Hỏi: Nói về tam muội niệm Phật đã rõ nhưng có chỗ nói chưa hết, xin tóm lại một câu có thể nói hết nghĩa ấy được chăng?
Đáp: Không cần dùng đến một câu, có thể dùng một chữ cũng có thể nói hết ý nghĩa tam muội. Cái gì là một chữ? Đó là chữ nguyện. Cái gì gọi một câu? Đó là câu giới giải hành hướng. Cái nghĩa của toàn bộ này không ngoài câu giới giải hành hướng. Câu giới giải hành hướng phát xuất từ chữ Nguyện, nên gọi chỉ dùng một chữ mà nói hết ý nghĩa, hoặc nói rộng nói hẹp, cuốn vào mở ra tự do đâu có thể bị trói buộc vào một vấn đề gì!
Vì sao gọi là giới? Hành giả muốn tu tam muội nếu không giữ giới, tuy có lòng tin cũng bị ác duyên tạp nhiễm của thế gian cướp đoạt, khó khỏi trần lao, hư hoại pháp thân, làm cho sự hiểu biết theo tà ma, không được vãng sanh. Trong kinh nói: "Nếu một ngày đêm trì giới Sa di, trì giới cụ túc liền được vãng sanh." Vì vậy cần phải trì giới.
Vì sao gọi là hiểu biết (giải)? Hành giả tu hành tam muội cầu sanh Cực lạc, nếu không dùng sự hiểu biết mầu nhiệm của trí huệ, biết rõ cõi Ta Bà uế ác đáng chán, cõi tịnh độ ở phương tây an lạc đáng ưa thích. Cõi phương đông và cõi phương tây hoàn toàn trái ngược chân thật không lầm. Lại biết hai cõi uế và tịnh này hoàn toàn có đủ ở trong tâm ta, không lìa đương niệm, phải theo phương pháp nào tu có thể sanh về cõi tịnh. Trong kinh nói: "Đọc tụng kinh điển đại thừa, hiểu đệ nhất nghĩa đế, liền được vãng sanh." Vì thế hành giả cần phải hiểu rõ.
Vì sao gọi là hành? Hành giả cầu sanh tịnh độ, huệ giải đã đủ cần phải y chỗ hiểu mà lập hạnh thực hành, sáu thời hành đạo, ba nghiệp không khuyết, thẳng tiến không lui, quyết định sanh về cõi kia. Kinh nói: "Tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện một ngày cho đến 7 ngày liền được vãng sanh". Nên người tu tam muội cần phải lập hạnh.
Vì sao gọi là hướng? Hành giả muốn chắc được vãng sanh nhờ giữ giới, liễu giải, thực hành tạo ra công đức và từ vô thỉ cho đến ngày nay, tất cả căn lành lớn nhỏ đều hồi hướng về tịnh độ thì lâm chung mới chắc được vãng sanh. Trong kinh nói: "Hồi hướng nguyện sanh về nước Cực lạc như người trước khi đi sắp đặt việc nhà ổn thỏa, khi trở về sẽ được sử dụng tùy ý thích." Vì thế, cần phải phát tâm hồi hướng.
Bốn pháp môn này ý nghĩa chỉ cần một câu mà bao nhiếp hết tất cả pháp lành như người làm ruộng mùa xuân gieo, mùa hạ cấy, mùa thu trổ bông, mùa đông gặt, từ gieo đến gặt phải đúng thời gian, nếu thiếu một thì không thành. Bốn pháp môn này cũng thế, nếu bỏ thiếu một pháp thì tam muội khó thành. Cho nên, hành giả phải tu đủ 4 pháp mới viên mãn được ý nguyện.
Hỏi: Chỉ một câu này lại thành nhiều câu chăng?
Đáp: Nhiều câu chính là một câu, một câu tức nhiều câu. Một câu hay nhiều câu đều bao gồm hết ý nghĩa. Không thể nói nhiều câu nghĩa rõ ràng, một câu ý nghĩa sơ lượt. Lời nói rộng hẹp tuy khác nhau, vì đối với căn cơ, nhưng vẫn hiển bày được chánh đạo, đâu nên nói một câu hay nhiều câu phân biệt mà chỉ tùy căn cơ và tùy duyên thôi.
Hỏi: Trong làng tôi có ba gia đình, đàn ông đàn bà đều quê mùa dốt nát, không biết gì là một chữ bốn nghĩa như nói ở trên, chỉ nhất tâm xưng danh hiệu Phật, hoặc chỉ chuyên cần lễ bái mà được vãng sanh, lâm chung có thụy ứng rõ ràng là cớ làm sao?
Đáp: Chỉ trong nhất tâm (một lòng) này có pháp nào không đủ, các vị ấy đã từng hiểu rõ (giải), tin có hai cõi tịnh và uế, phát khởi hạnh trì danh (hành) hồi hướng cầu sanh tịnh độ (hướng), đã hiểu rồi hành đồng hướng về tịnh độ thì đâu có thể phá giới (giới) của Phật. Như thế bốn nghĩa đã đủ các hạnh không cần lập mà cũng thành, liền được vãng sanh thành đạt sở nguyện, đâu cho họ là ngu dốt được ư!
