Home > Học Phật Căn Bản
Lục Đạo
Sa Môn Thích Đạo Thế chùa Tây Minh biên soạn | Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Việt Dịch


Lục đạo này có 6 bộ.

I. Bộ thứ 1: CHƯ THIÊN

Gồm có 4 phần: Thuật ý, Hội danh, Thọ khổ, Báo tạ.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Luận về Thiên báo: Thức lại phù hoa, trang sức lung linh, hình dung lả lướt. Dù ở trên trời tự tại, cũng chỉ là chốn ma cung, đắm chìm trong định vô tưởng, vẫn trở thành chỗ ngoại đạo. Dẫu siêu việt tận đỉnh Tứ không, tà kiến chứa chất không ít, hoặc ngao du trong cõi Lục dục, mê hoặc kết tập nặng nề. Nếu chẳng thọ trì Bát nhã, quy hướng Niết bàn, kiêu mạn tăng thêm, ngã nhân càng mạnh. Bởi thế, mũ hoa trên đầu héo úa. Mồ hôi trong nách thấm chăn. Điện ngọc vụt tắt hào quang, áo trời đọng dần cáu bẩn. Nhờ tĩnh tâm này, đều sám hối trọn. Lại cùng khắp tất cả chư Thiên Tứ thiên vương, Đao lợi, Đâu suất, Dạ ma, Hóa lạc, Tha hóa, Phạm vương, Phạm phụ, Quang Âm, Biến tịnh, Quảng quả, Na hàm, Bất phiền, Bất nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Phi phi tưởng xứ. Thậm chí, ngang cùng các cõi, dọc khắp trời cao. Hoặc có vị ngồi lặng giữa đài hoa hầu vượt qua kiếp số, điều tâm trên điện ngọc, chớp mắt hóa thiên thu. Nguyện cầu áo quý không rời khỏi Thiên nhân, Thiện pháp đường luôn chờ du thưởng. Dứt bỏ đớn đau ly biệt, xóa tan gian khổ chiến tranh. Xa hẳn ngũ suy, thường giàu thất bảo. Trang nghiêm sắc tướng, sáng láng dung nghi. Lìa mãi khổ nhân, bước lên lạc quả.

Thứ hai: PHẦN HỘI DANH

Hỏi: “Sao gọi là Lục thú?”. Theo luận Tỳ đàm nói: “Thú gọi là đến, cũng gọi là đường (đạo). Nghĩa là nghiệp thiện ác ấy, nhân đường ấy, thường chuyển sinh vào cõi ấy, nên gọi là thú. Cũng có nghĩa là tùy theo nghiệp tạo tác mà vào cõi ấy, nên gọi là thú. Thú cũng có nghĩa là hướng về, nghĩa là theo nghiệp tạo tác mà sinh vào cõi Trời, thậm chí đọa xuống địa ngục”. Hỏi: “Há chỉ có sáu đường này, liệu còn đường khác không?”. Đáp: “Theo lập luận một nhà thì chỉ có sáu đường, không thêm bớt. Nếu theo trong kinh Lâu Thán thì lại có chín đường, trong đó, chúng sinh cùng chung sống. Một là đường Bồ tát, hai là đường Duyên giác, ba là đường Thanh văn thêm vào sáu đường nói trên. Đem phàm Thánh ở chung để giáo hóa nhau vậy”. Như luận Bà sa giải thích: “Thiên là quang minh chiếu diệu, nên mới gọi là thiên. Hơn nữa, thiên là điên, điên là trên đỉnh. Khắp trong vạn vật, chỉ có trời ở trên đỉnh, nên gọi là điên. Lại nữa, thiên là hiển, hiển nghĩa là hiển hiện trên cao, khắp trong vạn vật, chỉ có trời là cao nhất, hiển hiện trên cao, che phủ mọi nơi, nên mới gọi là hiển”.

Hỏi: “Vì sao đường ấy gọi là thiên?”. Đáp: “Trong các đường, đường ấy hơn hết, vui nhất, tốt đẹp nhất, cao nhất, nên mới gọi là đường Trời” (Thiên thú). Có người bảo: “Nhờ trước đây tạo tác thêm các hạnh tốt về thân, ngữ, ý nên chuyển về đường ấy, sinh vào đường ấy, khiến đường ấy liên tục không hết, nên gọi là đường Trời”. Có người lại bảo: “Hào quang tăng lên, nên gọi là Trời”. Vì hào quang tự nhiên của vị ấy thường chiếu diệu suốt ngày đêm. Kẻ luận tỏ tường nói: “Thường chiếu rõ nên gọi là thiên. Vì lấy quả hiện tại tốt đẹp chiếu rõ nhân tu tập tước đây. Lại nữa, vì hý lạc nên gọi là thiên. Vì thường du hý, hưởng lạc nhiều hơn hết”.

Hỏi: “Hình tướng chư Thiên ra sao?”.

Đáp: Hình tướng đứng thẳng lên.

Hỏi: Tiếng nói ra sao?.

Đáp: Đều nói tiếng Thánh. Hơn nữa, luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Trời tên Đề bà, nghĩa là làm nhân thiện, được sinh vào đường ấy, nên gọi là Đề bà”.

Nay bàn sơ lược về hình tướng báo thân của chư Thiên: chư Thiên đều không có xương thịt, cũng không có đại, tiểu tiện dơ uế. Thân phóng hào quang, không kể đêm ngày. Hưởng phước báo ngũ thông, không bị chướng ngại. Thế nên, kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Giống như trong một nhà có đến năm trăm ngọn đèn, ánh sáng không hề chen lấn, che lấp nhau. Trong bàn tay chư Thiên, dù có năm trăm chư Thiên cũng đứng, cũng y như thế, không chật chội, không trở ngại nhau”. Hơn nữa kinh ấy còn nói: “Trời Dạ ma ấy, hoặc có trăm vị, hoặc có một ngàn vị, cùng nhau tụ họp ngồi lên trên một cọng nhị sen, cũng không trở ngại, không hẹp hòi, không chật chội. Nhờ vào thiện nghiệp, nhờ vào tự nhiệp của mình”. Lại nữa, luận Trí Độ nói: “Sáu chục chư Thiên của Trời Biến tịnh thứ ba cùng ngồi trên đầu một mũi kim để nghe thuyết pháp, không hề đụng chạm, không hề chật chội”. Lại nữa, kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Bấy giờ, Thiên vương Dạ Ma vì chư Thiên, nói kệ rằng:

“Nếu người tâm niệm Phật, Gọi là Người thiện mạng. Vì không rời niệm Phật, Gọi là Mạng trong mạng. Nếu người tâm niệm Pháp, Gọi là Người thiện mạng. Vì không rời niệm Pháp, Gọi là Mạng trong mạng. Nếu người tâm niệm Tăng, Gọi là Người thiện mạng. Vì không rời niệm Tăng, Gọi là Mạng trong mạng”.

Lại nữa, trong Trời Dạ ma có ba vị đại sĩ thường thuyết pháp giúp cho chư Thiên phóng túng. Là ba vị nào? Một là Dạ ma Thiên vương Mâu tu luân đà Bồ tát. Hai là Thiện thì Nga vương Bồ tát. Ba là Chủng chủng trang nghiêm Khổng tước vương Bồ tát. Ba vị đại sĩ này thường vì mục đích lợi tha mà thuyết pháp, khiến cho có vị hoặc chứng được quả Thanh văn, có vị hoặc chứng được quả Duyên giác.

Thứ ba: PHẦN THỌ KHỔ

Nay thuật lại các kinh nói đầy đủ về các khổ của Thiên thú. Trước tiên, nói rõ các loại khổ ở sắc giới và vô sắc giới. Cõi thượng giới tuy hơn hết, nhưng vẫn có khổ nhỏ, nên luận Thành Thật nói: “Trong hai cõi thượng giới, tuy không có khổ lớn, nhưng vẫn có khổ nhỏ”. Làm sao biết được điều này? Trong cõi Tứ Thiền, nghe nói có bốn thứ hành, trụ, tọa, ngọa. Còn có bốn thứ ấy, nên đều còn có khổ. Lại nữa, trong sắc giới có nhãn, nhĩ, thân, thức. Ngay trong thức này, còn có các thọ, gọi là khổ lạc. Từ một uy nghi, mong ước một uy nghi khác. Nói mong ước một uy nghi khác, thì biết là có khổ. Lại không biết lý giải yêu đắm quả báo, đã nhận nên khi mất rất khổ, như trong kinh nói: “chỉ có kẻ đắc đạo, khi sắp mệnh chung, mới không có vẻ lo âu đau khổ”. Nay đã là phàm, há không có ưu khổ? Trong luận nói không khổ, vì khổ tướng nhỏ, nên mới nói không. Giống như ăn một chút ít muối, liền nói là không mặn. Chẳng phải đều chỉ có lạc mà không có khổ. Do trên thượng giới, hỷ lạc lặng lẽ, không hiện rõ ra, không bộc phát thành tham lam, sân hận thô thiển, nên mới nói là không khổ không lạc. Lại không có các khổ do chiến tranh gây ra, nên mới nói là không khổ. Thực ra, chẳng phải là không có khổ nhỏ, thế nên kinh Niết Bàn có nói: “Thế gian tuy có vườn rừng thật diệu thanh tịnh, nhưng trong đó còn có xác người vùi lấp nên không trong sạch được. Mọi người đều cùng rời bỏ, không sinh lòng yêu thích. Sắc giới cũng thế, tuy có thanh tịnh tuyệt diệu, nhưng còn có thân, nên chư Phật và Bồ tát đều cùng rời bỏ. Nếu không quán được như thế, không gọi là tu thân”.

Hơn nữa, kinh Pháp Cú Dụ nói: “Có bốn Tỳ kheo ngồi dưới tàn cây, cùng nhau vấn nạn: Hết thảy thế gian, cái gì khổ nhất? Một vị nói: “Khổ trong thiên hạ, không hơn gì dâm dục”. Một vị nói: “Khổ trong thiên hạ, không gì hơn đói khát”. Một vị nói: “Khổ trong thiên hạ, không gì hơn sân hận”. Một vị nói: “Khổ trong thiên hạ, không gì hơn sợ hãi”. Bốn vị cùng nhau tranh luận ý nghĩa của khổ, thao thao không ngừng. Phật hay được chuyện, bước đến chỗ ấy, hỏi các Tỳ kheo: “Các ông vừa bàn luận chuyện gì?”. Bốn vị đứng lên làm lễ, thưa rõ đầu đuôi. Phật bảo: “Này các Tỳ kheo, điều các ông bàn luận không đạt cứu cánh của nghĩa khổ. Khổ trong thiên hạ, không gì hơn có thân. Tất cả các tai họa đói khát, nóng lạnh, sân hận, sợ hãi, dâm dục, oán hận đều do có thân mà ra. Thân là cội gốc của mọi cái khổ, là đầu mối của mọi hoạn nạn. Lao tâm khổ tứ, lo sợ muôn bề. Ba cõi máy đông, tàn sát lẫn nhau. Nhân ngã trói buộc, sinh tử không ngừng. Tất cả đều do có thân mà sinh ra cả. Muốn lìa cái khổ của thế gian, phải cầu mong tịch diệt, nắm tâm giữ chính, lặng lẽ hư vô, mới có thể đạt tới Niết bàn. Đó là điều an vui bậc nhất. Thế nên, chưa đạt Thánh trí, diệt bỏ xác thân trong Tam giới này, làm sao không khổ?”.

