân, chỉ có làm Phật sự mà thôi!
* Hỏi: Sau khi phản tỉnh, đau đớn sửa đổi những sai trái trước đây, hằng ngày tích lũy công đức, giúp kẻ khó khăn, nâng đỡ người gặp nguy hiểm, đối với người khác chẳng dối gạt, thấy điều ác bèn bực tức, vâng làm các điều thiện v.v... có thể bù đắp cái tội bất hiếu hay chăng? (Phan Chấn Bang hỏi)
Đáp: Phản tỉnh bèn sửa ác, tu lành, cố nhiên là rất tốt đẹp. Nếu có thể đem những điều lành đã làm, đối trước Phật, hồi hướng cho song thân, khiến cho cha mẹ siêu thăng, há chỉ tiêu tội, mà còn có công đức rất to!
* Hỏi: Cổ nhân nói “thiên tử có mười bốn hồn, những kẻ khác đều là ba hồn bảy phách”[19], nhưng thiên tử cũng thuộc trong phạm vi lục đạo, sao lại có nhiều hồn hơn vậy? (Phan Chấn Bang hỏi)
Đáp: Điều này chẳng do kinh nói, [toàn là thế tục] nói láo mà chơi, nghe láo chơi đó thôi!
* Hỏi: Con người sống trong dương gian, có ba vị thần ở trong cùng một thân, một trăm năm sau, thi thần tận diệt, nguyên thần và thức thần đã chuyển thế, sao lại có quỷ khuấy phá? (Phan Chấn Bang hỏi)
Đáp: Tam thần cũng là lời lẽ bịa đặt của ngoại đạo, Phật giáo chỉ thừa nhận vô minh là thức thần mà thôi! Thức thần chuyển thế, vốn chia ra lục đạo, chuyển vào cõi trời người thì gọi là trời người, chuyển vào quỷ, súc sanh thì là quỷ, súc sanh. Người đời lẫn lộn giữa thức thần và quỷ, lầm rồi!
* Hỏi: Đức Phật nói “tam xa” là xe dê, xe nai và xe ngựa[20], phân biệt ra sao? (Tiêu Thiệu Thanh hỏi)
Đáp: Dựa theo ba loại xe ấy lớn nhỏ khác nhau, ví như Phật pháp có Đại, Trung, Tiểu Thừa.
* Hỏi: Vì lẽ gì các đồng tu ở Trung Thổ mỗi dịp mồng Một, ngày Rằm bèn siêng tu, ăn chay khá đông? (Trạch Mạnh Thu hỏi)
Đáp: Chắc là vì đơn giản, dễ nhớ.
* Hỏi: Đệ tử từ lúc sáu tuổi, em trai ba tuổi, mẹ hai mắt bị mù, hoàn cảnh gia đình lại túng quẫn, hai anh em con đời này tội nghiệp sâu nặng, thuở bé lắm bệnh, mẹ đi lại bất tiện, vẫn phải vì con giặt giũ, sắc thuốc, chịu đựng hết mọi nỗi gian khổ, chăm bẵm cho con thành người, vất vả gấp trăm lần người thường, phải tận hết hiếu đạo mới báo đáp được muôn một, nhưng mẹ đã về Tây, mỗi khi nhớ tới công lao chăm bẵm, nuôi dưỡng, lòng đau như đốt, phải làm như thế nào mới hòng bù đắp ân dưỡng dục? (Vương Văn Toàn hỏi)
Đáp: Nói theo pháp thế gian, phải ngẩng lên không thẹn với trời, cúi xuống chẳng hổ với người, vì đất nước tận trung, đối với chức vụ trọn hết nghĩa, làm một người hoàn toàn chánh trực, nhằm rạng danh cha mẹ. Nói theo pháp xuất thế, mỗi ngày tụng kinh, hoặc là niệm Phật, đem công đức ấy hồi hướng cho người đã khuất, khiến họ được siêu thăng Tịnh Độ. Nếu có thể làm được hai chuyện ấy, sẽ thật sự là báo ân, mà cha mẹ cũng thật sự được lợi ích vậy!
* Hỏi: Trong thời Kháng Chiến, em trai tôi bị quân Nhật cưỡng ép làm lao dịch cho quân đội Nhật tại các nơi như Phi Luật Tân v.v... cho tới khi Kháng Chiến kết thúc, các nơi đồn đãi đồng bào Đài Loan bị tử thương ở phương Nam rất nhiều, lòng mẹ xót con tha thiết, bèn bày hương án ngoài trời, lập nguyện: Nếu em tôi được bình an trở về, sẽ mổ lợn, dê, thuê đoàn hát tuồng về diễn để tạ ơn Thiên Đế, nhưng đệ tử nay đã quy y Tam Bảo, chẳng nỡ giết mổ sanh linh nữa, hát tuồng để tạ ơn thần thì chánh phủ chẳng cho phép lãng phí [như vậy], phải làm như thế nào thì mới có thể hoàn thành nguyện lớn của mẹ tôi? (Vương Văn Toàn hỏi)
Đáp: Vì cầu cho quyến thuộc của chính mình đoàn viên bèn phát nguyện sát sanh và diễn tuồng để đền ơn thần thì một là vi phạm chế định của Phật, hai là trái nghịch mệnh lệnh của chánh phủ, [cả hai điều ấy] đều có chỗ chẳng hợp lẽ. Cổ nhân nói “mệnh lệnh trong lúc loạn có thể chẳng tuân theo”, cư sĩ đã quy y Tam Bảo, hãy nên tuân theo Phật pháp, đối trước Phật sám hối, đổi chuyện ấy thành [như thế này]: Nếu có nhiều tiền thì cứu trợ kẻ nghèo; nếu ít tiền thì phóng sanh, so ra sẽ là điều lành chân thật hơn!
* Hỏi: Trong Liễu Phàm Tứ Huấn có nói trời, đất, quỷ thần xét soi tường tận tội ác của con người, đối với tội nặng sẽ giáng xuống trăm nỗi tai ương, họa hại, điều ấy có giống với nghiệp báo như đức Phật đã nói hay chăng? (Tiêu Kim Vinh hỏi)
Đáp: Trời, đất, quỷ thần xét soi và nghiệp báo trọn chẳng có gì không thông. Ví như trong thế gian, tòa án, trại giam tuy khắc nghiệt, nhưng bị tra hỏi, bị xử phạt, vẫn do chính mình tạo ra. Càng phải nên biết tòa án, nhà tù vẫn là do con người tạo ra; trời, đất, quỷ thần do tâm tạo ra.
* Hỏi: Tôi nhiều lần thấy chùa miếu ở Đài Loan thờ chung thần với Phật, có đúng pháp hay chăng? Có trái nghịch giáo nghĩa Phật giáo hay chăng? (Chiêm Dưỡng hỏi)
Đáp: Nói tới tôn giáo thì phải có tín ngưỡng nhất định. Tạp loạn sẽ chẳng hợp với điều mình tôn sùng, sự tu học sẽ chẳng có thành tựu. Ví như chân đạp lên hai chiếc thuyền, thuyền tách ra, sẽ rơi xuống nước! Có đạo nhân giữ miếu thờ thần, về sau thờ thêm Phật, tức là dần dần giác ngộ. Có tăng ni ở trong chùa Phật, về sau thờ thêm thần, tức là dần dần chuyển thành mê. Nếu muốn đúng pháp, ắt trước hết phải hiểu lý.
* Hỏi: Người xuất gia ở trong thần miếu, mặc y phục của người xuất gia, cũng đã thọ giới thì có phải là Tăng Bảo hay không? (Chiêm Dưỡng hỏi)
Đáp: Xuất gia, thọ giới, tức là Tăng Bảo. Nếu trước đó đã sống trong miếu, có thể tạm thời an thân nơi ấy. Nếu sau khi xuất gia mới ở miếu thì là kẻ chẳng hiểu lý!
* Hỏi: Phật giáo đồ có nên tôn kính thần hay không? (như Ma Tổ, Quan Đế, Tiên Công v.v...) (Chiêm Dưỡng hỏi)
Đáp: Chúng sanh bình đẳng, đều là quyến thuộc trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai, hãy nên nhất loạt cung kính, đấy là hạnh của Thường Bất Khinh Bồ Tát; nhưng cung kính và thờ phụng rất khác biệt, vàn muôn phần chớ nên lẫn lộn. Như đối với nguyên thủ của nước mình, chính mình phải phơi gan trải mật, ủng hộ, phụng sự; đối với nguyên thủ của quốc gia khác, chỉ nên cung kính trọn lễ mà thôi! Hiểu rõ điều này, tín đồ nhà Phật đối với Phật và chư thần sẽ có chừng mực vậy!
* Hỏi: Thần cũng làm nhiều chuyện cứu thế, có bằng với Bồ Tát hay chăng? (Chiêm Dưỡng hỏi)
Đáp: Bồ Tát là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Giác. Không chỉ cứu thân mạng của con người, mà còn dạy người ta minh tâm kiến tánh, đại giác, đại ngộ, chứng quả rốt ráo. Thần chỉ có năng lực cứu vớt thân xác, chẳng thể độ chúng sanh giải thoát luân hồi, cho nên chẳng thể gọi là Bồ Tát.
* Hỏi: Có những vị thần cảm ứng còn linh hơn Phật, Bồ Tát, há thần thông của Phật, Bồ Tát chẳng bằng thần ư? Người bình thường tin Phật đa số là vì lành bệnh. Nếu niệm kinh, niệm Phật giùm họ, phần nhiều chẳng được nhanh chóng bằng dùng chú thuật của thần giáo! (Chiêm Dưỡng hỏi)
Đáp: Linh ứng do tâm chí thành cảm nên. Tâm đối với thần chuyên tinh, sẽ cảm thần linh ứng, tâm đối với Phật chuyên tinh, ắt cảm Phật linh ứng. Đối với hai câu hỏi do cư sĩ đã nêu, đều là do người ấy có duyên sâu với thần, có duyên cạn với Phật, nên cảm ứng có chậm hay nhanh. Nay tôi nêu một tỷ dụ, xe ba bánh ở đầu phố, cuối ngõ, vẫy tay liền chạy tới, xe mô tô ắt phải ra giữa đường gọi, nhưng ai nấy đều có xe. Nếu đồng thời cùng lái đi, coi thử xe nào tới trước?