Hỏi: Nếu như vậy thì hành giả chỉ cần nhất tâm, các hạnh tự đủ, đâu cần lập 4 nghĩa mà làm gì?
Đáp: Nếu trước biết được 4 nghĩa mà sau được nhất tâm là người có nền tảng vững chắc, nên khi thực hành vĩnh viễn không lui sụt. Nếu người trước nhất tâm rồi sau mới biết 4 nghĩa, tuy được vãng sanh, nhưng ở trong khi đang thực hành bỗng gặp bọn tà ma ác đảng thì phần nhiều bị lui sụt. Nên biết trước khi thực hành mà hiểu 4 nghĩa là ưu tú và quyết định.
Hỏi: Tôi nghe sách khuyên tu tịnh độ từ xưa đến nay, người viết rất nhiều, lời nghĩa thuần thiện đều hợp cơ nghi đã lưu truyền khắp nhơn gian, người y theo lời dạy được vãng sanh rất nhiều, có thể nói ý nghĩa đã lan khắp, vì sao hôm nay Ngài lại viết thêm nữa, làm cho người học có chỗ hiểu khác. Nay đọc kỹ tập sách này, nghĩa nếu thuật theo cổ nhơn, thì cổ nhơn đã viết rõ rồi, không cần nói lại, nếu nghĩa quyển này có chỗ biệt lập, người nay không hiểu e thành ức kiến chăng? Nếu không phát xuất từ cổ nhơn, không biệt lập mà nói không biết đây có phải vì danh lợi chăng? Mong nghe được chỗ cốt yếu ấy?
Đáp: Lời hỏi thật dốt nát! Ông thật là kẻ khó dạy khó hiểu. Ta nghe các bậc cổ nhân khi lập ngôn đều dựa vào kinh của Phật Tổ. Đã là kinh của Phật Tổ tuy chỉ là một câu dù tất cả chúng sanh trong đại thiên số như vi trần có trí tuệ như Bồ Tát Phổ Hiền tuyên nói trãi qua một kiếp, lý thú vẫn còn chưa hết, đâu thể cổ nhơn đã nói mà người nay không thể nói ư! Đâu thể trước Phật đã nói rồi mà cổ nhơn không thể nói ư! Không biết rằng người nay không thuật lời của cổ nhơn thì lời nói và việc làm của cổ nhơn không được hiển bày. Cổ nhân không để lại lời dạy cho người nay thì ý chí và kinh nghiệm của người nay không có chỗ làm bằng chứng. Lại nữa nghĩa tuy thuật theo cổ nhân mà ý thú chẳng trùng lập, lời tuy biệt lập mà lý không khác cổ nhân. Chỉ vì thời nay cách Phật đã xa, người giải thường tạo ra nhiều mối dị đoan, tuy nói để giải quyết nghi của anh Giáp, lại thêm bệnh cho anh Ất, bệnh anh Ất vừa thuyên, bệnh anh Bính lại sanh, lần lượt chia thành nhiều ngã tẽ, giữ thêm bệnh chấp.
Sách của các Bậc Thánh Hiền tuy nhiều nhưng bị tiêu mất cũng nhiều, người hậu học căn cơ yếu chậm, cũng khó tằm và nghiên cứu. Vì thế, ở trong nhiều sách kia, chúng tôi rút những nghĩa tinh hoa giảng yếu, để giải cái lầm đương thời, góp nhiều bài thanh quyển mục đích trị lành những bệnh trầm kha, đâu có gì gọi là danh lợi. Chỗ hỏi của Ông thật sai lầm! Ví như biển cả thêm một dòng nước chảy vào, bể đâu cho trở ngại với việc sâu rộng, núi cao thêm một nắm đất, núi đâu có ghét đất làm trở ngại độ cao. Cái nghi của người đời nay, người xưa chưa nghe, chỗ thấy người xưa, người nay khó đến. Thời nay cách Phật đã xa, phải y theo kinh để biện minh cái nghi của người nay. Lại nữa, như đầy nhà chứa toàn thuốc quý, nếu không biết bệnh, chọn thuốc phù hợp cho uống, chẳng phải bệnh chẳng lành mà mạng cũng khó giữ. Lời Kinh nói ra một nghĩa có nhiều cách giải, nhiều cách hiểu đâu có lo gì lời nói được nghe lại nhiều lần, mà chỉ lo lời nói chí lý âý chưa được nghe.
Ông nay đã có duyên nghiên cứu tam muội này rõ ràng, nên lập đại nguyện, thẳng tiến trên đường đạo, cầu sanh Tịnh Độ. Cẩn thận đừng đợi đến lúc sắp lâm chung, yêu cảnh, tiếc thân, trong cảnh đau nhức như rùa bị lột võ, muôn khổ trói tâm, lúc đó ăn năn thì đã muộn.