Hỏi: “Sắc giới có thân thì có khổ đã đành, vô sắc giới không có hình hài, khổ thọ làm sao sinh ra?”. Đáp: “Quả báo ở đấy tinh vi, kẻ phàm phu nhỏ bé không thể thấy được. Tuy không có tướng thô lớn, nhưng không phải không có sắc tế vi”. (Bàn luận sâu rộng về chuyện có không, sẽ nói đầy đủ ở chương khác). Thế nên, luận Trí Độ nói: “Hai cõi trên thượng giới, khi chết đi hay thoái vị, thường sinh ra buồn bã nhiều hơn ở hạ giới, ví như càng cao rớt xuống càng tan nát”. Lại nữa, luận Thành Thật nói: “Khổ lạc theo thân, lên đến Tứ Thiền, ưu hỷ theo tâm, lên đến hữu đỉnh”.

Hỏi: “Sinh lên trời thì lìa ác tích thiện. Vì sao khi hết phước báo, liền bị đọa vào Tam đồ?”.

Đáp: “Kẻ phàm phu, từ vô thủy đến nay, tạo ra nghiệp ác vô cùng. Một ngày tham sân, còn chịu ngàn hình, huống gì ác nghiệp quá nhiều, chỉ tạm thời hàng phục kết sinh. Đến khi phước báo vừa hết, ác nghiệp xa xưa vừa chín, liền bị đọa vào Tam đồ. Như thế, còn nghi ngờ vào đâu?”. Thế nên, luận Thành Thật nói: “Người ở tại sắc giới và vô sắc giới thì gọi đó là Niết bàn. Đến khi lâm chung, thấy sắc uẩn trong sắc giới và dục giới, trở lại sinh tà kiến, cho rằng không có Niết bàn, phỉ bàng chánh pháp vô thượng. Như thế, cần phải biết trong đó cũng có nghiệp bất thiện”. Hơn nữa, luận Trí Độ nói: “Trong cõi Trời phi hữu tướng và phi vô tưởng, khi chết đi, bị đọa vào địa ngục A tỳ”. Thế nên, còn luân chuyển trong Tam giới thì đều có khổ”.

Thứ hai là nói rõ cái khổ của chư Thiên ở dục giới. Nghĩa là trong cõi Trời ấy, mỗi khi có chiến tranh, lần lượt xảy ra tàn sát lẫn nhau, khiến cho thân tâm đều khổ. Nếu chặt ngang đùi, các đốt xương tuy lìa, nhưng vẫn còn sống được. Nếu chặt ngang đầu ngang hông, thì có cái khổ của chết chóc. Như luận Tỳ đàm nói: “Chư Thiên ở dục giới có Thập nghiệp đạo xen tạp với bất thiện nghi. Tuy Trời không tàn hại lẫn nhau, nhưng tàn hại các đường khác, cũng có khi chặt tay chặt chân, nhưng vẫn còn sống sót, nếu chặt ngang đầu thì sẽ chết mất. Cứ thế, cũng lần lượt xâm lăng nhau, cho đến tạo đủ Thập nghiệp đạo. Hơn nữa, khi phước báo sắp hết, năm tướng suy xuất hiện thì sẽ vô cùng thảm não”. Thế nên, kinh Niết bàn có nói: “Trên trời, tuy không có chuyện khổ tâm nhiều, nhưng khi Thiên thân mềm mại linh hoạt xuất hiện năm tướng suy, thì sẽ chịu khổ nhiều vô cùng, giống như chịu khổ ở địa ngục không khác chút nào. Giống như mật trộn với thuốc độc, mới uống thấy ngọt ngào, nhưng sau đó sẽ chịu đắng cay”. Thế nên, kinh Chánh Pháp Niệm có kệ rằng:

“Như mật pha thuốc độc, Vốn không thể uống được. Thiên lạc cũng như thế, Khi mất, hết rất khổ. Nghiệp hết, mang sầu não, Xa lìa các Thiên nữ. Khi lâm chung rất khổ, Không thể nói thí dụ.

Khi thiện nghiệp sắp hết, Như đèn sáng sắp tắt, Chẳng biết đi về đâu.

Lòng sinh nhiều khổ não. Trên trời khi lâm chung, Lòng sinh nhiều khổ não. Khổ địa ngục mười sáu Chẳng bằng một khổ Trời. Hết thảy các vầng trăng, Đều do ái lực sinh. Xiềng ái cột chúng sinh, Đưa đến chỗ hiểm ác.

Tam giới như vành xe, Dây nghiệp cột không dứt.

Thế nên bỏ ái dục,

Lìa dục, đạt Niết bàn”.

Hơn nữa, kinh Niết bàn nói: “Tuy lại có được thân của Phạm Thiên, thậm chí thân của Trời tưởng phi phi tưởng, khi mệnh chung vẫn còn bị đọa vào ba đường ác. Tuy là thân Tứ vương, thậm chí là thân của Trời Tha hóa tự tại, khi mệnh chung vẫn sinh vào đường súc sinh. Hoặc làm các loài sư tử, cọp, tê giác, chó sói, voi, ngựa, bò, lừa”. Mới hay, khi báo Trời đã hết, thì thân phận sẽ rất khổ sở. Một khi đã có hoạn nạn lớn này, lập tức cởi mở thành tâm, gột rửa nghiệp ấy, sám hối sao cho tiêu tan. Nếu người ta tạo tội, khi đã chịu xong quả báo, sau đó tu thiện, giả thiết được sinh lên trời, do dấu vết tội lỗi trước đây, dù ở trên đó, vẫn phải chịu chút ít hậu quả. Thế nên, kinh Chánh Pháp Niệm có nói: “Nếu ở kiếp trước gây nghiệp trộm cắp, bấy giờ sẽ bị các thiên nữ chiếm lấy mọi thứ bảo vật đeo làm đồ trang sức, đem cho các thiên tử khác. Nếu ở kiếp trước gây nghiệp nói dối, các thiên nữ nghe lời nói, sẽ sinh ra hiểu lầm, cho là chửi rủa. Nếu ở kiếp trước gây nghiệp đem rượu bố thí cho người giữ giới, hoặc tự mình phá giới mà uống rượu, hoặc làm ra men rượu, khi lâm chung, tâm sẽ hỗn loạn, mất hết chánh niệm, đọa vào địa ngục. Nếu ở kiếp trước gây nghiệp sát sinh, sẽ có thọ mạng ngắn ngủi, bị bạo bệnh mau chết. Nếu ở kiếp trước gây nghiệp tà dâm, sẽ bị các thiên nữ lìa bỏ, để cùng các thiên tử khác vui chơi với nhau. Đây gọi là năm tướng suy, do giữ năm giới thiếu sót, bị lưới nghiệp trói buộc, phải chịu nghiệp báo ấy”. Hơn nữa, Trời Đế thích lại còn xem xét nghiệp quả ở trong điện. Kẻ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối sẽ bị đọa vào trong đại địa ngục Khiếu hoán hay trong một tám địa ngục khác, chịu đủ mọi điều khổ sở. Sau đó, từ địa ngục sinh vào đường ngạ quỷ, chịu thọ mạng lâu dài. Từ trong đường ngạ quỷ ấy chết đi, sẽ sinh vào đường súc sinh, cùng tàn sát lẫn nhau. Từ trong đường súc sinh ấy chết đi, nếu sinh vào đường người, sẽ có thân hình tiều tụy, thiếu vẻ uy đức. Nếu có chút thiện nghiệp, được sinh vào đường trời, sẽ có thân hình, dáng dấp yếu đuối. Tất cả các thứ châu báu trang sức đều thiếu vẻ sáng láng, không được các thiên nữ yêu kính. Trái lại, các thiên nữ đều ruồng bỏ, tìm đến các thiên tử khác. Do trí tuệ kém cỏi, tâm không chánh trực, bị các thiên tử khác khinh thị chê cười. Nếu gặp khi chư Thiên và các A tu la đánh nhau, sẽ bị các vị ấy giết chết, bởi còn vết tích của nghiệp ác xa xưa”.

Thứ tư: PHẦN BÁO TẠ

Theo luận Tân Bà sa nói: “Trong chư Thiên, nếu có vị sắp mệnh chung, sẽ có hai loại năm tướng suy xuất hiện: một là năm tướng suy nhỏ, hai là năm tướng suy lớn. Thế nào gọi là năm tướng suy nhỏ? Một là khi chư Thiên đi lại, chuyển động, từ trong các thứ châu báu trang sức phát ra năm thứ nhạc thanh. Dù nhạc công chơi giỏi cũng không hay bằng. Khi có vị sắp mệnh chung, các nhạc thanh này không ngân vang lên nữa. Có người nói: “Lại phát ra nhạc thanh không như ý”. Hai là hào quang phát ra từ thân của chư Thiên oai nghiêm lộng lẫy, chiếu diệu suốt đêm ngày. Thân không có bóng. Khi sắp mệnh chung, hào quang trở nên mờ tối. Có người nói: “Hào quang mất hẳn, bóng của thân lại hiện ra”. Ba là thân thể của chư Thiên bóng mịn, xuống tắm trong Hương Trì, khi vừa lên khỏi mặt nước, nước không dính vào thân. Bốn là tất cả các cảnh giới của chư Thiên đều tuyệt đẹp, siêu thoát mọi căn trần, giống vầng lửa xoay, không bao giờ ngừng. Khi có vị sắp mệnh chung, chỉ còn bám vào một cảnh giới, trải qua một thời gian, cũng không thoát bỏ ra được. Năm là thân lực của chư Thiên cường thạnh, mắt thường không chớp. Khi sắp mệnh chung, thân lực suy yếu, mắt thường chớp luôn. Thế nào gọi là năm tướng suy lớn? Một là y phục trước đây sạch, nay thì dơ. Hai là mũ hoa trước đây tươi, nay héo. Ba là nách bỗng đổ mồ hôi. Bốn là thân thể chợt sinh hôi hám. Năm là không thích ngồi yên trên chỗ. Năm loại tướng suy nhỏ nói trên, dù đã xuất hiện, đôi khi cũng có thể thay đổi. Bấy giờ, Trời Đế thích nhận thấy năm tướng suy nhỏ đã xuất hiện, liền biết chẳng bao lâu phải có năm tướng suy lớn xuất hiện, nên sinh lòng lo sợ, suy nghĩ thế này: “Nếu ai có thể cứu ta thoát khỏi tai họa của tướng suy này, sau đó, ta sẽ xin quy y”. Nghĩ xong, liền tự hiểu rằng trừ đức Thế tôn, chẳng ai có thể cứu nổi. Bèn tìm đến chỗ đức Phật, năn nỉ xin Ngài cứu vớt. Đức Phật thuyết pháp giúp cho thấy được chân đế, khiến cho các tướng suy ấy đều biến mất. Thế nên, ở trước đức Phật, Đế thích vui mừng, nhảy nhót, nói lên những lời thân thương thành kệ như sau:

“Đại tiên nên biết cho,

Tôi nay ở chỗ này,

Có lại thọ mạng Trời, Nguyện kính nhớ giữ gìn”.