* Hỏi: Phật pháp nói mười phương ba đời, vậy “mười phương” chỉ những phương nào? Lại nữa, cư sĩ tu hành tại gia sáng tối thường nên tụng kinh nào và thánh hiệu Phật, Bồ Tát bao nhiêu câu thì mới hợp với tiêu chuẩn tu hành? (Trác cư sĩ hỏi)
Đáp: Bốn phương, bốn góc và trên, dưới, hợp thành mười phương. Tại gia cư sĩ, các việc bề bộn, cơ hội tham phỏng ít oi, tu pháp môn Tịnh Độ sẽ thuận tiện. Nên tụng kinh A Di Đà, đối với Phật hiệu nên trì sáu chữ hồng danh. Tại các chỗ lưu thông kinh Phật tại Đài Loan đều có cuốn Kỹ Lộ Chỉ Quy (chỉ dẫn nơi ngõ rẽ), hãy nên dùng để tham khảo.
* Hỏi: Trong [tựa đề] Diệu Pháp Liên Hoa Kinh và câu “trì trung liên hoa đại như xa luân” (trong ao hoa sen to như bánh xe), chữ Hoa (華) đọc là Hoa (花), sao không viết thẳng là chữ Hoa (花), người chép kinh thuở ấy rốt cuộc có dụng ý gì? (Trác cư sĩ hỏi)
Đáp: Hoa (華) là chữ cổ, sách cổ thường dùng; những kinh đọc trong hiện thời đa số được dịch vào thời Tấn - Ngụy, cho nên vẫn tuân theo cách viết ấy!
* Hỏi: Đối với câu Nam-mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, người niệm Phật tại nội địa (Hoa Lục) đều đổi cách đọc chữ Bi (悲) giống như chữ Bôi (杯), nhưng người niệm Phật ở nơi đây (Đài Loan) đa số đọc đúng âm chữ Bi, rốt cuộc âm đọc nào mới là chuẩn xác? (Trác cư sĩ hỏi)
Đáp: Chữ này chẳng cần phải câu nệ, đọc theo giọng từng vùng đều được!
* Hỏi: Người đời vào sinh nhật, dùng món chay cúng Phật là được rồi, nhưng có người nói: Nhất định phải thỉnh hòa thượng xuất gia đến tụng kinh, lạy ông trời, như vậy có đúng hay không? (Chiêm Kim Chi hỏi)
Đáp: Sanh là một trong mười hai nhân duyên lưu chuyển, thuộc vào hai Đế Khổ và Tập, vốn chẳng đáng vui, nhưng từ đời Đường trở đi, mới lưu hành [tập quán ăn mừng sinh nhật], trở thành phong khí thịnh hành. Tuân theo thói tục mừng thọ, cúng Phật là tốt đẹp, còn lạy Ngọc Hoàng chớ nên làm! Đã chẳng phải là chế định của đức Phật, lại chẳng phải là cổ lễ, chẳng cần phải nghe theo, tin tưởng lời lẽ của người đời, thêm một chuyện chẳng bằng bớt đi một chuyện!
* Hỏi: Người xuất gia có bệnh cũng cầu Ngọc Hoàng, cầu trường thọ, cầu bình an, chẳng biết có hợp với Phật pháp hay chăng? (Chiêm Kim Chi hỏi)
Đáp: Kẻ ấy chắc chắn chẳng phải là người xuất gia chân chánh, thật sự tu trì, chẳng biết thọ mạng và bình an không do trời nắm quyền. Dẫu có nói là sám hối, kỳ đảo, đệ tử Phật cũng nên đối trước Phật để thực hiện.
* Hỏi: Xin hỏi danh xưng của chư thiên? Thuộc về cõi nào? Tuổi thọ ra sao? Tương ứng với bao nhiêu năm trong tuổi thọ con người? Vua của chư thiên được xưng hô ra sao? (Diệu Nguyên hỏi)
Đáp: Nói đại lược, có hai mươi tám tầng trời, sáu tầng dưới cùng gọi là Dục Giới, mười tám tầng giữa gọi là Sắc Giới, bốn tầng trên gọi là Vô Sắc Giới. Mỗi tầng đều có tên riêng, tầng có thọ mạng thấp nhất là năm trăm tuổi, theo cách tính năm mươi năm trong nhân gian là một ngày một đêm trên cõi trời, lên mỗi tầng cao hơn cứ tính theo cách ấy. Tên các cõi trời có thể thấy trong khắp các kinh. Muốn [tra cứu] đơn giản, hãy kiểm xem trong một cuốn kinh A Di Đà có kèm theo ghi chú, tra trong phần [giảng về] Tự phần cũng sẽ tự hiểu rõ.
* Hỏi: Vua trời của Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo và các ngoại đạo v.v... thuộc về cõi trời nào? (Diệu Nguyên hỏi)
Đáp: Hai mươi tám tầng trời chia thành tam giới, trong [phần trả lời cho] câu hỏi thứ nhất tôi đã nói rõ. Xét theo Phật lý để nói, có thể tu mười thứ thiện nghiệp, sẽ thăng lên Dục Giới Thiên, có công phu Thiền Định mới sanh vào hai cõi trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Kẻ hèn này chẳng biết công hạnh đã tu của các tôn giáo và ngoại đạo ấy, nên chẳng có cách nào nói được sự thăng giáng của họ.
* Hỏi: Địa cầu có tuổi thọ là bao nhiêu? Nay đang nhằm thời kỳ nào? Sau này, còn thời kỳ nào nữa? Chừng bao nhiêu năm? (Diệu Nguyên hỏi)
Đáp: Tôi từng nghe các nhà khoa học bàn định, địa cầu là vật được mặt trời phun ra, tuổi thọ của mặt trời đến nay đã có lịch sử sáu mươi ức năm. Dựa theo điều này để luận định, tuổi thọ của địa cầu phải ít hơn mặt trời. Hiện thời nhằm thời kỳ Trụ, trong tương lai sẽ là thời kỳ Hoại. Tôi chẳng hiểu ý câu cuối, xin thứ lỗi chẳng thể kính đáp. Hơn nữa, chuyên mục này được lập ra dành cho hàng sơ cơ chưa liễu giải Phật lý, câu hỏi ấy đã vượt ra ngoài phạm vi [của chuyên mục này], theo lệ chẳng đáp, chúng tôi tạm chấp nhận một lần này!
* Hỏi: Địa cầu vào thuở đầu có thời đại Băng Hà, có thời đại Khủng Long, đấy là do nguyên nhân nào? (Có nhiều người cho rằng trời tạo ra con người, phải trải qua mấy lần thất bại là lẽ đương nhiên. Xin hỏi lão cư sĩ, nguyên nhân căn bản có phải là như vậy hay không). Nói đến địa ngục phải chăng là nói đến trạng thái trong thời kỳ ấy (Diệu Nguyên hỏi)
Đáp: Hai chữ “nguyên nhân” là đối với kết quả, truy tìm đối tượng, trong ấy bao gồm điều đã được nhắc tới “thất bại là chuyện phải có, là nguyên nhân căn bản”. Đã nói là thất bại, làm sao có kết quả thành tựu? Có nhiều người có nhận thức rất khác với kẻ hèn này, giải thích ý nghĩa của từ ngữ còn khác nhau, học lý sẽ không có cách nào nghiên cứu, thảo luận! Nếu hỏi về địa ngục thì xin tra trong kinh Phật (kinh Địa Tạng và Lương Hoàng Sám đều có ghi chép), chớ nên sờ soạng trong tối tăm. Tôi chỉ dùng lời nói của Khổng Tử để kính khuyên. Khổng Tử là thánh nhân mà còn nói: “Ngô thường chung nhật bất thực, chung dạ bất tẩm, dĩ tư, vô ích, bất như học dã” (Ta thường suốt ngày chẳng ăn, suốt đêm chẳng ngủ để suy nghĩ, vô ích, chẳng bằng học). Bàn luận lung tung với mọi người chẳng bằng đọc sách!
* Hỏi: Ngoại trừ Tây Phương Cực Lạc thế giới, mười phương vô lượng cõi Phật cũng giống như Sa Bà chia thành tam giới ư? (Diệu Nguyên hỏi)
Đáp: Một đại thiên thế giới có tam giới, thế giới vô lượng vô biên, tam giới cũng vô lượng vô biên.
* Hỏi: Có người cho rằng trên địa cầu còn có sanh mạng thì chẳng về Tây Phương Tịnh Độ cũng chẳng sao! Có người cho rằng pháp môn Tịnh Độ là một loại chánh sách dành cho dân ngu, vì ngu phu ngu phụ có thể tu pháp này. Có người nói tu hành tại Sa Bà là được rồi, chẳng có nơi nào là Tây Phương Tịnh Độ, vì Phật, Tổ cũng nói: “Cõi Phật cũng là huyễn, chẳng thật”, cho nên chẳng cần vãng sanh Tây Phương, vãng sanh cõi Phật trong tự tâm là được rồi; bởi “tâm tịnh, cõi Phật sẽ tịnh”. Những ý kiến đã ghi như trên đây có phải là đúng đắn vẹn mười hay chăng? Nếu không đúng, xin lại giải thích một phen! (Diệu Nguyên hỏi)
Đáp: Có thể chia thành ba đoạn để đáp.
1. Địa ngục cũng có sanh mạng cực dài, bằng lòng ở mãi trong ấy thì cũng chẳng có gì là không được!
2. Tam Tạng kinh điển, đâu đâu cũng chỉ về Tịnh Độ, tôi không nghĩ toàn là chánh sách ngu dân, nhưng tôi chẳng biết cụ già Thích Ca làm cho chúng sanh ngu mê để mong cầu điều gì? Cổ nhân tu Tịnh Độ có Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, chư đại Bồ Tát. Trung Quốc có Huệ Viễn, Trí Giả, Vĩnh Minh, Liên Trì, chư tổ. Lịch đại danh thần, danh nho, có Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Văn Ngạn Bác, Lữ Mông Chánh, Viên Hoằng Đạo, Bành Xích Mộc (Bành Tế Thanh), đâu chỉ vài ngàn người! Nếu bảo những vị ấy là ngu phu ngu phụ thì muốn chửi ai là ngu phu ngu phụ, chắc chắn họ là bậc đại thánh nhân trí huệ vô thượng! Đáng tiếc là chúng sanh phước bạc, chưa hề thân cận họ.
3. Tự tâm là gì, quả thật kẻ hèn này vẫn chưa biết, vẫn chưa hiểu, chẳng dám nói là đúng hay sai. Chẳng thà xin [ông hãy] hỏi vị thiện tri thức đã thốt ra [những lời ấy] dạy rõ [tự tâm] là vuông, tròn, dài, ngắn, xanh, hồng, đỏ, trắng [như thế nào] để mọi người đại triệt, đại ngộ!
* Hỏi: Tệ nhân biết chữ Hán sơ sài; do vậy, đối với khóa tụng niệm sáng tối, khó tránh khỏi đọc sai, hoặc có chỗ phát âm chẳng chuẩn. Những điều này có chỗ thiếu lễ kính, hoặc mắc tội lỗi hay chăng? (Lý Mộc Tuyền hỏi)
Đáp: Hãy nên cầu người đã từng học Phật ở nơi ấy dạy truyền khẩu cho ông, sẽ ổn thỏa!
* Hỏi: Trong kinh, những chữ lạ, hiếm thấy rất nhiều, trong từ điển thông thường cũng khó tìm thấy, chẳng biết có từ điển về cách phát âm trong kinh sách để tham chiếu hay không? (Lý Mộc Tuyền hỏi)
Đáp: Chữ trong kinh thì còn có thể tra trong tự điển được, chứ chữ dùng trong thần chú phần nhiều chẳng ghi trong ấy. Nếu nói đến chuyện học chú, bất luận có nhận biết mặt chữ hay không, theo lệ, nên cầu thầy Mật Tông truyền dạy!
* Hỏi: Trong cuốn Phật Môn Tất Bị Khóa Tụng có hai đoạn kinh tụng niệm sáng tối, chẳng hạn như khóa tụng buổi sáng từ trang hai đến trang ba mươi lăm, các trang đều phải niệm hết, hoặc là tụng một phần cũng được? Nếu tụng một phần cũng được, trong khóa tụng sáng tối nên dùng phần nào? (Lý Mộc Tuyền hỏi)
Đáp: Sách ấy vốn là khoa mục phải đọc của các khóa tụng trong chùa chiền, người tại gia chẳng cần phải phiền phức như thế, có thể chọn đọc những phần trọng yếu. Nếu chẳng thể tự quyết định, nay tôi sẽ gởi riêng cho ông một cuốn sách nhỏ có hướng dẫn cách tụng niệm đơn giản, hãy chiếu theo đó để làm thì sẽ ổn thỏa.
* Hỏi: Danh mục và chủng loại kinh sách rất nhiều, mỗi ngày luân lưu tụng niệm có được hay chăng? (Lý Mộc Tuyền hỏi)
Đáp: Nhật tụng chuyên chọn lấy một, hai thứ để làm công khóa tu trì nhất định, dùng nhiều thứ sẽ rối loạn. Nghiên cứu thì chẳng hạn định số lượng, nhưng vẫn phải lấy “có thể tiếp nhận hay không” làm chuẩn.
* Hỏi: Tệ nhân thân thể chẳng khỏe, bác sĩ chẩn đoán “sáng dậy phải ăn một cái trứng gà”; nếu ăn trứng thì có phải là phạm giới hay chăng? (Lý Mộc Tuyền hỏi)
Đáp: Trứng có sanh mạng, ăn vào sẽ là sát sanh, nhưng mỗi ngày phải ăn, tức là giết nhiều lắm! Thân thể chẳng khỏe sẽ có loại thuốc chánh đáng. Nói đến thuốc bổ thì có nhiều loại thuốc vitamin dạng viên, có thể hỏi bác sĩ chẩn đoán để châm chước sử dụng. Lại nữa, dược phẩm Trung, Tây Y chế thành thuốc bổ loại viên há phải chỉ có mấy trăm loại? Cần gì cứ nhất định phải ăn trứng gà?
* Hỏi: Sát sanh để tế thần có tội chướng hay không? Chẳng do chính mình ra tay giết thì như thế nào? (Lý Mộc Tuyền hỏi)
Đáp: Sát sanh là ác nghiệp, lẽ đâu vô tội? Tế thần nhằm cầu phước, nguyên nhân đã là ác, lẽ nào được phước? Hơn nữa, vị thần thông minh, chánh trực, ắt chẳng hưởng [đồ huyết nhục hiến tế ấy]. Nếu thần hưởng, sẽ chia sẻ tội với kẻ giết. Ngay cả trong trường hợp chẳng do chính tay ta giết, nghi là vô tội, xin hỏi vụ án thê thảm Trương Xương Niên được báo chí đăng tải gần đây, Uông Chấn trọn chẳng ra tay, nhưng họ Uông có tội hay vô tội vậy?
* Hỏi: Trong sách Kỹ Lộ Chỉ Quy, trang hai mươi, trong điều thứ nhất có những câu như “nói tới cung kính Bồ Tát thì Bồ Tát tâm rất từ bi, chuyên giúp Phật độ thoát chúng sanh”, và trang bốn mươi tám, điều thứ nhất là “đâu đâu cũng có chuyện cầu cơ, phù loan, kẻ giáng đàn chẳng phải là tiên thì cũng là Phật, xét coi giáo huấn của bọn họ có đáng tin cậy hay chăng?” Lời đáp là: “Các đàn cầu cơ ở các nơi quá nửa là do loài quỷ có linh khí, giả mạo danh hiệu tiên, Phật để giáng đàn” v.v... Nói như vậy thì ngoài Phật, Bồ Tát trong tự viện đáng nên cung kính ra, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát bằng gỗ khắc được người ta thờ phụng, lễ kính cũng có thể giáng đàn chỉ dạy, những vị Bồ Tát như vậy có nên cung kính hay chăng? Đấy chẳng phải là loài quỷ có linh khí mạo nhận danh nghĩa Đại Sĩ ư? (Dương Văn Ngọc hỏi)
Đáp: Cúng dường, cung kính là một chuyện; cầu cơ, phù loan là một chuyện khác, chớ nên nói nhập nhằng! Thờ phụng, cung kính, trọn chẳng phân biệt là chùa miếu hay gia đình, đều có công đức, hoặc ngấm ngầm, hoặc rõ rệt, đều có thể cảm ứng. Đây là lẽ thường về mặt Sự và Lý. Cầu cơ, phù loan, xét về hình tích giống như đồng cốt, bất luận trong chùa chiền hay trong gia đình đều do linh quỷ mạo danh, thuộc loại mê tín, làm càn, nên người trí chẳng chấp nhận!
* Hỏi: Do người học thường đến chùa chiền lễ Phật, xem Tứ Thập Nhị Phẩm Nhân Quả Kinh khuyên tu pháp môn Niệm Phật. Trong những sách Phật khác, chẳng thấy nói đến sự tích của Quan Thánh Đế Quân, cớ sao chùa chiền thờ tượng gỗ của Quan Thánh Đế Quân, vị này chẳng phải là Phật, mà cũng chẳng phải là Bồ Tát, cũng chẳng phải là thần kỳ, vì sao phải thờ ông ta? (Dương Văn Ngọc hỏi)
Đáp: Tứ Thập Nhị Phẩm Nhân Quả Kinh là tiểu thuyết, tuy nội dung chẳng báng Phật, nhưng nói chung toàn là những lời lẽ thiếu chứng cớ. Kể từ sau thời Tùy - Đường, Quan Thánh Đế Quân đã được thờ như một vị thần Già Lam hộ pháp truyền mãi tới nay, giống như thờ Vi Đà Bồ Tát vậy.
* Hỏi: Trước đây, do nhà chùa tặng cho kẻ học đạo một trang Phương Pháp Niệm Phật Tại Gia và [những điều được nói trong] trang ba mươi bảy và ba mươi tám sách Kỹ Lộ Chỉ Quy phù hợp với Phương Pháp Niệm Phật Tại Gia, nhưng ngoài tâm niệm Phật hiệu như vậy ra, có còn phải học Thiền Định hay không? Nếu là tại gia niệm Phật, ngoài các giới “giết, trộm, dâm, tham, sân, si” phải giữ ra, còn phải giữ giới nào nữa? (Dương Văn Ngọc hỏi)
Đáp: Niệm Phật thuộc về Tịnh Tông; nếu có thể trọn đủ ba món Tín, Nguyện, Hạnh, chắc chắn có thành tựu, không cần phải học Thiền. Bởi lẽ, Thiền mà chẳng gặp minh sư, mò mẫm trong tăm tối, tốn sức mà chẳng đạt được gì. Nếu trì Phật hiệu đến nhất tâm bất loạn, đó là Thiền Định. Tự giữ giới nơi tam thân nghiệp và tam ý nghiệp cố nhiên có công đức, nói chung, chẳng bằng cầu thầy chính thức trao truyền giới pháp sẽ hợp lẽ. Hơn nữa, còn thật sự hiểu giới tướng.
* Hỏi: Dựa theo tính toán của cư sĩ Giang Vị Nông trong Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, số năm trong một kiếp là mười ba ức bốn ngàn mấy vạn năm. Lại nữa, trong Hiền Kiếp sẽ có một ngàn vị Phật xuất thế, nhưng chỉ có thời gian cách biệt giữa hai vị Phật Thích Ca và Di Lặc lâu tới năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm. Sự sai khác như vậy khiến cho kẻ khác khá khó hiểu! (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Kiếp chia thành ba thứ tiểu, trung, và đại; cách tính toán trong các kinh luận cũng không nhất trí. Theo Trí Độ Luận, cứ một chu kỳ tăng giảm (tức là tuổi thọ con người từ mười tuổi, mỗi một trăm năm tăng thêm một tuổi, cho tới khi thọ tám vạn bốn ngàn tuổi là cực hạn; lại giảm như thế đến khi chỉ còn mười tuổi bèn không giảm nữa) là một tiểu kiếp, hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp, bốn trung kiếp là một đại kiếp. Cách tính của Giang cư sĩ là cách tính theo tiểu kiếp. Lại nữa, [thời gian] ngài Di Lặc cách đức Thích Ca, tuy nói là hơn năm mươi sáu ức năm, nhưng trọn chẳng phải là thời gian cách biệt giữa vị Phật xuất thế trước và vị Phật xuất thế sau luôn luôn là như vậy!