Lại nữa, kinh Chiết Phục La Hán nói: “Ngày xưa, trên thiên cung Đao lợi có một vị trời, thọ mạng sắp hết, hiện ra bảy loại điềm: một là hào quang trong cổ tắt mất, hai là mũ hoa trên đầu khô héo, ba là sắc mặt trên đầu biến đổi, bốn là trên áo dính bụi, năm là trong nách đổ mồ hôi, sáu là thân hình gầy ốm, bảy là rời khỏi chỗ ngồi. Vị trời ấy lập tức suy biết sau khi mệnh chung, sẽ hạ sinh làm heo con trong bụng heo nái đầy ghẻ lở ở nước Cưu Di Na Kiệt, liền hết sức sầu khổ, không biết dự tính thế nào. Chư Thiên khác bảo rằng: “Hiện tại, Phật đang ở đây, thuyết pháp cho chúng sinh. Chỉ có Phật mới có thể giải thoát tội lỗi cho ông mà thôi!”. Vị Trời ấy liền tìm đến chỗ Phật, cúi đầu hành lễ. Chưa kịp hỏi han, Phật đã biết rõ, bảo rằng: “Tất cả vạn vật đều chịu vô thường, ông đã biết rõ điều ấy, còn ưu sầu làm gì? Muốn thoát khỏi thân heo con, hãy thường tụng tam quy y. Vị Trời ấy tụng luôn ba ngày như thế, bảy hôm sau, vị Trời ấy mệnh chung, được hạ sinh làm con trai của Trưởng giả của nước Duy Da Ly. Khi còn ở trong bụng mẹ, đã tụng tam quy y suốt ba ngày. Khi mới sinh ra rơi xuống đất, cũng quỳ tụng quy y. Lúc mẹ sinh ra, trên mình không dính máu dơ. Thị tỳ bên mẹ trong thấy, sợ hãi, bỏ chạy mất. Mẹ cũng rất lấy làm lạ, cho là quỷ quái, có ý muốn giết đi. Riêng cha biết là quý tử, bắt nuôi dưỡng chu đáo. Khi sắp lên bảy tuổi, cùng các trẻ nhỏ chơi bên đường, gặp Xá lợi phất, Mục liên, đứa bé ấy đến trước mặt hành lễ, các Thánh đều kinh ngạc. Phật bèn kể rõ chuyện trước đây ở trên trời. Đứa bé ấy rước Phật về nhà, Phật giảng kinh cho nghe, đứa bé ấy cùng cha mẹ và bà con nội ngoại đều chứng được quả A duy việt trí, nghĩa là bất thối”. (Theo kinh, trời có nhiều loại, như trong Tam giới trên đây có nói đầy đủ ba mươi hai môn.

Nay, về lục đạo, chỉ nói sơ lược bốn môn).

CẢM ỨNG DUYÊN

Trích dẫn sơ lược 6 chuyện linh nghiệm.

1. Cư sĩ Sử Thế Quang đời Tấn.

2. Sa môn Thích Huệ Ngỗi đời Tấn.

3. Hai cô gái nhà họ Luân đời Tấn.

4. Sa môn Thích Đàm Loan đời Ngụy.

5. Cư sĩ Chuyên Huyền Siêu đời Ngụy.

6. Sa môn Thích Tuệ Thiều đời Lương.

Than ôi! Thập ác duyên lớn, dễ rối nhân tâm, vạn thiên sức suy, khó cảm chân tính. Lòng gian hay nổi, việc dữ thường nghe. Đạo giáo suy vi, chánh pháp ít gặp. Bởi vậy, một hơi thở không tìm lại được, sẽ trở thành muôn kiếp chia ly, từng sát na ngắn tạm cách xa, đã chất chứa ngàn đời vĩnh biệt. Do ở tin, chê đối chọi, thiện ác chống nhau. Bọn lầm lạc ngu mê hô hào thói xấu, người hiền lương chân chánh mắc bợm gian tà. Thế nên, chánh pháp truyền sang Trung Quốc hơn sáu trăm năm, gặp nạn thôi ác, châu đàn ba lượt phá hoại. Tuy thế, họa hoạn chửa kịp dời chân, tai ương đã trút xuống chúng. Lãnh hậu quả rành rành trước mắt, chịu báo ứng thiện ác nghiêm minh nên hết đau. Ngô vương sai vây chùa, khiến xá lợi chiếu sáng. Tề vương sai hành hình, khiến dao kiếm gãy lìa. Vũ Văn phỉ báng Tăng già, khiến vết thương lở loét. Thác Bạt phá hủy chùa chiền, khiến máu mủ chảy đầy. Tôn Hạo vì tiểu vào tượng nên âm vật sinh đau. Hách Liên vì thói bạo tàn nên bị sét đánh chết. Xưa nay, bằng chứng thiện ác họa phúc ứng nghiệm đã quá rõ ràng.

Các loại truyện ký như Minh Tường, Báo Ứng, Cản Thông, Oan Hồn, U Minh. Sưu Thần, Tinh Dị, Pháp Uyển Hoằng Minh, Kinh Luật Dị Tướng, Tam Bảo Trưng Ứng, Thánh Tích Quy Tâm, Tây Quốc Hành Truyện, Danh Tăng Cao Tăng, Minh Báo, Thập Di, lên đến mấy trăm, không thể kể hết. Tất cả đều đưa vào điển tịch, lưu lại với thời gian, đủ cho mọi mắt cùng xem, mai sau khỏi sinh ngờ vực, cho đó là chuyện ho ang đường. Thế nên, kinh nói: “Làm thiện, được thiện báo, làm ác chịu ác báo”. Kinh Dịch nói: “Nhà tích lũy điều thiện chắc chắn sẽ có phước đức nhiều, nhà chồng chất tội ác chắc chắn sẽ chịu nhiều tai họa”. Cho hay, sự báo ứng của thiện ác có ảnh hưởng tương quan, thực chứng về khổ lạc vốn dĩ thường hay xung khắc.

Tôi tìm tòi khắp các truyện ký, có hơn bốn ngàn, có chọn lựa những chuyện hiển linh. Mỗi chuyện đều chú xuất xứ ở cuối. Nếu không dẫn chứng ra đây, sợ khó bài trừ tà thuyết. Còn như vô số chuyện khác, xin chờ bổ túc mai sau.

1. Sử Thế Quang là người Tương Dương đời Tấn: mất vào năm

Hàm Hòa thứ tám ở Vũ Xương. Bảy ngày sau, Sa môn Chi Pháp Sơn tụng Tiểu phẩm Bát nhã cầu siêu, mệt quá nên hơi sao lãng, thoáng nghe trên linh vị như có tiếng người. Trong nhà họ Sử có người tớ gái, tự là Trương Tín, thấy Thế Quang trên bàn thờ, chỉnh tề như lúc còn sống, nói với mình rằng: “Ta vốn phải đọa làm rồng, nhờ Hòa thượng họ Chi tụng giúp kinh nên được các vị Đàm Hộ, Đàm Kiên rước lên chỗ an vui trên Trời Phạm Thiên thứ bảy”. Hai vị này đều là Sa di đã mất của Hòa thượng họ Chi. Sau đó, Hòa thượng họ Chi lại đến tụng giúp Đại phẩm Bát nhã. Họ Sử lại về trên bàn thờ. Lúc sinh tiền, họ Sử có cúng dường cho nhà chùa hai tấm cờ phướn, bấy giờ đang tôn trí ở chùa. Họ Sử bèn gọi: “Trương Tín hãy cầm cờ phướn đưa ta về!”. Trương Tín dạ xong, liền chết mất. Cả hai cùng bay về phía Tây Bắc, lên một ngọn núi xanh như pha lê. Đến đỉnh núi, trông thấy cửa trời. Thế Quang tự tay cầm lấy cờ phướn, bảo Trương Tín quay về, giao cho một khối hương xanh như ba đậu, bảo rằng: “Đem dâng cho Chi Hòa thượng”. Trương Tín chưa chịu quay về, đứng nhìn xa xa, thấy Thế Quang đi thẳng vào cửa trời. Sau đó, Trương Tín theo đường cũ quay về. Bỗng nhiên sống lại, nhưng không thấy khối hương xanh trong tay. Cờ phướn cũng y như cũ trong chùa. Khi Thế Quang và Trương Tín từ nhà bay đi, đứa con sáu tuổi của ông thấy được, đưa tay lên chỉ nói với bà nội rằng: “Cha con bay lên trời, bà nội có thấy không?”. Về sau, Thế Quang cùng hàng chục người trở về nhà. Dùng dằng một hồi rồi mới ra đi. Mỗi khi trở về, đều thấy đội mũ, cài trâm. Khi đi, chỉ còn búi tóc lộ ra. Trương Tín đem hỏi, liền trả lời: “Trên trời có mũ riêng, không cần mang thứ này”. Sau đó, bèn đội mũ trời, cùng các người trời đánh đàn, ca hát, đi thẳng lên nhà của mẹ mình. Trương Tín hỏi: “Thường trở về như thế để làm gì? Ông trả lời: “Để làm cho mọi người biết rõ tội phước, đồng thời cũng để làm vui lòng mẹ ta”. Tiếng đàn trong trẻo tuyệt diệu, không giống tiếng thế gian. Mọi người lớn nhỏ trong nhà đều nghe cả. Tuy nhiên âm vận mơ hồ như có vách tường ngăn cách, không được nghe trực tiếp trước mắt. Riêng một mình Trương Tín được nghe Thánh thót rõ ràng. Một lúc sau lại ra đi, Trương Tín theo tiễn chân, thấy Thế Quang đi vào trong một cửa lớn màu đen, giây lát lại ra đi, nói rằng: “Cha ta ở trong này, hằng ngày bị đánh đòn, đau đớn không thể chịu nổi, ta vừa vào thăm xong. Ông cụ mắc tội giết người, nên phải chịu quả báo ấy. Phải về báo cho mẹ ta, rước tăng đến tụng kinh, mới có thể giải thoát đôi chút”. Cha của ông chính là Khinh xa tướng quân Chung Báo. (Chuyện trên đây rút ra từ Minh Tường Ký).