* Hỏi: Đối với công đức thọ trì, đọc tụng kinh Kim Cang, trong kinh ấy, đức Thế Tôn thường nói: “Ngã ư Nhiên Đăng Phật tiền đắc trị... vô không quá giả” (ta ở trước đức Phật Nhiên Đăng được gặp gỡ... chẳng để luống uổng). Công đức ấy chẳng bằng một phần ngàn vạn ức công đức trì tụng, vậy thì có phải là chư Phật trước đức Thế Tôn [Thích Ca Mâu Ni Phật] chẳng nói kinh này hay không? Nếu chẳng vậy, đức Thế Tôn sẽ khỏi phải khổ sở tu nhiều kiếp? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Tuy các đức Phật trước đó có kinh điển giống như vậy, nhưng còn khác biệt ở chỗ có gặp gỡ hay không, đấy là lý do thứ nhất. Hiện thời, kinh Kim Cang há chẳng phải là phổ biến ư? Nhưng kẻ chẳng gặp, chẳng nghe, làm sao tính nổi số lượng? Tuy tụng trì có nhiều công đức, vẫn là thiên trọng tu phước; nếu nói đến chuyện thành Phật thì vẫn phải nên tu Huệ, đoạn Hoặc; đấy là lý do thứ hai. Thử xem trong hiện thời chẳng thiếu người tụng kinh Kim Cang, nhưng ngay lập tức thành Phật, rốt cuộc được mấy ai?
* Hỏi: Thành Phật ắt phải tự giác, giác tha, giác hành viên mãn, loại công phu ấy thuần túy thuộc về nội chứng; nhưng xét ra, trình độ giác ngộ của Bồ Tát so với sự giác ngộ của Phật thì một đằng cạn, một đằng sâu, thế mà Quán Âm đã được xưng tụng là “cổ Phật hóa hiện”, cớ sao phải nhất định lui xuống địa vị Bồ Tát, mãi cho đến tương lai sẽ kế tục địa vị A Di Đà Phật? Học nhân ngu si, quả thật khó hiểu được ý này! (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Đấy đều là phương tiện thiện xảo, là tướng thị hiện độ sanh. Như đức Thế Tôn vốn đã thành Phật từ rất lâu, nhưng vẫn đến cõi này, hiện tám tướng thành đạo. Hãy nên biết những điều ấy đều là dùng thân làm gương, nhằm dẫn dụ con người tấn tu. Nếu hiểu rõ Quán Âm Như Lai không chỉ thị hiện làm Bồ Tát, mà còn thị hiện làm Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến trời, rồng, tám bộ v.v... ba mươi hai tướng, sẽ chẳng nghi ngờ chuyện này nữa!
* Hỏi: Lúc công việc rảnh rỗi, bèn hoằng dương Phật pháp, các bạn đồng nghiệp phần nhiều chẳng tin, nhưng cũng chẳng báng bổ. Có phải là kẻ hoằng dương đức hạnh lẫn học vấn cạn mỏng, chẳng có sức chiêu cảm, hay là do cái nhân của các đồng nghiệp với Phật chưa chín muồi, mong bậc đại đức ban cho phương thức tốt đẹp để lợi khắp những kẻ chấp trước! (Nhan Điền hỏi)
Đáp: Ứng cơ thuyết giáo (giảng giải giáo pháp phù hợp căn cơ của người nghe), vốn chẳng phải là chuyện dễ. Bất luận đối phương tiếp nhận hay không, đối với họ, đã gieo một hạt giống; đối với ta, tăng thêm một phần công đức, đôi bên đều được lợi ích. Đã chịu phát đại tâm ấy, đó là Bồ Tát, hãy nên tận hết sức mình, học rộng pháp môn, khuyến hóa người khác, chẳng chán, chẳng nhọc, trì lâu ngày, thường hằng, sẽ tự đạt được hiệu quả kỳ diệu!
* Hỏi: Đức Phật dạy chỗ nào cũng đều có thể là đạo tràng. Tôi hễ thuận tiện bèn nói nhân quả, có kẻ nghe xong bèn biện luận, bài bác: “Thuyết ấy chẳng hiện thực, do cổ nhân đặt ra để khuyên đời”, nên nêu chứng cứ nào để phá tâm mê ấy? Xin hãy trả lời! (Nhan Điền hỏi)
Đáp: Nêu chứng cứ bằng chuyện xưa, không gì chẳng dựa theo kinh sách, nhưng đã không tin kinh sách, có thể tin những chuyện đăng tải trên báo chí hiện thời hay chăng? Khắp nơi đều là nhân quả, tiếc là chẳng giác ngộ. Không tin tưởng sách cổ, báo chí đăng tải cũng chẳng ngộ, chỉ đành đợi tới khi đích thân [kẻ ấy] trải qua cảnh ấy, may ra sẽ tin tưởng! Tuy thân đã từng trải mà vẫn chẳng tin, dẫu Phật xuất thế, sợ cũng chẳng thể cứu kẻ ấy được! Kẻ hèn này càng không thể làm gì được!
* Hỏi: Trong các đồng nghiệp, có một kẻ tàn phế nửa người, lại ngược ngạo bảo mọi người đừng tin Phật pháp, công khai đối trước hàng Cận Sự Nam chánh tín hung hăng chửi bới Phật, Bồ Tát ầm ĩ, khiến người nghe rởn da gà, có nên tranh luận với người ấy, hay là xót thương gã đó nghiệp chướng sâu nặng, để mặc hắn sanh diệt theo nghiệp lực, chẳng đôi co với hắn? (Nhan Điền hỏi)
Đáp: Đừng bận tâm đến hắn để đôi bên khỏi chuốc lấy phiền não, ai đi đường nấy, mỗi người có nhân quả riêng.
* Hỏi: Đệ tử Phật vào phòng đỡ đẻ của vợ, rồi vào chùa Phật thờ Tam Bảo để lễ Phật, chẳng biết có phạm lỗi hay không? Nếu theo luận lý Đạo Giáo thì vào phòng sanh là nơi ô uế, chẳng thanh tịnh, đời sau sẽ mắc quả báo do tội chướng! (Lý Thanh Thủy hỏi)
Đáp: Sau khi vào phòng sanh, lại muốn về chùa lễ Phật, có thể tắm gội, hễ tâm chân thành, thân sẽ trong sạch.
* Hỏi: Nếu là cư sĩ, do hoàn cảnh gia đình, chưa quy y Phật môn, nhưng chiếu theo giới luật nhà Phật để tu trì, không biết công đức có giống như đã quy y hay chăng? (Lý Thanh Thủy hỏi)
Đáp: Đừng nên lẫn lộn giữa quy y và tu trì; nhưng đã tin thờ Phật, hãy nên quy y thì mới hợp Lý và Sự. Chỉ tu trì, chẳng quy y, tuy có công đức, nhưng thiếu sư thừa. Nếu tin thờ mà thiếu thành kính, công đức sẽ ít. Nếu quy y mà chẳng tu trì, hoặc giải đãi chẳng tiến bộ, cũng chẳng được nhiều công đức.
* Hỏi: Tại gia cư sĩ lúc mới học, nghiên cứu nông cạn, mỗi ngày tụng kinh, trong một ngàn chữ, ước chừng có một chữ đọc sai, sau đấy lại tụng đúng, chưa biết có tội lỗi hay chăng? (Lý Thanh Thủy hỏi)
Đáp: Lầm mà biết sửa, chẳng có gì tốt lành hơn!
* Hỏi: Sau khi hết thảy chúng sanh cùng lên Liên Bang, họ có tâm tấn tu vô thượng, tiếp tục tu trì hay không? Trừ lúc tu trì ra, sống lâu mà trọn chẳng tịch mịch, chán ngán, buồn bã ư? Sống đã lâu bèn lại trở vào lục đạo hay chăng? Nếu là có, hết thảy hữu tình sẽ đều là “trí nhập ngu, ngu nhập trí” lưu chuyển chẳng có kỳ hạn, như vậy thì đối với hết thảy chúng sanh và chính mình, đức Phật có ích lợi chi đâu? Thành Phật có tác dụng gì? Nếu nỗ lực tu hành, đến cuối cùng đạt được kết quả gì? (Mạc Ngã Hư hỏi)
Đáp: Chán tịch mịch là vọng tình lưu chuyển, tán loạn, qua lại trong sáu đường, bị nghiệp lực lôi dẫn luân chuyển. Tu trì là tu đến mức “nghiệp tận, tình không”. Đến cảnh giới ấy, Tịch và Chiếu cùng viên dung, đắc đại tự tại, đấy là kết quả chân thật. Nghiệp đã tận, làm sao có thể vào lục đạo (nương theo bổn nguyện [trở vào lục đạo] độ chúng sanh chẳng thuộc lệ ấy)? Tình thức đã rỗng không, làm sao có thể chán nhàm tịch mịch được? Chỉ vì tu đến mức “nghiệp tận, tình không” trong cõi này khá khó, sanh về Liên Bang dễ tu hơn. Lý khó dễ đã được chép tường tận trong các kinh luận Tịnh Độ, ở đây, chẳng thể do mấy lời bèn có thể nói trọn hết được!
* Hỏi: Xưa kia, tôi đã nghe “nhân quả ba đời chẳng sai sót mảy may” tức là nói sau mấy đời rồi mới thọ báo, hoặc sau mấy kiếp rồi mới thọ báo, dám hỏi thế gian này có khả năng vĩnh viễn an ninh, hòa bình hay không? Đợi tới khi Di Lặc tôn giả giáng sanh, trong lúc ấy, có chúng sanh thọ ác báo hay không? Chiến tranh, án mạng có phát sanh hay không? Nếu không, thì do nguyên nhân nào? (Mạc Ngã Hư hỏi)
Đáp: Đối với câu hỏi này, nếu nói nông cạn sẽ chẳng viên mãn, nói sâu sẽ khó hiểu, ở đây tôi chọn cách nói chiết trung. Chỉ có Tịnh Độ của Phật là vĩnh viễn an ninh. Cõi này có tên là Sa Bà, do cộng nghiệp của chúng sanh ác tâm hiển hiện, vốn vô thường, ắt phải trải qua các giai đoạn thành, trụ, hoại, không. Trên thế giới chẳng thể vĩnh viễn thường hằng, lẽ đâu có an ninh vĩnh viễn? Dẫu cho tới khi ngài Di Lặc giáng sanh, bất quá là hiện tượng tốt đẹp hơn thời Mạt Pháp chút ít mà thôi. Ngũ Nghịch, Thập Ác vẫn phát sanh y như cũ, thành, trụ, hoại, không vẫn lưu chuyển như cũ. Nếu thiên hạ thái bình, Phật Di Lặc tội gì phải đến cõi này!