2. Ngài Thích Huệ Ngỗi ở Trường An đời Tấn: không rõ người ở đâu, trụ tích tại chốn tùng lâm ở Trường An, gữ gìn giới hạnh thanh tịnh. Phần nhiều ngài ở trong hang động, tu tập Thiền định. Có một con quỷ không đầu hiện ra, mà thần sắc ngài không hề biến đổi, liền bảo con quỷ ấy rằng: “Nhà ngươi không có đầu, như vậy, không sợ đau đầu, sung sướng nhất đời!”. Con quỷ ấy biến mất. Sau đó lại làm con quỷ không bụng hiện ra, chỉ có chân tay. Ngài liền bảo: “Nhà ngươi không có bụng, như vậy không có lo âu về ngũ tạng. An vui nhất đời!”. Giây lát, con quỷ lại biến thành hình khác, ngài liền lự lời đuổi đi. Sau đó rất lâu, trời đổ tuyết lạnh buốt, có một cô gái đến xin ở lại, tướng mạo đoan trang, y phục đẹp đẽ, nhan sắc thùy mị, tự xưng là thiên nữ, thấy ngài có đạo hạnh nên trời sai xuống đây để cùng an ủi. Đem lời dục ra khiêu khích ý ham muốn. Ngài giữ chí cứng rắn, không hề rối lòng, bảo cô gái ấy: “Lòng ta như tro nguội, đừng mong đem túi da ấy ra thử thách!”. Cô gái ấy bèn đạp mây bay đi và quay lại than rằng: “Nước biển có thể cạn kiệt, núi Tu di có thể ngửa nghiêng, nhưng vị Thượng nhân này vẫn giữ chí chắc chắn kiên trinh!”.

Về sau, vào năm Long An thứ ba đời Tấn, ngài cùng Pháp Hiển đi sang Tây Vực, không rõ cuối cùng ra sao. Nối pháp có Thích Hiền Hộ, họ Tôn, người Lương Châu, đến trụ tích ở chùa Diêm Hưng, vùng Quảng Hán. Ngài thường tu tập Thiền định, tinh chuyên giới luật, không sai phạm mảy may. Ngài viên tịch năm Long An thứ năm đời Tấn. Khi sắp hóa, trong miệng phóng ra hào quang ngũ sắc, chiếu diệu khắp chùa. Ngài dặn dò hỏa táng di thân, đệ tử vâng theo. Sau khi tất cả xương cốt đều cháy, chỉ còn lại y nguyên ngón tay. Vì thế, đệ tử đem chôn dưới tháp của ngài. (Chuyện trên đây rút từ Lương Triều Cao Tăng truyện).

3. Hai cô gái nhà họ Luân đời Tống: vốn người Tăng Thành ở Đông Quan, là chị em chú bác. Năm Nguyên Gia thứ chín, chị lên 10, em lên 9. Do ở chỗ quê mùa, càng thêm ngu muội, chưa từng biết đến kinh điển. Bỗng nhiên vào ngày mồng 8 tháng 2, cả hai chị em đều mất tích. Ba ngày sau lại trở về, nói lờ mờ được gặp Phật. Vào ngày rằm tháng chín, lại mất tích. Một tuần sau mới trở về, biết nói tiếng ngoại quốc, tụng được kinh bằng tiếng Phạm. Gặp Sa môn ở Tây Thành, liền được khai ngộ. Vào ngày rằm tháng giêng năm sau, bỗng nhiên lại mất tích. Người làm ruộng bảo rằng: “Thấy hai chị em theo gió bay thẳng lên trời”. Cha mẹ kêu khóc, lo lắng. Cùng thần cầu phước lành. Qua hết một tháng, lại trở về, đã xuống tóc làm ni, mặc đầy đủ pháp phục. Cầm tóc kể rằng: “Gặp Phật và Tỳ kheo ni dạy rằng các con vốn có nhân duyên từ kiếp trước, nên làm đệ tử của ta. Rồi lấy tay xoa lên đầu, tóc liền rơi xuống. Lại ban cho pháp danh, chị là Pháp Duyên, em là Pháp Thải. Khi sắp cho về, còn bảo rằng các con có thể cất chùa, ta sẽ ban cho kinh điển”. Sau khi cô gái ấy trở về nhà, liền phá hủy bàn thờ ma quỷ, xây cất lên một ngôi chùa. Đêm ngày ăn chay tụng niệm. Tối đến, thường có hào quang chiếu diệu lên tới đỉnh núi giống như đèn đuốc. Từ đó về sau, hai cô gái ấy có phong thái thanh nhã, ăn nói trang nghiêm. Thậm chí, cốt cách trên chốn kinh đô cũng không hơn được. Thứ sử Vi Lãng đến tận nhà tham kiến và rước về phủ cúng dường. Nghe lời đàm luận, Thứ sử hết sức kinh ngạc và khâm phục. Nhờ thế, khắp chốn hang cùng ngõ hẻm đều biết thờ Phật. (Chuyện trên đây rút từ Minh Tường ký).

4. Sa môn Đàm Loan ở chùa Huyền Trung trong động Thạch Bích tại Tây Hà đời Tấn: chưa rõ họ tên, gia thế, chỉ biết ngài là người đất Nhạn Môn, gần núi Ngũ Đài nổi tiếng hiển hách uy linh khắp chốn nhân gian. Vì bệnh suy nhược tinh thần, ngài đi chửa trị khắp nơi. Đến lăng cũ của nhà Tần ở Phần Châu, ngài vào thành, ngắm mây xanh trên cửa Đông. Bỗng thấy cửa trời mở rộng, bày ra các ngôi vị của trời lục dục, trên dưới đều chập chùng san sát. Nhờ thấy cảnh tượng này, ngài liền bớt bệnh. Sau sang thăm chỗ ẩn cư của họ Đào ở Giang Nam, tìm hỏi tiên thuật, mong được trường thọ và lên chơi các núi non tiếp cận phía trước vùng này, lòng rất thích thú. Họ Đào đem tặng mười quyển sách về thuật tu tiên để đáp tạ thành tâm cầu học của ngài. Khi về đến Triết Giang, có vị thần tên là Chàng Bảo, hễ mỗi lần vùng vẫy, sông liền dậy sóng bảy ngày mới yên. Gặp lúc sông vừa dậy sóng, không thể nào qua được. Ngài bèn đến miếu thần, thành tâm cầu khấn, như được đáp ứng, sẽ xin xây lại miếu. Giây lát, thần hiện nguyên hình, như người trạc tuổi hai mươi và bảo rằng: “Nếu muốn qua sông, sáng mai mới được. Xin đừng nuốt lời!”. Sáng hôm sau sóng vẫn hung hãn, ngài vừa xuống thuyền, sóng liền lặng yên. Nhờ thế, ngài được qua sông. Vua nhà Lương kính trọng ngài, ban sắc phong Chàng Bảo làm giang thần và sai cất lại miếu thờ. Sau đó, ngài từ biệt nhà vua, trở về đất Ngụy, ý muốn tìm chốn danh sơn tu luyện theo thuật thần tiên. Đến Lạc Hạ, gặp ngài Tam tạng Pháp sư người Trung Quốc là Bồ Đề Lưu Chi. Ngài hỏi: “Phật giáo có phương pháp trường sinh bất tử nào hơn thuật tu tiên của Trung Quốc không?”. Ngài Bồ Đề Lưu Chi nhổ phẹt xuống đất, bảo rằng: “Nhà ngươi nói gì bậy thế? Chẳng có gì để cùng so sánh cả! Ở thế gian này, chỗ nào có được thuật trường sinh bất tử? Giả sử có được, cũng chỉ bất tử được một thời gian ngắn ngủi. Rốt cuộc, cũng rơi vào vòng luân hồi lẩn quẩn trong tam giới mà thôi!”. Lập tức trao cho kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và dặn dò: “Đây chính là thuốc đại thần tiên, y theo tu hành, sẽ được giải thoát sinh tử, dứt hẳn luân hồi”. Sau đó, ngài dời về chùa Huyền Trung trong động Thạch Bích ở Bắc Sơn tại Phần Châu, chuyên tâm theo kinh ấy tu tập pháp môn Tịnh độ. Năm sáu mươi bảy tuổi, sắp đến ngày viên tịch, cờ phướn, lọng báu chiếu diệu sáng rực cả chùa. Hương thơm tỏa ra ngào ngạt, tiếng âm nhạc nổi lên vang lừng. Những người sửa soạn lên chùa đều cùng trông thấy. Ngài viên tịch vào năm Hưng Hòa thứ tư, tại chùa trên núi Bình Diêu, thọ 67 tuổi. (Truyện trên đây rút ra từ Lương Cao Tăng truyện).

5. Phó quan Huyền Siêu, tự là Nghĩa Khởi, làm việc ở quận Tế Bắc đời nhà Ngụy: khoảng niên hiệu Gia Bình. Ban đêm nằm ngủ một mình, mơ thấy có thần nữ đến kề cận, tự xưng là thiên nữ, gốc người Đông Quận, họ Thành Công, tên tự là Tri Quỳnh, cha mẹ mất sớm. Thiên đế thương hoàn cảnh cô đơn khổ sở, cho phép hạ giới lấy chồng. Trong mơ tinh thần sảng khoái, liền thức giấc, vì cảm xúc nhan sắc xinh đẹp kỳ diệu của nàng không giống người thường. Tỉnh ra, hết sức nhớ nhung, nghe như còn đồng vọng mơ hồ đau đây. Cứ thế, suốt ba bốn đêm liền, bỗng nàng hiển hiện đến chơi, đi bằng xe che màn, có tám tỳ nữ theo hầu, mặc áo lụa là thêu may rực rỡ, hình dung nhan sắc như tiên bay. Tự xưng đã bảy mươi, nhưng trông chừng như con gái mười lăm, mười sáu tuổi. Trên xe có sẵn bầu, khạp đựng rượu bằng pha lê trắng trong suốt, năm loại chén ăn uống và đủ các thức ăn kỳ lạ. Rồi cho bày dọn thịt, mời Nghĩa Khởi cùng ăn uống, bảo rằng: “Thiếp là ngọc nữ trên trời, được phép hạ giới, nên mới đến với chàng. Không ngờ chàng có phước đức, duyên phận từ kiếp trước, xứng đáng kết nghĩa vợ chồng. Dù chẳng đem lại lợi ích gì, nhưng cũng không làm chàng thiệt thòi gì cả. Mỗi lần đến đây, đều có xe tốt ngựa khỏe, ăn uống sẵn có món ngon vật lạ, lụa là may mặc đầy đủ. Nhưng thiếp vốn là thần tiên, không thể sinh con cho chàng, cũng không có tính ghen tuông, không gây hại đến chuyện hôn nhân của chàng”. Từ đó, hai người trở thành vợ chồng. Nàng tặng một bài thơ như sau:

“Trổ tài bay phiếu diễu, Rong chơi gặp núi mây. Hương trời chẳng trang điểm, Đức lớn hợp sum vầy.