* Hỏi: Nghe nói có Lão Mẫu Giáo[21], còn gọi là Di Lặc Phật Giáo, đồ chúng miệng chỉ niệm “Lão Mẫu từ bi, Lão Mẫu từ bi”. Theo như họ nói, [tu hành theo đạo của họ mới] có quả vị, chẳng coi chư Phật, Bồ Tát trong Thích Giáo ra gì, đó là do duyên cớ nào? Xin chỉ dạy! (Nhan Điền hỏi)
Đáp: Kẻ nghiệp chướng sâu, tâm tánh cũng rất mê hoặc. Rất đỗi mê hoặc nên thị phi điên đảo, kẻ ấy tự nhiên dễ nhập tà ma. Nghiệp nặng, chướng sâu chính là nhân; mê hoặc, điên đảo chính là duyên.
* Hỏi: Những kẻ truyền đạo của bọn họ (Lão Mẫu Giáo) đều tự xưng là “tiến nhân” (người giới thiệu, tiến cử), nắm giữ cơ cấu chung trong đạo. Họ cũng nói: Thích Giáo là Hồng Kỳ, còn bọn họ là Bạch Kỳ, chỗ nào cũng có giáo đồ. Cớ sao hội Phật giáo nơi đó chẳng làm cho họ quay về nẻo chánh, cứ để cho họ xằng bậy tự tôn, tự đại? (Nhan Điền hỏi)
Đáp: Phật giáo công khai giảng diễn, chỉ sợ chúng sanh chẳng phân tà, chánh, chẳng qua kẻ mê hoặc sâu, giống hệt như kẻ bệnh tật đã lậm đến cao hoang, hết thuốc chữa đó thôi! Chẳng phải là hội Phật giáo không khuyên dạy, chỉ là không có cách nào khởi tử hồi sanh!
* Hỏi: Nghe nói Chương Gia đại sư đã viên tịch là bậc đại đức Thiền Tông, tệ nhân bái Chương Gia đại sư làm thầy (tập thể bái sư). Nếu xét theo cá tánh của tệ nhân mà nói, tự cảm thấy nên tu Thiền Tông; nếu xét theo hoàn cảnh để nói, nên tu Tịnh Độ Tông; chẳng biết tôi nên làm như thế nào mới thỏa đáng? (Trương Duy Minh hỏi)
Đáp: Chương Gia đại sư thật ra là Mật Tông. Nên biết quy y là quy y Tăng đoàn. Trong Tăng đoàn ấy, các pháp đều có đủ. Nếu luận về cách tu, pháp nào phù hợp căn khí cá nhân cũng đều tốt đẹp. Cư sĩ đã do hoàn cảnh đáng nên tu Tịnh Độ thì hãy nên tu Tịnh Độ.
* Hỏi: Bí mật của Thiền Tông là chẳng truyền cho người khác, tệ nhân từng bái bậc đại đức trong Thiền Tông là Chương Gia đại sư làm thầy, có thể do điều kiện ấy mà hỏi đạo với bậc đại đức trong Thiền Tông hay không? (Trương Duy Minh hỏi)
Đáp: Thiền Tông trọn không có thuyết “bí mật chẳng truyền”, chớ hiểu lầm! Do tâm tánh cùng một lối, hoàn toàn do tự ngộ, chẳng thể dùng lời lẽ để truyền dạy được! Đó gọi là “ngôn ngữ đạo đoạn” (dứt bặt ngôn ngữ). Cư sĩ toan hướng về bậc đại đức Thiền Tông để hỏi đạo, chưa hề chẳng phải là điều tốt đẹp, nhưng Thiền đức là người như thế nào, trước hết phải nhận biết!
* Hỏi: Nếu tu Tịnh Độ Tông, mà nghiên cứu thêm Thiền Tông để hiểu rõ lý, có phải là sẽ tinh tấn nhanh hơn, lại còn khéo léo ở chỗ “nhất cử lưỡng tiện” hay chăng? (Trương Duy Minh hỏi)
Đáp: Bất luận tu Thiền hay tu Tịnh, đều phải hiểu lý. Nếu có thể thông hiểu sâu xa một pháp, sẽ tự hiểu những pháp khác. Trộm bàn: Nay nhằm thời kỳ Mạt Pháp, đang lúc căn tánh con người trì độn, kém cỏi, tinh thông một thứ đã khó lắm, kiêm tu sợ rằng càng khó hơn nữa!
* Hỏi: Trong Bất Khả Tư Nghị Công Đức Lục có ba đoạn nói về trình tự, cách thức tu Tịnh Độ; có phải là chọn ra bất cứ cách nào thích hợp hoàn cảnh của chính mình là được hay không? Nếu sau khi đã làm xong cách thức tu trì theo thứ tự, có thể tiếp tục tụng kinh điển hay không? Kinh điển nào so ra thích đáng, xin hãy nêu ra! (Trương Duy Minh hỏi)
Đáp: Kinh có nghiên cứu và đọc tụng sai khác, có thể tham khảo nơi trang sáu mươi mốt, trong phần trả lời câu hỏi của cư sĩ Thẩm Chung Ngũ, sẽ có cống hiến. Cư sĩ đã tính tu Tịnh, trước hết hãy nên đọc kinh điển Tịnh Độ. Nếu chẳng thông hiểu pháp môn của chính mình, mà đã xem rộng các môn khác, sợ môn nào cũng đều chẳng thành!
* Hỏi: Có nên tự soạn bài văn hồi hướng phát nguyện hay không? Vì bài do tôi tự soạn thuần xuất phát từ tự tâm, cũng giống như lập thệ, giống như là một bài tự truyện cá nhân, chẳng thể nói dối được! (Trương Duy Minh hỏi)
Đáp: Người sơ cơ chưa hiểu rõ Phật lý, sợ phát nguyện chẳng chánh đáng, hãy nên dựa theo [những bài văn hồi hướng phát nguyện] do cổ đức đã định sẽ tốt hơn. Sau này, [khi đã có] chánh tri chánh kiến thì cũng có thể tự soạn văn phát nguyện.
* Hỏi: Tệ nhân rất muốn kiêng dứt đồ mặn, nhưng thân thể lắm bệnh, suy nhược tới cùng cực do thiếu dinh dưỡng. Nếu từ bỏ những thứ như thịt, cá v.v... thân thể càng thêm suy nhược hơn, trong tình hình này, có nên giữ tâm niệm tuy ăn mà chẳng vì tham vị ngon, khi ăn luôn giữ lòng đại bi hay chăng? (Trương Duy Minh hỏi)
Đáp: Chẳng ăn thịt, cơ thể suy nhược; đối với vấn đề này, hiện tại vẫn chưa luận định dứt khoát, chưa được giới y học và khoa học khảo sát trong một thời gian dài, nên chẳng dễ dàng nhanh chóng đưa ra lời quyết đoán được! Cư sĩ vốn là kẻ sơ phát tâm, hết thảy tạm thời thuận theo phương tiện cũng chẳng phải là không được. Sau này, nếu tu học tiến hơn, sẽ có thể tự giải quyết.
* Hỏi: Chẳng biết là đối trước người chết tụng kinh, lễ sám thì là tụng cho người chết nghe, hay tụng cho người sống nghe? (Trần Liên Sanh hỏi)
Đáp: Thật ra câu hỏi “tụng cho ai nghe” chính là câu hỏi “tiêu [tội chướng] cho ai”. Ví như có người sanh ghẻ, để chữa trị, phải giải phẫu, chẳng phải là vấn đề làm cho ai xem, mà là vấn đề chữa trị cho ai!
* Hỏi: Con người sau khi chết, chẳng biết là vẫn còn đang ở linh tiền[22] hay là đã chuyển sanh theo tội nghiệp? (Trần Liên Sanh hỏi)
Đáp: Sau khi chết, trước khi vào lục đạo, sẽ có Trung Ấm Thân, thân ấy có thể bị triệu vời tới linh tiền, hoặc sau khi đã đọa quỷ đạo, cũng có thể triệu vời tới linh tiền. Trừ hai trường hợp này ra, sẽ chẳng thể triệu vời được. Nhưng hai trường hợp này đều có thọ mạng kha khá; nếu như thọ mạng đã tận, sẽ có chỗ nương gá khác, chẳng thể đến nữa!
* Hỏi: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh do vị Phật nào nói, và nói ở chỗ nào? (Trần Liên Sanh hỏi)
Đáp: Lời kinh đã nói phân minh: Do Quán Tự Tại Bồ Tát nói trong thời kỳ đức Phật giảng Bát Nhã, Ngài vâng mạng nói ra. Kinh này có mấy bản dịch tiếng Hán, xem các bản dịch thời Đường - Tống, như bản dịch của các vị Pháp Nguyệt, Trí Huệ Luân, Pháp Thành, Thi Hộ v.v... đều có những câu chữ [cho thấy kinh ấy được nói] tại núi Linh Thứu thành Vương Xá.
* Hỏi: Chẳng biết La Hầu La là do thần thông sanh ra hay do dâm dục sanh ra? (Trịnh Nghĩa Lãng hỏi)
Đáp: Lũ phàm phu chúng ta hãy nên tuân theo những gì được kinh điển xiển dương, truyền thuật, cổ đức đã nói là “thần thông thị hiện”, sao cứ phải nghi hoặc lắm nỗi? Nếu cứ muốn cầu chứng thực, chỉ có cách thỉnh vấn đức Thế Tôn, chứ lời những người khác nói đều là suy đoán mà thôi!
* Hỏi: Trong sách Phật ghi chép về tuổi tác lúc [thái tử] Tất Đạt Đa xuất gia có hai thuyết: Một là Ngài xuất gia năm mười chín tuổi, thuyết kia là năm hai mươi chín tuổi, chẳng biết thuyết nào là đúng? (Trịnh Nghĩa Lãng hỏi)
Đáp: Hai thuyết ấy đều được chép trong kinh Phật, nếu chúng ta chẳng có sự khảo cứu kha khá, chỉ đành chấp nhận cả hai thuyết. Biết thì nói biết, không biết thưa không biết, chính là thái độ của người học. Thử nghĩ những người kết tập kinh điển đều là đệ tử Phật, hoặc là người truyền lại, cách Phật chưa xa, nếu có [chi tiết nào nói] hai cách khác nhau, làm sao chúng ta có thể quyết đoán chính xác. Chẳng hạn như năm tháng đức Phật giáng sanh, cho đến nay vẫn tranh luận chưa ngớt, rảnh đâu để luận định độ tuổi khi Ngài xuất gia!