Thần tiên không xuống bậy, Đúng hẹn mới tìm đây.

Cưới thiếp giàu năm họ, Phụ thiếp gặp họa ngay”.

Đấy là đại khái về bài thơ. Còn một bài văn dài hai trăm chữ, không thể chép hết. Nàng còn chú giải kinh Dịch gồm bảy quyển, nói về bói toán tốt xấu. Nghĩa Khởi đều lãnh hội được ý nghĩa. Làm vợ chồng ăn ở được bảy, tám năm, sau đó cha mẹ Nghĩa Khởi cưới vợ cho chàng. Từ đây, chia ra ngày lánh mặt, đêm chung cùng. Tối đến, sáng đi, thấp thoáng như bay, chỉ có một mình Nghĩa Khởi thấy được nàng, người khác không thể gặp được. Tuy trong nhà kín đáo vẫn nghe tiếng người, thường thấy dấu tích, nhưng không thấy được hình dung. Về sau, có người lấy làm lạ, gạn hỏi, Nghĩa Khởi đem ra tiết lộ, mới đổ bể sự tình. Ngọc nữ liền xin ra đi, và nói rằng: “Thiếp là thần tiên, tuy cùng chàng giao du, nhưng không muốn người khác biết đến. Tính chàng không được kín đáo, thiếp đã cùng chàng gắn bó lâu nay, tình sâu ng hĩa nặng, một sớm chia lìa, há không đau đớn chăng? Sự thế không thể dùng dằng được nữa, mỗi người đành phải cố gắng chịu đựng”. Kêu người hầu đem rượu thịt ra ăn uống, mở giỏ lấy một bộ quần áo lót đã dệt xong, ban cho Nghĩa Khởi và tặng một bài thơ. Cầm tay chia ly, nước mắt lã chã tuôn đầy, rồi trang trọng lên xe đi như bay. Nghĩa Khởi đau thương chồng chất tháng ngày, gần như không dậy nổi. Về sau, đến Tế Bắc, đang đi trên đường núi Ngũ Sơn đổ về phía Tây, Nghĩa Khởi nhìn xa xa, đầu khúc quanh, thấy một xe ngựa giống của Tri Quỳnh, vội vàng chạy đến trước xe, đúng là ngọc nữ! Liền vén màn gặp mặt. Hết buồn tủi đến vui mừng. Tri Quỳnh nhường chỗ cùng ngồi chung xe đến Lạc Dương, nối lại tình nghĩa vợ chồng, hàn gắn môi duyên xưa. Đến niên hiệu Thái Khang vẫn còn, nhưng họ không gặp nhau hằng ngày. Thường vào ngày mồng ba tháng ba, mồng năm tháng năm, mồng bảy tháng bảy, mồng chín tháng chín, mười một tháng mười một, mới xuống ở lại với nhau rồi lại đi. Tiên sinh Trương Mậu nhân chuyện này làm bài phú Thần Nữ. (Truyện trên đây rút từ Sưu Thần Ký).

6. Sa môn Thích Tuệ Thiều ở chùa Long Uyên tại Thục quận đời nhà Lương: họ Trần, vốn gốc là người Thái Khâu ở Dĩnh Xuyên, ngài bẩm chất thanh tịnh, sáng suốt thông minh xuất chúng. Vào năm năm mươi bốn tuổi, ngài viên tịch trong Ma ha diễn đường của chùa. Bấy giờ, có người ở Ứng Thủy, thuộc Thành Đô tên là Phong Hiền bị bệnh chết, nhưng trên ngực vẫn còn ấm, mãi đến năm hôm sau mới tỉnh lại, kể rằng: “Tôi bị dẫn đến vua Diêm La chịu phân xử thì nghe nói đón Pháp sư. Giây lát sau thì ngài đến. Nhà vua bước xuống cung điện, chắp tay đảnh lễ. Xong xuôi, không nói năng gì cả, chỉ viết lên văn thư một chữ “chính” theo lối đại tự. Ngài Tuệ Thiều bước ra phía ngoài, ngồi dưới gốc cây bên đường trống vắng, thấy một tiểu đồng lấy giỏ bằng gỗ liễu phủ sơn đội đến một cà sa lạ hoắc, bảo ngài mặc vào. Có chừng mười vị tăng đến đón. Trong đó, Phong Hiền quen biết hai vị là các thiền sư Từ và Hòa. Cờ phướn, lọng báu sắp xếp chật đường. Rồi cả đoàn cưỡi hư không bay đi”. Hơn nữa, vào đêm ngài viên tịch, có vị ni ở chùa An Phố, mắc bệnh đã lâu, rầu rĩ khô héo. Tối đó, chết đi sống lại, kể rằng: “Ta đưa Pháp sư Tuệ Thiều cùng năm trăm vị tăng bước lên cầu làm bằng bảy loại bảo vật, vào đến giảng đường trên thiên cung. Chỗ ấy giống như thủy tinh, có đầy đủ chiếu giường hoa mỹ, cũng có phất trần, bàn ghế, hoa sen nở đầy ao. Pháp sư Tuệ Thiều ngồi xuống pháp tọa đàm luận. Một lát, đứng lên bảo những người đi đưa hãy ra về”. Chuyện giao cảm với điềm linh về lẽ sinh diệt của những vị ấy, đại khái đều như thế cả. Pháp sư viên tịch vào ngày mồng ba tháng bảy tại chùa Long Uyên, họ năm mươi bốn tuổi, nhằm năm Thiên Giám thứ hai đời nhà Lương.

(Chuyện trên đây rút từ Lương Cao Tăng truyện).

II. Bộ thứ 2: NHÂN ĐẠO

Gồm có tám phần: Thuật ý, Hội danh, Trụ xứ, Nghiệp nhân, Quý tiện, Bần phú, Thọ khổ, Cảm ứng duyên.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Than ôi! Luận trong đường người: hình hài giả dối, gây nhiều nghiệp tội, thích tạo oan khiên. Đạo đức tiêu tan, ân nghĩa đoạn tuyệt. Bởi thế, Thôi Trữ giết vua, Cao Thần hại bố. Thất hùng tranh bá, vạn quốc liên minh. Xa xỉ đua đòi, hoang dâm lộ liễu. Thuần phong mất sạch, mỹ tục chẳng còn. Tam độc hoành hành, thập triều bộc phát. Tứ lưu đầy đẫy, ngũ uẩn mịt mờ. Điên đảo vô minh, càng thêm quá quắt. Khiến cho: thân thể như cây đang ngã, tính mạng tự thành sắp nghiêng. Mật dính miệng dễ bị tiêu tan, dầy bò giếng khó được bền vững. Dưới tùng đầu mả, khóc lóc thảm thương. Ngõ rộng cửa dày, thở than sùi sụt.

Nay hết mọi người, đều xin sám hối. Cũng thân phận chân vuông đầu tròn, từ trí đến ngu, Tây tới Cù Da, Đông tận Vu Đãi, Bắc cùng Đơn Việt, Nam hết Diêm phù, cho đến túp lá lều da, vẽ mình bới tóc, nuốt sống ăn tươi, nằm hang ở tổ, xăm mình nhuộm răng, đứng ngược đi nghiêng, nước nhẹ nổi mình, núi cao dây bám, biên cương trấn thủ, giáo cắp giáp mang, dây buộc xích ràng, khiêng cây đội sắt, cùng nguyện: sửa mình nhân nhượng, tỏ vẻ hiếu từ. Dẹp tâm phóng đãng, bỏ thói hoang dâm. Thân tựa đá vàng, thể như non lớn. Bát khổ không thể xâm lăng, cửu hoạnh đuổi xa mãi mãi!

Thứ hai: PHẦN HỘI DANH

Theo trong luận Bà sa giải thích: “Gọi người là có ý chận đứng, nên mới gọi là người. Nghĩa là trong lục đạo, thường có ý chận đứng, nên mới gọi là người. Nghĩa là trong lục đạo, thường có ý chận đứng phiền não, ác loạn, thì không có ai hơn người, nên mới gọi là có ý chận đứng. Vả lại, nhân là nhẫn, nghĩa là đối với tình thuận, nghịch ở thế gian, thường vui vẻ chịu đựng, nên gọi là nhẫn”.

Hơn nữa, luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Vì sao Nhân đạo gọi là Ma nậu sa? Chữ này có tám nghĩa: một là vì thông minh, hai là vì hơn hết, ba là vì có ý tinh vi, bốn là vì chánh giác, năm là vì trí tuệ tăng thêm, sáu là vì có thể phân biệt thật hư, bảy là vì làm pháp khí của chánh pháp, tám là vì sinh ra nghiệp thông tuệ. Do đó, mới gọi là Nhân đạo là Ma nậu sa”.

Hơn nữa, trong luận Tân Bà sa có câu hỏi: “Vì sao đường này gọi là Mạt nô sa? Vì ngày xưa có Chuyển luân vương tên là Mạn ngân đa nói với mọi người rằng: “Các người muốn hành động, trước tiên, phải suy nghĩ, cân nhắc, quan sát”. Bấy giờ, mọi người làm theo lời Chuyển luân vương chỉ dạy. Khi muốn hành động, trước tiên đều suy nghĩ, cân nhắc, quan sát. Nhờ thế, đối với các loại nghề nghiệp thủ công đều được khéo léo. Vì thường đem ý tứ suy nghĩ, quan sát công việc như thế, nên gọi là Mạt nô sa”. Có người nói: “Vì trước đây có làm tăng trưởng các hạnh tốt về thân, ngữ, ý cấp thấp, được sinh vào đường ấy, khiến đường ấy trở thành liên tục, nên mới gọi là đường người”. Có người nói: “Vì nhiều kiêu mạn, nên gọi là người. Bởi lẽ kẻ kiêu mạn trong năm đường kia không nhiều bằng người”. Có người nói: “Vì thường có ý tịch lặng, nên gọi là người. Bởi lẽ, kẻ có ý tịch lặng trong năm đường kia không bằng người”. Thế nên, Khế kinh bảo: “Người có ba sự kiện hơn hẳn chư Thiên: một là dũng mãnh, hai là biết ghi nhớ, ba là có Phạm hạnh”.

Thứ ba: PHẦN TRỤ XỨ

Như luận Bà sa nói: “Bốn giống người trong thiên hạ cư trú trong

bốn châu lớn là Thiệm Bộ, Tỳ đề ha, Cù đà ni và Câu Lô, đồng thời cũng cư trú trong tám châu trung gian. Là tám châu nào? Ấy là châu Câu Lô có hai châu thân thích: một là châu Đoản Lạp Bà, hai là châu Kiêu Lạp Bà. Châu Tỳ đề ha có hai châu thân thích: Một là Châu Đề ha, hai là Châu Tô ha. Châu Cù đà ni có hai Chân thân thích: một là châu Xá Hào, hai là châu Ốt đát La Mạn Đát Lý Noa. Châu Thiệm Bộ có hai châu thân thích: một là châu Già mạt la, hai là châu Phiệt La Già mạt la. Người trong tám châu này có hình thù thấp nhỏ, giống người lùn loắt chắt ở đây”. Có người nói: “Bảy châu đều do người cư trú, chỉ có châu Già mạt la thì do La sát bà cư trú”. Có người nói: “Ở đây nói tám, tức là tên khác của bốn châu lớn. Vì mỗi một châu đều có hai tên gọi. Nói như thế thì theo trên, trong tám châu này, mỗi một châu lại có năm trăm châu nhỏ làm thân thích. Trong đó hoặc có người cư trú, hoặc không có người cư trú, hoặc có người tu hành cư trú”.

Hỏi: Đường người hình dáng ra sao?.

Đáp: Hình dáng con người đứng thẳng lên. Tuy nhiên mặt người ở châu Thiệm Bộ giống hình hòm xe. Mặt người ở châu Tỳ đề ha giống hình bán nguyệt. Mặt người ở châu Cù đà ni giống vầng trăng đầy. Mặt người ở châu Câu Lô giống hình ao vuông”.

Hỏi: Tiếng nói như thế nào?

Đáp: Khi thế giới mới thành, tất cả mọi người đều nói tiếng Thánh. Về sau, do lúc ăn uống, chúng sanh không thọ dụng như nhau và do tăng thêm tợi ton hót, nói dối, bèn có nhiều loại tiếng nói khác nhau, thâm chí có người không biết nói”.

Thứ tư: PHẦN NGHIỆP THÂN

Theo trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt, có đặt ra Tứ cú phân biệt: một là có nghiệp được quả báo thân vui mà tâm không vui, như kẻ phàm phu có phước, hai là có nghiệp được quả báo tâm vui mà thân không vui, như La hán ít phước, ba là có nghiệp được quả báo thân, tâm đều vui, như La hán có phước, bốn là có nghiệp chịu quả báo thân, tâm đều không vui, như kẻ phàm phu ít phước. Người có nghiệp báo như thế nào, đều được báo ứng khổ lạc như thế ấy.

Hơn nữa, kinh Bồ Tát Tạng nói: “Bấy giờ, đức Thế tôn bảo trưởng giả Hiền Thủ rằng trưởng giả nên biết, Ta thấy tất cả chúng sinh trong thế gian đều bị mười nỗi khổ bức bách. Là mười nỗi khổ gì? Một là nỗi khổ do sinh ra bức bách, hai là nỗi khổ do già đi bức bách, ba là nỗi khổ do bệnh tật bức bách, bốn là nỗi khổ do chết chóc bức bách, năm là nỗi khổ do buồn rầu bức bách, sáu là nỗi khổ do oán hận bức bách, bảy là nỗi khổ do thọ lãnh bức bách, tám là nỗi khổ do lo âu bức bách, chín là nỗi khổ do đau đớn bức bách, mười là nỗi khổ lớn do sinh tử luân hồi bức bách. Ta thấy mười nỗi khổ như thế bức bách chúng sinh. Vì đắc đạo Vô thượng Bồ đề, có thể giải thoát mọi nỗi khổ bức bách như thế, nên ta phát tín tâm thanh tịnh, lìa bỏ gia đình họ Thích, hướng đến đạo Vô thượng. Còn nữa, trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh trong thế gian, từ vô số kiếp, đã tạo trăm ngàn ức cai tội lỗi, thường bị mười loại tên độc lớn bắn trúng. Là mười loại tên nào? Một là loại tên độc ái, hai là loại tên độc vô minh, ba là loại tên độc dâm dục, bốn là loại tên độc tham lam, năm là loại tên độc sai lầm, sáu là loại tên độc ngu si, bảy là loại tên độc kiêu mạn, tám là loại tên độc tà kiến, chín là loại tên độc chấp có, mười là loại tên độc chấp không. Trưởng giả! Ta thấy chúng sinh bị mười loại tên độc bắn trúng. Nhờ đạt đạo Vô thượng Bồ đề, có thể bẻ gãy mười loại tên độc ấy, nên Ta phát tín tâm thanh tịnh, lìa bỏ gia đình họ Thích, hướng đến đạo Vô thượng”.

Thứ năm: PHẦN QUÝ TIỆN

Nếu đem bốn phương ra nói, Bắc Uất đơn việt không có sự sang hèn. Ở đây không phân chia thầy tớ, nên không có sự sang hèn. Ba phương còn lại đều có sang hèn. Vì có sự phân chia ra vua tôi, dân chúng, sự cách biệt giữa chủ nhân với nô bộc, nên có sự sang hèn khác nhau. Gộp chung sang hèn, gồm có sáu hạng: một là hạng giàu nhất, ấy là các Chuyển luân vương. Hai là hạng giàu kế tiếp, ấy là các Túc tán ương. Ba là hạng giàu nhỏ, ấy là các quan lại. Bốn là hạng hèn nhất, ấy là các đầy tớ hèn hạ. Năm là hạng nghèo vừa, ấy là kẻ phục dịch. Sáu là hạng nghèo ít, ấy là các tỳ thiếp. Gộp chung thì đại khái như thế, nếu phân chia tỉ mỉ, thật khó nói cho cùng.

Thứ sáu: PHẦN GIÀU NGHÈO

Nếu đem bốn phương ra nói, Bắc Uất đơn việt đều rất giàu như nhau. Trong hai châu Đông Tây có sự hơn kém. Nam Diêm phù đề nghèo nhất. Sự giàu nghèo trong bốn châu không giống nhau, như kinh đã nói đầy đủ. Hơn nữa, người Diêm phù đề giàu nghèo không nhất định. Tổng cộng có ba hạng: thứ nhất là hạng giàu lớn, như Chuyển luân vương, thống lãnh bốn phương, giàu gom bốn biển. Tất cả nhu cầu đều rất đầy đủ, như kinh đã nói. Phước lực của ngài rất lớn. Mỗi khi xuất thế, cảm nhận được năm sự kiện kỳ lạ, bảy loại châu báu hiện ra.

Năm sự kiện kỳ lạ là: một là được các dòng suối và ao tắm phẳng lặng, trong trẻo, hiện ra khắp nơi trong quốc độ. Hai là được nước cam lồ tự nhiên sinh ra nơi cung đình. Khi khát uống vào, thân thể nhà vua sẽ nhẹ nhàng bớt bệnh. Ba là được nước biển rút xuống một do tuần. Khắp trong bờ biển, trào lên con đường bằng cát vàng để cho nhà vua du hành khắp bốn phương thiên hạ. Bốn là được cỏ hương trên đầu bò thần mọc lên bên bờ biển. Nhà vua hái lấy, đem về thắp, mùi hương càng nồng đượm, theo gió bay xa, thơm tho khắp bốn mươi dặm, người chết ngửi xong, sẽ được sống lại. Năm là được loại chim Ca chân liên đà sinh ra trong biển. Nhà vua bắt đem về nuôi, thân tâm đều thích thú, vì tiếng hót của loài chim này còn hay hơn cả âm nhạc trên Trời Lục dục. Dựa theo nghĩa này, luận Vãng Sinh có kệ rằng: “Tính quý cỏ công đức, Mềm mại nghiêng phải trái. Chạm vào sinh núi lớn, Hơn nghe Ca chân liên đà”.

Nhà vua có đủ bảy loại châu báu, lại có cả ngàn người con hùng mạnh, như kinh trên đã nói. Thứ hai là hạng giàu vừa, ấy là các Túc tán vương. Thứ ba là hạng giàu nhỏ, như các Thọ đề già. Nghèo cũng có ba hạng, suy ra có thể biết được.

Thứ bảy: PHẦN THỌ KHỔ

Than ôi! Luận trong đường người, chỉ khổ không vui. Ngu chấp làm vui, mất vui thành khổ. Thấy lầm làm vui, thấy rõ là khổ. Thế nên, kinh Phó Pháp Tạng nói: “Thế gian nhiều khổ, không thể cầu vui. Thân này không chắc, thối nát lụi tàn, giống như đống bọt, nhấp nháy vỡ tan. Hình dung đoan chính, đáng để đắm yêu. Già yếu ập đến, nào có còn gì! Ngoài phủ da mỏng, gọi là điểm tô. Trong đầy máu mủ, nước ối uế dơ. Các pháp vô thường, diễn biến rất chóng. Xem một hơi thở, sinh diệt bốn trăm. Ví như giữa trời, mây đùn sấm nổ. Gió lớn nổi lên, lại vụt tan biến. Ngũ dục không bền, giống y như vậy. Cùng yêu thương nhau, an hưởng hạnh phúc. Vô thường kéo đến, có chừa ai đâu? Thế gian nhiều khổ, rất khó ở lâu. Thân người, bởi thế, chỉ khổ, vô thường. Phải biết chán chường, mau cầu giải thoát. Tất cả các pháp, do khổ chất nên. Như nhọt, như phẩn, như tên trúng tim. Sinh già bệnh chết, luân chuyển vô bờ. Vô thường hủy hoại, mục nát rất nhanh. Như tù sắp chết, mạng sống chẳng dài. Như người ở tù, chẳng đáng mến yêu. Giống trái bên đường, mất công liệng bỏ. Thân đáng ghét này, sẽ bị hủy diệt. Quạ diều, chồn cáo, cắn xé giành ăn. Gió lùa nắng táp, hôi hám thối xanh, tóc lông, răng móng, tung tóe khắp nơi. Thân đã như thế, có gì thích ham? Cố tìm phương tiện, giải thoát thật nhanh. Trời kia giàu có, cuối cùng tan tành. Tươi tốt ngoài mặt, lo sợ trong lòng”. Thế nên, luận Đại Trang Nghiêm nói: “Như đeo dây quý, dù ở bên mình. Ngôi báu cũng thế, thường chất sợ lo, nơm nớp giữ gìn. Sợ mất rất khổ, phải lấy áo dậy, còn gọi là vui! Chẳng qua trong khổ, nghĩ bướng làm vui”. Thế nên, kinh Tân Đầu Lô Vị Ưu Đà Diên Vương thuyết pháp có kệ rằng: “Ngôi báu tuy tôn quý, Thay đổi không tạm dừng. Nhanh chóng như tia chớp, Phút chốc bỗng tiêu vong. Ngôi báu rất giàu sang, Kẻ ngu thật ham thích.