* Hỏi: Thuở Phật tại thế, thấy lũ kiến, mỉm cười nói: “Bảy đức Phật đã xuất hiện trên thế gian mà [bọn chúng] chưa thoát thân kiến”, nay thì đến chỗ nào cũng đều có kiến, có phải chúng đều mang thân kiến từ quá khứ mãi cho đến nay đó chăng? Bổn tánh của chúng có bị giảm thiểu hay chăng? (Hồng Hoàn hỏi)
Đáp: Chưa khai Thiên Nhãn, chẳng thể biết chuyện đời trước được. Suy theo lý, trong số ấy ắt có những con kiến từ trước thời thất Phật [cho tới nay] vẫn chưa thoát thân kiến, chỉ có điều chẳng thể khẳng định kiến ở bất cứ nơi nào cũng đều đã mang thân kiến từ thuở ấy. Những con kiến dẫu mang thân kiến từ trước thời bảy đức Phật, xoay vần đến nay, tánh cũng chẳng giảm; nhưng sợ là ô nhiễm càng sâu, duyên giải thoát càng mờ mịt vậy!
* Hỏi: Đức Thế Tôn lên cõi trời, vào cung rồng thuyết pháp, đó là thần thức đến hay sắc thân đến, còn như các đệ tử cùng đi theo [sẽ đến] bằng cách nào? (Hồng Hoàn hỏi)
Đáp: Đức Thế Tôn pháp lực vô biên, thần thức và sắc thân đều có thể đến được, các vị đệ tử đều là đại A La Hán, đều có thần thông, nên đều có thể cùng đi.
* Hỏi: Con người sau khi chết, đầu thai vào quỷ đạo, sẽ có cha mẹ, anh em trai, chị em gái, lục thân quyến thuộc? Hay là trơ trọi một mình? (Hồng Hoàn hỏi)
Đáp: Quỷ có thai, noãn, thấp, hóa tứ sanh. Trong những loài quỷ thai sanh và noãn sanh, đương nhiên có quyến thuộc.
* Hỏi: Học nhân có một người bạn học pháp môn Tịnh Độ, sớm tối tụng niệm công khóa kiền thành, và hằng ngày niệm Phật hiệu hơn một vạn tiếng. Gần đây có người chèo kéo học Kim Cang Đối Quyển, lại có người bạn rủ rê nghiên cứu Phật pháp, ông ta hằng ngày luyện tập giảng diễn để có thể hoằng pháp, chẳng biết học niệm Kim Cang Đối Quyển là tốt, hay học Phật pháp là tốt? (Hồng Hoàn hỏi)
Đáp: Học Phật nhằm liễu sanh tử, quý ở chỗ giải hành tương ứng, lại trọng ở chỗ tự giác, giác tha, chẳng học Phật pháp, làm sao có thể hiểu? Chẳng hiểu thì làm sao có thể giác tha? Diễn giảng Phật pháp đều đáng nên học. Niệm Phật là hành, nhưng chớ nên cầu giải mà bỏ sót hành. Còn về Kim Cang Đối Quyển, đấy chính là một thứ kinh sám ứng phó bên ngoài, người tại gia học thứ ấy có ích gì đâu?
* Hỏi: Trong sách Nhị Khóa Hợp Giải do Đài Loan Bồ Đề Thư Cục xuất bản, nơi trang mười một, trong đồ hình thứ nhất về Hoa Tạng, có nói tứ châu chính là bốn địa cầu. Có đến bốn địa cầu thì cũng không phải là chẳng được, nhưng theo sách ấy nói, địa cầu trôi nổi trong bốn biển nước mặn, tợ hồ chẳng phù hợp sự thật (bốn phía địa cầu là không khí, chẳng phải là biển nước mặt), nên giải thích như thế nào mới hòng thông suốt, hợp lý? (Trầm Chung Ngũ hỏi)
Đáp: Các tướng thế giới vốn thuộc huyễn hóa, chẳng thật, chẳng thường! “Chẳng thường” là thành, trụ, hoại, không, đổi khác trong từng sát-na. “Chẳng thật” là đều do tâm biến, chỉ có thức, chẳng có cảnh. Căn cứ theo đó, bốn châu, biển nước mặn đều vô sở hữu. Phàm những gì có tranh chấp, thảy đều là hý luận, đó là Chân Đế. Nếu nói theo Tục Đế, văn tự của cổ nhân giản lược, lại qua phiên dịch, Lô sơn có thể bị mất diện mục thật sự. Lại qua hình vẽ của người đời sau, biến thành hình thức cố định, khô cứng, [khiến người đọc] càng thêm lạc trong mây mù. Lại do nhiều người chú giải, mỗi vị chấp một lẽ, khiến cho người ta càng hiểu sai lạc, nghi ngờ nhiều hơn. Ý kiến hèn tệ của tôi cũng là đoán mò: Dường như nói một châu là một quả địa cầu cũng chẳng sao, biển nước mặn cũng không nhất thiết phải ở ngoài địa cầu! Bởi “châu” chính là đất liền ở giữa nước, có thể là đơn độc hay hợp thành nhóm sai khác, như Đài Loan là hòn đảo đơn độc, nhưng Phi Luật Tân là quần đảo. Diêm Phù Đề là một nhóm các châu, bao gồm các châu Á, Mỹ, Âu, Úc, đều cùng được bao quanh bởi biển nước mặn, phía dưới là phong luân, tức không khí bao phủ hoàn cầu. Dường như đối với những thuyết xưa nay, không có gì chẳng thích hợp!
* Hỏi: Nơi trang thứ chín mươi bảy của sách Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục có nói: “Khi duyệt kinh, chớ nên suy xét ý nghĩa của kinh”, nhưng khi dịch kinh Phật từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Hán, không gì chẳng phải là suy xét sâu xa ý nghĩa kinh, lại còn cân nhắc từng chữ. Nếu duyệt kinh chớ nên tìm hiểu, suy xét nghĩa kinh, há chẳng phải là người dịch kinh đa sự ư? (Trầm Chung Ngũ hỏi)
Đáp: Đối với kinh, người học có các cách duyệt, đọc, tụng và nghiên [khác biệt]. Duyệt là lặng lẽ xem, đọc là đối trước quyển kinh đọc ra tiếng, tụng là xếp kinh lại, đọc thuộc lòng, “nghiên” là suy xét tường tận nghĩa lý. Ba cách trước đều nhằm cầu Định, cách cuối cùng nhằm chuyên cầu Huệ, đều có giới hạn rạch ròi. Khi hành ba phương pháp trước mà nếu kèm thêm tư duy, không chỉ Định chẳng thể thành, mà ngay cả ba pháp ấy cũng đều chẳng thành! Hành một pháp cuối cùng mà nếu kèm thêm những cách khác, cũng giống như vậy! Lời của tổ Ấn Quang nói chẳng phải là không được “nghiên kinh” (nghiên cứu nghĩa lý của kinh), mà là khuyên chớ nên dùng các pháp loạn xạ!
* Hỏi: Núi Tu Di nằm giữa bốn đại bộ châu, chỉ đức Phật có thể thấy, hay là phàm phu tu hành cũng có thể thấy, hay là núi Tu Di là một danh từ tỷ dụ? (Dư Bình hỏi)
Đáp: Lời đức Phật nói có hiện lượng ngữ, tỷ lượng ngữ, thí dụ ngữ, tùy thuận ngữ, giả định ngữ. Kẻ hèn này mắt thịt, chẳng thể chứng kiến núi ấy. Cư sĩ dựa theo thánh ngôn lượng, liền tin chuyện ấy là thật sự có, cũng chẳng mắc lỗi gì!
* Hỏi: Có người hỏi một câu trong phẩm Phổ Môn: “Nhược hữu nữ nhân, thiết dục cầu nam, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện sanh phước đức trí huệ chi nam. Thiết dục cầu nữ, tiện sanh đoan chánh hữu tướng chi nữ” (Nếu có nữ nhân muốn cầu con trai, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức, trí huệ. Nếu muốn có con gái, liền sanh con gái đoan chánh, xinh đẹp), đó là nói kẻ không con nếu cầu Bồ Tát sẽ có thể sanh con. Nếu như trong mạng đã định sẵn là vô con, vẫn có thể cầu được ư? (Dư Bình hỏi)
Đáp: Trong mạng có con, sanh con trai hay con gái thì đó là chuyện thuộc khả năng của người ấy. Trong mạng không có con mà có thể sanh con thì mới là sức thần thông gia bị của Bồ Tát.
* Hỏi: Chân lý Phật giáo có phải là lấy tam pháp ấn làm đại biểu. Nếu có thứ nào khác, xin đại đức hãy dạy cặn kẽ! (Tức là chân lý của Gia Tô giáo (đạo Thiên Chúa) ở chỗ nào)? (Kha Băng hỏi)
Đáp: Tam pháp ấn[23] chính là Tiểu Thừa, Đại Thừa chỉ có một pháp ấn (tức Thật Tướng) mà thôi! Chân lý chính là cái lý chẳng thể nào phá trừ được, nên gọi là “bất khả tư, bất khả nghị” (chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ). Ắt phải phá trừ hai chấp là Ngã Chấp và Pháp Chấp thì mới có thể thấy được. [Những thứ ngôn luận] lao xao suốt ngày phần nhiều thuộc vọng ngữ, trọn chẳng phải là chân lý. Điều này chỉ dành nói với bậc trí, khó thể nói với kẻ thông tục! Kẻ chẳng có Phật trí mà nói đến chân lý thì chỉ [nói được] một mảnh vụn của chân lý mà thôi. Chân lý trong giáo pháp kia (Gia Tô giáo), tôi chẳng biết!
* Hỏi: Tam Tạng mười hai bộ kinh mỗi tạng có mấy quyển? (Kha Băng hỏi)
Đáp: Tại Trung Quốc, từ thời Tùy - Đường tới nay, các đời đã thâu thập kinh điển [đưa vào Đại Tạng Kinh] khác nhau, lại còn có các thứ phiên bản, hoặc tăng, hoặc giảm, mà số quyển của các phiên bản được thâu thập trong mỗi đời cũng đều chẳng đồng nhất. Nếu chia [theo từng triều đại] để nói, sẽ rườm rà khôn xiết! Chỉ nói tới bản cuối cùng do Tần Già Tinh Xá ấn hành[24], tổng số đã lên tới hơn tám ngàn bốn trăm quyển! Nếu chia theo Tam Tạng để nói, mỗi Tạng có bao nhiêu quyển, kẻ hèn này vô ý, chưa thể kiểm tra. Ngay như Đại Tạng Kinh được in ở Đài Bắc trong hiện thời, tuy ở ngay trước mắt, mà xét coi mỗi Tạng có bao nhiêu quyển, quả thật tôi cũng chưa hề để ý! Điều này giống như đối với căn nhà kẻ hèn này đang ở, có người hỏi: “Trên nóc nhà ông, ngói lợp có mấy miếng? Kiếng gắn cửa sổ có mấy tấm?” Bèn trố mắt chẳng đáp được, chỉ đành nói: “Để tôi coi lại rồi mới thưa!”
* Hỏi: Kinh Tạng được kết tập mấy lần? Mỗi lần cách thời đức Phật nhập diệt bao nhiêu năm? (Kha Băng hỏi)
Đáp: Đại khái, Tiểu Thừa [kết tập kinh điển] bốn lần. Có lần kết tập ngay trong năm đức Phật nhập diệt; có lần cách một trăm năm, và có lần cách hai trăm, bốn trăm, năm trăm năm. Hình như Đại Thừa kết tập một lần, sau khi đức Phật diệt độ, đã kết tập trong bảy ngày bảy đêm. Điều này dính dáng đến khảo cứu học, ắt phải đối chiếu nhiều loại sách, mới biết được đầu mối, cũng chẳng phải là vấn đề [có thể trình bày] trong dăm ba câu! Trong Thái Hư Đại Sư Toàn Thư có ghi chép cặn kẽ, có thể tra duyệt.
* Hỏi: Phật giáo từ khi nào truyền vào Trung Quốc, đến nay là bao nhiêu năm? (Kha Băng hỏi)
Đáp: Sử sách Trung Quốc ghi chép tường tận, không thể phủ nhận, là từ thời Minh Đế (28-75) nhà Đông Hán; nhưng những điều được ghi chép trong sách khác, mỗi điều đều có chứng cứ. Như theo Tây Nhung Truyện của bộ Ngụy Lược[25] và Liệt Tiên Truyện[26] của Lưu Hướng ghi chép thì trong thời Thành Đế và Ai Đế nhà Tây Hán cũng có kinh Phật. Lại nữa, thời Hán Vũ Đế, Tỳ Tà Vương tới hàng, [vua Hán được dâng tặng] vị thần mình vàng[27], chuyện này lại thuộc đầu thời Tây Hán. Theo Thập Di Ký[28] của Vương Gia, thời Yên Chiêu Vương, đạo nhân nước Thân Độc[29] tới kinh đô nước Yên. [Sách ấy] còn chép Tần Mục Công được [hiến tặng] tượng đá. Nhìn vào những điều trên đây, mỗi chuyện đều xảy ra trước [thời Hán Minh Đế]. Sách Liệt Tử lại chép thời Châu Mục Vương có chuyện hóa nhân hiện đến. Đây là thuyết sớm nhất về lúc đạo Phật truyền vào Trung Quốc. Tóm lại, đều là tìm cầu nơi dấu vết. Trung Quốc quen thói “trọng tiền, khinh hậu”, tức là kẻ tôn sùng Phật ắt muốn [đẩy thời điểm Phật giáo truyền vào Trung Quốc] sớm hơn; kẻ ghét Phật ắt muốn đẩy lùi [thời điểm ấy] chậm trễ hơn. Trừ thuyết [Phật giáo truyền vào Trung Quốc vào thời] Hán Minh Đế ra, những thuyết khác đều còn đang tranh luận chưa ngã ngũ, kẻ hèn này chẳng giỏi khảo sát chứng cứ, chỉ đem những điều chính mình đã biết để kính cẩn đáp lời mà thôi.
Phật Học Vấn Đáp Loại Biên, Phần 2
______________________
[1] Thiện đường: Các miếu thờ hay điện thờ của dân gian, hay Đạo giáo, chủ yếu là thờ cúng tạp nham thần thánh dân gian, thờ kèm thêm Phật, Bồ Tát, thường làm chuyện phước thiện như chẩn bệnh, phát thuốc miễn phí. Nhiều khi mang tiếng là “thiện đường” nhưng chỉ giới hạn phát chẩn mỗi năm vài lần, chủ yếu lên đồng, cầu cơ, chữa bệnh bằng bùa chú, tiến hành các lễ cầu an, siêu độ, trấn yểm, rước xách, cúng tế của Đạo giáo, hoặc do những kẻ hiếu sự bày đặt ra các nghi thức phỏng theo Phật giáo như trai đàn chẩn tế, thí thực v.v...
Bảo quyển: Các bản “kinh” được tin là do Phật, Bồ Tát, tiên, thánh trao truyền trong các đàn cầu cơ. Theo tổ Ấn Quang, trong nhà Phật, không hề có kinh điển nào gọi là “bảo quyển” và các vị “Phật, Bồ Tát” trong đàn cơ đều là linh quỷ mạo danh. Loan thi là các bài thơ do “thần tiên” giáng bút trong các đàn cầu cơ vì cơ bút có hình chim loan, nên còn gọi là loan bút. Người nâng cơ bút cho viết thành chữ trên mâm cát sẽ gọi là Thanh Đồng, Loan Sanh, hoặc Đồng Tử.
[2] Đây là một câu trong sách Châu Dịch: “Tinh khí vi vật, du hồn vi biến, thị cố tri hồn thần chi tình trạng”. Theo giáo sư Từ Tỉnh Dân trong Độc Dịch Giản Thuyết, câu này phải hiểu như thế này: Sanh mạng của chúng ta được bắt đầu từ âm dương giao hội của cha mẹ, thần thức bèn nhập vào thai, nhờ vào tinh khí của cha mẹ mà thành thân hình. Đó là “tinh khí vi vật”. Khi thân thể già suy, chết đi, thần hồn mất nơi nương náu, phải bềnh bồng nên gọi là “du hồn”. Đến khi gặp âm dương giao hội, cảm khí phận tương ứng bèn nương gá vào thai, lại bắt đầu một cuộc sống mới nên gọi là “du hồn vi biến”.
[3] Á nhiệt đới (subtropical): Á nhiệt đới là vùng khí hậu chuyển tiếp giữa nhiệt đới và ôn đới, thường nằm giữa vĩ độ 23,5 và 40, thuộc Bắc Bán Cầu lẫn Nam Bán Cầu.
[4] Ba mươi sáu món bất tịnh: Theo Tam Tạng Pháp Số, quyển bốn mươi tám thì ba mươi sáu món bất tịnh được chia thành ba loại: Ngoại tướng, thân khí và nội hàm. Mỗi loại gồm mười hai món. Ngoại tướng gồm là tóc, lông, móng, răng, ghèn, nước mắt, nước miếng, đàm nhớt, phân, nước tiểu, ghét (hờm), mồ hôi. Thân khí gồm da, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ chài, mỡ sa, óc, màng bọc nội tạng. Nội hàm gồm gan, mật ruột, bao tử, lá lách, thận, tim, phổi, sanh tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm trắng. Sanh tạng chính là phần phía trên của bộ máy tiêu hóa, thục tạng là phần phía dưới hệ thống tiêu hóa.
[5] Đây chính là tác phẩm Phật Thuyết Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Tướng Kinh Tiên Yếu, tức là tác phẩm chú giải kinh Phật Thuyết Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Tướng Kinh của tổ Ngẫu Ích.
[6] Đa tài quỷ: Quỷ có phước báo, được nhiều người cúng bái như vua Diêm La, Thành Hoàng, Thổ Địa, Ma Tổ, quỷ vương v.v... Nói chi tiết thì Đa Tài Quỷ tuy thuộc quỷ đạo, nhưng được ăn uống no đủ, có thế lực, thần thông, chia thành ba loại như sau:
1. Khí giả: chuyên ăn những thứ vật cúng tế đã bỏ đi (như các đồ cúng của người đời, giấy tiền vàng bạc v.v...)
2. Thất giả: Ăn những vật con người bỏ quên, để thất lạc.
3. Đại Thế: Có thế lực lớn, có phước báo, được người đời thờ phụng (như quỷ vương, Diêm La, Thành Hoàng, các vị thần kỳ), hay có oai thế có thể đoạt lấy vật thực mình mong muốn như các loài Dạ Xoa, La Sát v.v...
[7] Bạch Hổ chính là phương Tây, tượng trưng cho mùa Xuân. Thuật Phong Thủy gọi tên bốn phương theo bốn con vật linh, tức Thanh Long (phương Đông), Huyền Vũ (phương Bắc), Bạch Hổ (phương Tây) và Châu Tước (phương Nam). Thậm chí Nhị Thập Bát Tú cũng được chia theo bốn phương vị này, chẳng hạn bảy ngôi sao Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Chủy, Sâm thuộc về Bạch Hổ. Ở đây, gã thầy bói nói Bạch Hổ chủ phá tài là vì đã dựa trên bổn mạng của gia chủ bị tương khắc với hành của phương vị Bạch Hổ.
[8] Tức là bài “nguyện dĩ thử công đức, trang nghiêm Phật Tịnh Độ...” thường dùng trong Tịnh Tông.
[9] Đây là thành ngữ “vị uyên khu ngư, vị tùng khu tước” (xua cá xuống vực sâu, xua chim sẻ vào rừng rậm), có nghĩa là do hành động bất cẩn đến nỗi tạo thành tình cảnh khó khăn, lắm kẻ đối địch.
[10] Nguyên văn “dư sư” tức là gọi tắt của Kham Dư sư (堪舆師). Kham có nghĩa là cuộc đất nhô cao lên, ngụ ý hình thế của đất, Dư xuất phát từ chữ Thừa Dư có nghĩa xem xét hình thế cuộc đất. Kham Dư chính là tên gọi khác của Phong Thủy, Địa Lý hay Trạch Địa (chọn đất).
[11] Tương hình, tương khắc còn gọi là “tương sanh, tương khắc”, tức là luận định về sự xung khắc hay phù hợp theo quan điểm Ngũ Hành, chẳng hạn Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ... nhưng Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ v.v... Hoặc Dần, Thân, Tỵ, Hợi là tứ hành xung do hành của các tuổi này khắc nhau.
[12] Lục Nghệ là sáu tài năng bắt buộc Nho sĩ phải thông thạo theo lệ cổ, tức là Lễ, Nhạc, Xạ (bắn cung), Ngự (cỡi ngựa, điều khiển xe ngựa, chiến xa), Thư (thư pháp, hành văn, viết lách) và Số (tính toán, toán học).