Tiêu vong chợt ập đến, Đau khổ quá thường dân. Nhà vua ở ngôi báu,

Danh nổi khắp mười phương. Uy nghiêm rất đáng mến, Trang sức lớp lớp chồng.

Ví như người hấp hối,

Mang chuỗi ngọc tràng hoa, Đâu hay chết sắp đến!

Ngôi báu cũng như thế. Vương giả như ngài đây, Thường ôm nhiều lo sợ. Lúc đi đứng và ngồi, Thậm chí khắp mọi lúc. Đối với người thân sơ, Thường có lòng ngờ vực.

Thần dân và phi hậu,

Voi ngựa và châu báu, Tài sản trong đất nước, Tất cả thuộc về vua.

Bỏ lại chẳng mang gì!” Lại nữa, trong kinh Niết Bàn, Phật nói kệ rằng: “Tất cả các thế gian,

Chúng sinh đều bị chết.

Thọ mạng tuy vô lượng, Cuối cùng cũng phải hết. Hễ thịnh thì có suy, Đoàn tụ phải biệt ly.

Tuổi trẻ không được lâu, Trong khỏe, bệnh bắt đầu. Tính mạng bị bệnh nuốt, Chẳng có gì còn đâu. Các vua dù tự tại,

Thế lực dẫu vô song,

Tất cả đều biến diệt.

Thọ mạng cũng như thế. Bánh xe khổ bao la, Xoay chuyển mãi không ngừng. Tam giới đều vô thường, Các pháp chẳng gì vui. Thật tướng của các pháp, Tất cả đều hư vô.

Pháp dễ hoại lưu chuyển.

Thường có kẻ yếu đuối, Lo sợ các chuyện dữ,

Khổ não, già, bệnh, chết.

Khổ não ấy vô biên.

Oán than pháp dễ hoại. Bị phiền não ràng buộc, Như tằm ở trong kén. Sao người có trí tuệ, Lại thích ở chỗ ấy? Thân này do khổ thành, Hết thảy đều dơ uế. Bó cột các ung nhọt,

Thật sự, chẳng ít gì! Lên đến thân chư Thiên, Xem ra cũng như thế.

Dục vọng đều vô thường, Nên ta chẳng tham luyến. Lìa dục, cố nghĩ suy,

Để chứng được Chân đế”.

Thế nên, tôn giả Tân Đầu Lô nói với nhà vua rằng: “Đại vương nên quan sát kỹ. Có ngũ dục nào được trường tồn? Có ngôi báu nào được bền vững? Có đất nước nào không đổi thay? Có châu báu nào không mất mát? Có dục nào kéo dài không biến tan? Có xum họp nào không ly biệt? Tất cả thể tính của ngũ dục đều thật sự khổ, đều do vọng tưởng mà sinh ra lạc. Thế nên, ngôi vua cũng khổ không yên, như chuyện trong mơ, tỉnh ra, mới biết là hư huyễn. Vì vậy, người có trí tuệ nên sinh lòng chán nản xa lìa, chính vì biết rõ tất cả những gì diễn biến trong ngoài đều vô thường cả. Tuy sắc tướng của chúng xem ra có thể khác biệt, nhưng đều giống nhau ở điểm không trụ lại ở chỗ ấy trong mỗi sát na”.

Bởi vậy, kinh nói: “Do sắc khổ nên có mười thời kỳ khác nhau: một là thời kỳ tạo mô, hai là thời kỳ thành bong bóng, ba là thời kỳ mọng nước, bốn là thời kỳ thành khối thịt, năm là thời kỳ có tay chân, sáu là thời kỳ thành trẻ sơ sinh, bảy là thời kỳ thành trẻ con, tám là thời kỳ thành thiếu niên, chín là thời kỳ thành người lớn, mười là thời kỳ thành già yếu. Nếu không có các thời kỳ vô thường như thế, không thể từ mô đi đến già chết được. Vốn do ngọn lửa mạnh của tam độc thiêu đốt trong tâm, hừng hực không ngừng nên phải thọ khổ ấy”. (Theo kinh nói, con người cũng có nhiêu giống nhau, như trên đã nói rõ trong thiên Tam giới, phần quảng diễn về bốn đại châu).

Thứ tám: PHẦN DUYÊN CẢM ỨNG Trích dẫn sơ lược mười tám chuyện ứng nghiệm.

1. Sách Xuân Thu Diễn Khổng Đồ nói: “Khổng Tử cao mười thước, lớn chín vi, ngồi xổm oai như rồng chầu, đứng vững như trâu buộc, bước tới hùng dũng như sao Ngang sao Đẩu”.

2. Sách Ngô Việt Xuân Thu nói: “Ngũ Tử Tư yết kiến Ngô vương Liêu. Vương Liêu thấy thần sắc Ngũ Tử Tư uy nghi rất đáng kính sợ: cao một trượng, lớn mười vi, hai mày cách nhau một thước. Vương Liêu cùng đàm luận suốt ba ngày. Sau khi từ biệt, vương không cho mời lại liền. Tử Tư biết nhà vua thích mình. Sau đó, mỗi lần vào đàm luận, cất tiếng hùng hồn rất có tráng khí”.

3. Sách Lương Ký nói: “Lữ Quang tự là Tử Minh, giao du với kẻ hiền tài, giúp đỡ các kẻ sĩ. Thân cao tám thước tư, khủy tay trái có bướu thịt gồ lên như cái ấn. Tính tình trang trọng, bẩm chất khoan dung, có độ lượng. Đương thời, không ai biết đến ông cả, chỉ có Vương Mãnh, lúc còn hàn vi, lấy làm lạ, bảo rằng: “Đây thật là kẻ phi phàm”.

4. Sách Hà Đồ Ngọc Bản nói: “Từ núi Côn Luân đi về phía Bắc chín vạn dặm thì đến nước Long Bá, người ở đấy cao mười trượng, sống đến một vạn tám ngàn năm mới chết. Từ núi Côn Luân đi về phía Đông thì đến nước Đại Tần, người ở đấy cao đến mười trượng. Từ đấy đi về phía Đông mười vạn dặm thì đến nước Điêu, người ở đấy cao ba trượng năm thước. Từ nước này đi về phía Đông mười vạn dặm thì đến nước Trung Tần, người ở đấy cao một trượng”.

5. Sách Long Ngư Hà Đồ nói: “Tận cùng bốn phương Đông Tây Nam Bắc của bầu trời đều có lính chánh ngạch đồng sắt, cao ba ngàn vạn trượng, đông đến ba ngàn ức vạn người. Tận cùng bốn phương Đông Tây Nam Bắc của bầu trời đều có lực sĩ cảm tử kim cương, cao ba ngàn vạn trượng, đông đến ba ngàn ức vạn người. Trong kinh đô Thái Bình giữa bầu trời, có lính giáp độ mặt sắt ăn quỷ sứ, cao ba ngàn vạn trượng, đông đến ba ngàn ức vạn người”.

6. Truyện Hồng Phạm Ngũ Hành nói: “Dưới thời Tần Thủy Hoàng, có người khổng lồ xuất hiện trên vùng trời Lâm Thao. Thân cao năm trượng, dấu chân sáu thước, mặc đồ mọi rợ. Nước Tần bàn tán: “Đừng quá thi hành chính sách mọi rợ, sẽ rước lấy thảm họa mà thôi!”.

7. Sách Ngụy Chí nói: “Người nước Thiên Trúc đều cao một trượng tám thước. Người nam nữ nước Xa Ly đều cao tám thước”.

8. Sách Ngụy Chí nói: “Năm Hàm Hy thứ hai, huyện Tương Vũ đồn có người khổng lồ xuất hiện, cao hơn ba trượng, dấu chân dài ba thước hai tấc, tóc bạch kim, mặc áo đơn màu vàng, đội khăn vàng, chống gậy tự xưng là vua của dân, cất tiếng nói rằng: “Từ nay được hưởng thái bình”.

9. Kinh Thần Dị nói: “Phía Đông Nam có người đi khắp thiên hạ, cao bảy thước, vòng bụng cũng như thế, đầu tóc bờm xờm, không ăn uống đồ thường. Sáng nuốt ba ngàn ác quỷ, chiều nuốt ba trăm. Nuốt ngọt không nghe tiếng. Người này lấy ác quỷ làm cơm, lấy móc sương làm nước, tên là Thiên Quách, một tên là Thực Tà, một tên nữa là Hoàng Phụ”. (Nay có quỷ Hoàng Phụ, do người đời phỏng theo người này mà gọi thế).

10. Kinh Thần Dị nói: “Ngoài biển Tây Bắc có người cao hai ngàn dặm, khoảng giữa hai chân xoạc ra cách nhau một ngàn dặm, vòng bụng lớn mười sáu ngàn dặm. Chỉ uống rượu năm thưng (tức là móc sương). Không ăn cơm gạo, cá thịt. Nếu đói, ngước lên trời hứng lấy móc sương là no. Thích ngao du sơn thủy, không làm hại dân chúng, không đụng chạm đến vạn vật. Sống lâu bằng trời đất, tên là Người không có đường đi (do quá to lớn, không thể làm đường đi cho vừa). Còn tên là Nhân (vì biết giữ lễ, nên gọi là Người nhân). Còn tên là Tín (vì biết giữ lễ, nên gọi là Người tín). Lại còn tên là Thần (sống mãi không chết như trời đất, nên gọi là Người thần).

11. Sách Thục Vương Bản Kỷ nói: “Thời Tần Tương vương, quận Đảng Cừ dâng lên Người cao, cao đến hai mươi lăm trượng sáu thước”.

12. Sách Ngoại Quốc Đồ: “Người nước Đại Tần cao một trượng năm thước. Tay dài như tay vượn, hông cũng dài, thích cưỡi lạc đà”.

13. Sách Thi Hàm Thần Vụ nói: “Cuối phía Đông Bắc có người cao chín tấc. Sách Quốc Ngữ nói là Khổng Tử bảo rằng người lùn Tiêu Nghiêu cao ba thước. Thật hết sức thấp vậy”.