[13] Ông Trác Chung Chấn coi mình thuộc vai sư đệ của cụ Lý, nên xưng là Đệ.
[14] Ngũ gia thất tông: Còn gọi là “ngũ phái thất lưu”. Ngũ phái là năm phái chính của Thiền Tông gồm Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn và Pháp Nhãn. Từ tông Lâm Tế, lại tách ra thành hai biệt tông là Dương Kỳ và Hoàng Long, nên trở thành bảy tông tất cả.
[15] Ngũ Đăng Hội Nguyên là bộ sử về Thiền Tông, gồm 20 quyển, do ngài Phổ Tế chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu biên tập trong niên hiệu Thuần Hựu 12 (1252) đời Tống. Gọi là Ngũ Đăng vì sách lấy tài liệu từ năm bộ truyền đăng lục trước đó là Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (do Đạo Nguyên soạn), Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (do Lý Tuân Úc soạn), Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (do Duy Bạch soạn), Liên Đăng Hội Yếu (do Ngộ Minh soạn), và Gia Thái Phổ Đăng Lục (do Chánh Thọ soạn).
[16] Đây là quan điểm về chư tổ truyền thừa trong Chân Ngôn Tông (Cao Dã Sơn Đông Mật) Nhật Bản. Tám vị tổ là Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Phật), Kim Cang Tát Đỏa, Long Mãnh, Long Trí, Kim Cang Trí, Bất Không, Huệ Quả, và Không Hải (Hoằng Pháp thượng sư). Như vậy theo quan điểm này, chỉ có một vị tổ Trung Hoa là Huệ Quả.
[17] Hiếp sĩ: Tiếng để gọi vị trợ thủ thân thiết của Phật, thường ở sát bên Phật. “Hiếp” (脅) là cái hông. Hiếp Sĩ là người ở sát bên mình, người theo ‘sát sườn’.
[18] Trạm Sơn Văn Sao là cuốn sách nhỏ tập hợp hai mươi mốt bài viết của pháp sư Đàm Hư giảng giải về các đề tài thông thường như phá trừ mê tín, căn nguyên của lục đạo luân hồi v.v...
[19] Tam hồn thất phách (có khi nói là “tam hồn lục phách”) là một thuyết của Đạo giáo. Theo đó, linh hồn của con người chia thành tam hồn (thiên hồn, địa hồn, và nhân hồn; có thuyết nói là thai quang, sảng linh và u tình. Có phái Đạo giáo lại chủ trương tam hồn là chủ hồn, giác hồn, sinh hồn). Theo đó, khi con người chết đi, thiên hồn trở về cõi trời, thuộc về Vô Cực bất sanh bất diệt. Nếu chưa tu đạo, Thiên Hồn chẳng thể quy nguyên về Vô Cực, chỉ tạm gởi ở cõi trời để đầu thai tiếp. Địa hồn sẽ đọa địa ngục, hứng chịu nhân quả báo ứng. Nhân hồn sau khi chết sẽ quẩn quanh trong nhân gian (nên mới có chuyện u hồn báo mộng, tác quái). Khi nào con người đi đầu thai, tam hồn sẽ hội tụ trở lại trong xác thân mới. Thất Phách chính là cái chủ trì thất tình (mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham muốn) của con người. Đạo giáo nói Thất Phách có tên là Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Ân, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế và Xú Phế.
[20] Nguyên văn “đại bạch ngưu xa” (thường bị hiểu lầm là “xe trâu trắng”). Theo chú giải của cổ đức, nhất là như Ngẫu Ích đại sư trong Pháp Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa đã nhấn mạnh, người Ấn Độ gọi “ngựa” là bạch ngưu.
[21] Đây chính là tên gọi khác của Nhất Quán Đạo. Do tà phái này thờ Vô Cực Lão Mẫu nên gọi là Lão Mẫu Giáo. Vô Cực Lão Mẫu (hay còn gọi là Vô Cực Thiên Mẫu, Vô Cực Thánh Tổ, Minh Minh Thượng Đế) do La Mộng Hồng (sáng tổ La Giáo) bịa ra trong các bộ kinh do hắn ngụy tạo (gọi chung là Ngũ Bộ Lục Sách) dựa theo quan niệm dân gian lâu đời về một đấng thượng đế sanh ra muôn loài thuở vũ trụ còn hỗn độn, do sanh ra muôn loài nên được nữ hóa thành Lão Mẫu. Theo họ La, do vị này có trước khi có sự phân cách trời đất, vũ trụ nên gọi là Vô Cực. Do họ La ăn trộm giáo nghĩa nhà Phật, nhất là giáo nghĩa Long Hoa Tam Hội, nên Nhất Quán Đạo đặc biệt sùng bái Di Lặc Phật, bịa ra thế giới có ba thời kỳ, nay đang bước vào thời kỳ Bạch Dương, Long Hoa chuyển thế, Di Lặc Phật chưởng quản thiên bàn, Thích Ca Phật đã thoái vị v.v... nên đạo của họ còn tự gọi đạo của mình là Di Lặc Phật Giáo.
[22] Chữ “linh tiền” thường chỉ bàn thờ người đã khuất nói chung, hay bài vị, di ảnh v.v... nói riêng.
[23] Tam Pháp Ấn là các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết Bàn tịch tĩnh.
[24] Bản này được gọi là Tần Già Tinh Xá Hiệu Xan Đại Tạng Kinh, được in từ năm 1909 đến năm 1903 do sư Tông Ngưỡng (chùa Kim Sơn, Trấn Giang) chủ trì với sự giúp sức của cụ Chương Thái Viêm, gồm 8.416 quyển, chia thành 414 tập, gồm 1.916 bản kinh, và đây là bộ kinh đầu tiên được in bằng phương pháp in hiện đại nhất thời ấy, tức là in theo lối sắp khuôn in bằng chữ chì. Bản này dựa trên Súc Loát Tạng của Nhật Bản, Gia Hưng Tạng và Càn Long Đại Tạng. Tần Già Tinh Xá ở Thượng Hải. Chi phí ấn hành do bà Liza Roos (vợ ông Silas Hardoon) hiến cúng.
[25] Ngụy Lược là một bộ sử về nước Ngụy thời Tam Quốc do quan Lang Trung Ngư Hoạn soạn, gồm năm mươi quyển. Sách này hiện thời đã thất truyền, chỉ còn sót lại vài bài được trích dẫn trong các bộ Hậu Hán Thư, Bắc Hộ Lục, Tam Quốc Chí, Pháp Uyển Châu Lâm, và Thái Bình Ngự Lãm. Tây Nhung là từ ngữ phiếm chỉ các quốc gia hoặc bộ lạc sống ở phía Tây Trung Nguyên trong thời Xuân Thu. Người Trung Hoa thuở xưa tự coi mình là văn minh nhất nên xưng là Hoa Hạ, ngụ ý những gì tốt đẹp nhất đều thuộc về họ, gọi các dân tộc chung quanh là Tứ Di, và chia ra cách gọi như sau: “Rợ” ở phương Bắc gọi là Địch, phía Tây gọi là Nhung, phía Nam gọi là Man, phía Đông gọi là Di.
[26] Liệt Tiên Truyện là sách tổng hợp những câu chuyện về bảy mươi vị thần tiên đã được lưu hành trong dân gian từ thời Tiên Tần, mở đầu bằng nhân vật Xích Tùng Tử và kết thúc bằng Huyền Tục (sống vào thời Hán Thành Đế). Lưu Hướng (77-6 trước Công Nguyên) thuộc hoàng tộc nhà Hán, quê ở đất Bái. Ông ta vốn có tên là Lưu Cánh Sanh, cháu bốn đời của Lưu Giao (em trai Hán Cao Tổ Lưu Bang), làm quan tới chức Tán Kỵ Gián Đại Phu, Cấp Sự Trung. Về sau, do bị các hoạn quan như Hoằng Cung, Thạch Hiển cấu kết sàm tấu, ông bị Hán Nguyên Đế hạ ngục, chờ xử tử hình. Sau đấy, được miễn tội chết, đuổi về làm dân thường. Những trước tác nổi tiếng của ông là Biệt Lục, Tân Tự, Thuyết Uyển, Liệt Nữ Truyện, Hồng Phạm Ngũ Hành v.v... Lưu Hướng cũng tham gia biên tập, giảo chánh Chiến Quốc Sách, Sở Từ v.v...
[27] Do tượng Phật thường được thếp vàng nên người Hán gọi Phật là “kim thân thần” (vị thần mình vàng). Trong Ngụy Thư, phần Thích Khảo Chí đã chép như sau: “Trong niên hiệu Nguyên Thú đời Hán Vũ Đế, Hoắc Khứ Bệnh đánh thắng Tỳ Tà Vương, thu được người vàng, cao hơn cả trượng. Vua gọi là Đại Thần, đặt ở cung Cam Tuyền, đốt hương, lễ bái”.
[28] Thập Di Ký do Vương Gia (quê ở An Dương, Lũng Tây) đời Tấn biên soạn, gồm mười quyển, 220 thiên. Đúng như tên gọi, các chương trong sách này đều không hoàn chỉnh. Tương truyền khi Tần Thủy Hoàng diệt sáu nước, các thư tịch, văn từ của hoàng tộc sáu nước đã bị vứt bỏ vung vãi, Vương Gia đã đổ công sưu tập những bài văn còn sót lại do dân gian lưu giữ, biên soạn thành tập sách này, chủ yếu là những chuyện kỳ lạ từ thời Bào Hy (Phục Hy), Thần Nông cho đến đời Đông Tấn.
[29] Thân Độc còn viết là Thiên Đốc, Hiền Đậu, Thiên Trúc, Tân Độ, Tín Độ đều là cách phiên âm khác nhau của chữ Sindhu (tức sông Indus hiện thời). Theo các nhà khảo cứu, do người Ba Tư đọc trại chữ Sindhu thành Hindu và người Hy Lạp đã đọc trại Hindu lần nữa thành Indus. Theo Huyền Ứng Âm Nghĩa, Sindhu có nghĩa là mặt trăng. Yên Chiêu Vương làm vua nước Yên từ năm 335 đến năm 279 trước Công Nguyên trong thời Chiến Quốc, tức cách thời Hán Minh Đế hơn ba trăm năm.
Trích từ: Phật Học Vấn Đáp Loại Biên