14. Truyện Tây Vức trong sách Ngụy Lược nói: “Xứ người lùn ở phía Tây Bắc Khang Cư, nam nữ rất đông, đều cao ba thước, các bậc trưởng lão của Khang Cư đồn đãi rằng thỉnh thoảng có lái buôn lạc đường đến nước này. Trong đó, có nhiều loại ngọc: bối châu, dạ quang và minh châu. Họ ước lượng nước này cách Khang Cư chừng hơn vạn dặm”.

15. Sách Ngụy Lược nói: “Phía Nam xứ Oa có xứ người lùn loắt choắt. Người ở đấy cao khoảng ba, bốn thước. Cách xứ Nữ vương hơn bốn ngàn dặm”.

16. Sách Ngoại Quốc Đồ nói: “Người lùn xứ Tiêu Nghiêu cao chừng một thước sáu tấc, trước gió thì ngã ngữa, sau gió thì ngã sấp. Có đầy đủ mày mắt nhưng ngủ hoang. Một thuyết khác nói, người Tiêu Nghiêu cao ba thước. Cây cỏ ở đấy mùa Hạ rụi, mùa Đông mọc. Xứ ấy cách núi Cửu Nghi ba vạn dặm”.

17. Sách Liệt Tử nói: “Từ Trung Châu đi về Đông bốn mươi vạn dặm, gặp xứ Tiêu Nghiêu. Người ở đấy cao một thước năm tấc. Cuối phía Đông Bắc có giống người tên là Tịnh cao chín tấc. Vào năm Tần Thủy Hoàng thứ hai mươi sáu, có người khổng lồ, thân cao năm trượng, dấu chân sáu thước, các xứ mọi rợ đều thần phục. Gồm mười hai người xuất hiện ở Lâm Thao. Khổng Tử nói: “Người lùn Tiêu Nghiêu cao ba thước, thật đã thấp hết sức. Kẻ cao, chẳng qua mười thước, cũng đã quá mức. Nay lại có người cao đến năm trượng. Thế thì do vô loại sinh ra mà thôi”. Năm ấy vua Tần mới thôn tính sáu nước. Nghe tin, vui mừng, cho là điềm tốt. Sai đúc thành mười hai người bằng đồng để biểu dương. Rời phía Nam, đi tuần thú Ngũ lãnh. Phía Bắc thì xây Trường Thành.

Phía Tây đến Lâm Thao. Phía Đông đến Liêu Đông. Đi hết mấy ngàn dặm. Như thế, người khổng lồ xuất hiện trước đây ở Lâm Thao là để báo hiệu loạn lạc sắp xảy ra. Mười hai năm sau, nhà Tần bị tiêu diệt”. (17 chuyện trên đây đều chép đúng theo trong các sách).

18. Vào năm Thủy Kiến Quốc thứ tư của Vương Mãng: (12 năm sau công nguyên), ở huyện Trì Dương có người bé tí tên Cảnh, cao chừng hơn 1 thước. Hoặc đi bộ, hoặc cưỡi xe, giữ gìn vạn vật, không kể lớn nhỏ, đều tự xưng là “Ba ngày thôi”. Sách Quản Tử nói: “Đầm khô cạn mấy trăm năm, suối không có nước hoài thì sinh ra Khánh Kỵ. Khánh Kỵ có hình dáng như người, cao bốn tấc, đội mũ vàng, che lọng vàng, cưỡi ngựa nhỏ, thích đi nhanh. Gọi đúng tên, có thể nhờ được việc ở ngoài ngàn dặm. Còn có tên là Phán Báo. Thế thì người bé tí tên Cảnh ở Trì Dương chính là Khánh Kỵ chăng? Sách ấy còn nói: “Cục thủy tinh nhỏ khô queo sinh ra con trì. Con ấy có một đầu, hai mình. Hình dạng giống rắn, dài tám thước. Gọi đúng tên, có thể nhờ đi bắt giúp cá, ba ba.

(Hai chuyện trên đây rút ra từ Sưu Thần Ký).

III. Bộ thứ 3: A TU LA

Gồm có bảy phần: Thuật ý, Hội danh, Trụ xứ, Nghiệp thân, Quyến thuộc, Y thực, Chiến đấu.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Than ôi! Luận về đường A tu la: sinh vào lối này, giỏi tài nịnh hót. Hoặc reo hò nổi loạn, hoặc cất quân xâm lăng. Hình dáng khổng lồ, bụng dạ đói khát. Tướng mạo thô bỉ, thường chứa giận hờn. Lêu nghêu đáng sợ, lụng thụng ghê người. Tám tay mọc chồng, ba đầu hiện đủ. Dẫm tuốt ngọc cao, đạp tung biển cả. Nắm lấy mặt trời, bưng đám mây biếc. Thượng giới xin ăn, biển sâu chế rượu. Các loài như thế, cùng xin quy y. Sang tới các A tu la chúa, Thiểm bà lợi, gia quyến của Tỳ ma chất đa, bằng hữa của Khư la khiên đà, thậm chí đồng bọn của Bà trĩ la hầu, hàng ngũ của Xá chi bạt đà, đều nguyện: chừa thói kiêu mạn, lìa tâm bốc tâng. Cung điện quang minh, đình tạ đầy đủ. Dẹp bỏ binh đao, ngăn chận tham giận. Không còn đớn đau dao kiếm, hết tuyệt thống khổ triền miên. Hâm mộ Chánh pháp, khao khát Đại thừa. Trút bỏ thân thể xấu xí, thọ nhận sắc tướng đoan nghiêm. Giữ gìn lãnh thổ, che chở nước nhà. Xây đắp cõi Phật, phát triển Chánh pháp.

Thứ hai: PHẦN HỘI DANH

Sao gọi là đường A tu la? Theo luận Lập Thế A tỳ đàm giải thích rằng: “At tu la nghĩa là không biết phục thiện, không biết hạ mình. Lắng nghe các lời giáo hóa, lòng không lay chuyển, vì thói kiêu mạn gây ra. Nên mạnh mẽ chống trái điều thiện. Lại không phải là trời, nên gọi là A tu la”. Các kinh khác cũng gọi là A tu luân. Nay theo luận Tân Bà sa nói: “Đúng âm từ Phạm ngữ là Tố lạc. Tố lạc là Trời. Loài ấy không phải là trời, nên gọi là A tố lạc”. Hơn nữa Tố lạc gọi là đoan chánh. Loài ấy không đoan chánh, nên gọi là A tố lạc. Hơn nữa, kinh Trường A hàm nói: “A tu la sinh con gái thì đoan chính, sinh con trai thì xấu, nên gọi là không đoan chính, hoặc gọi là không uống rượu. Về điều này có hai lối giải thích: một là do tiền kiếp giữ giới không uống rượu, nay còn lực của đời trước tu tập, nên gọi là không uống rượu, hai là tiền nhân vốn thích uống rượu. Đi khắp thiên hạ, hái hoa bỏ vào biển, ủ rượu không thành, hóa ra nước mặn. Vì không được rượu, khiến phải chừa bỏ, nên gọi là không uống rượu”. Luận Bà sa nói: “Có người bảo A tu la thuộc về đường trời, nhưng vì ton hót, quanh co phản phúc nên không được chấp nhận. Có người bảo A tu la thuộc về đường quỷ, nhưng vì con gái là Xá chi, nên cùng được chư Thiên giao du”. Thế nên, kinh Già Đà nói: “Có phần quỷ, có phần súc sinh, có phần Trời”. Kinh Chánh Pháp Niệm cũng nói: “Có phần quỷ, có phần súc sinh, có phần Trời yếu. Trời yếu, ấy là Tỳ ma chất đa. Tỳ ma chất đa ở đây nghĩa là âm hưởng cao, cũng có nghĩa là ở hang. Nghĩa là từ đáy biển lớn, phát ra âm thanh lớn, bảo rằng: “Ta là Tỳ ma chất đa”. Thế nên, gọi là âm hưởng cao, vì ở tận đáy biển, nên gọi là ở hang”.

Thứ ba: PHẦN TRỤ XỨ

Theo kinh Chánh Pháp Niệm nói: “A tu la cư trú tại năm chỗ: một là tại trên mặt đất, trong núi Chúng Tướng. Sức lực của loài này yếu ớt nhất. Hai là tại phía Bắc núi Tu di, đi xuống biển hai vạn một ngàn do tuần, có A tu la tên là La Hầu thống lãnh đám A tu la. Ba là, lại đi thêm hai vạn một ngàn do tuần, có A tu la tên là Tráng Kiện. Bốn là, lại đi thêm hai vạn một ngàn do tuần, có A tu la tên là Tràng Hoa. Năm là, lại đi thêm hai vạn một ngàn do tuần, có A tu la tên là Tỳ ma chất đa. Từ trong mình của A tu la này phát ra âm thanh rất lớn, xuyên suốt lên mặt biển, tự xưng: “Ta là A tu la Tỳ ma chất đa”. Thế nên mới gọi là âm hưởng cao”. Về mẹ của Tỳ ma thì kinh Trường A hàm nói: “Vào thưở xa xưa, khi kiếp mới thành, có Trời Quang Âm xuống biển tắm rửa, có một cục thủy tinh lọt vào mình, sinh ra cái trứng bằng thịt. Trải qua tám ngàn năm, trứng ấy sinh ra một người nữ, có thân thể lớn như núi Tu di, có chín trăm chín mươi chín cái đầu. Mỗi cái đầu có một ngàn con mắt và có chín trăm chín mươi chín cái miệng, đặc biệt mỗi miệng chỉ có bốn răng. Trên răng phát ra lửa giống như sấm sét. Có hai mươi bốn chân và chín trăm chín mươi chín tay. Một dạo, người nữ này xuống biển nô đùa, một cục thủy tinh lọt vào mình, sinh ra cái trứng bằng thịt. Lại trải qua tám ngàn năm, trứng ấy sinh ra Tỳ ma chất đa, có chín cái đầu, mỗi đầu có một ngàn con mắt, miệng thì thường phun ra nước. Có chín trăm chín mươi chín tay nhưng chỉ có tám chân. A tu la Tỳ ma chất đa cưới con gái của Càn Thát Bà ở Hương Sơn sinh ra Xá chi La Hầu. Xá chi này là phu nhân của Đế thích. A tu la La hầu cũng gọi là Che mặt trời. Mặt trời là tiền quân của Đế thích, ra tay trước, phóng ánh sáng vào mặt A tu la, không cho phép thấy được chư Thiên. Vì thế, A tu la này lấy tay che mặt trời lại. Do có thế lực, A tu la này đã nhiều lần tranh luận cùng chư Thiên”.

Lại nữa, luận Tân Bà sa có câu hỏi: “Các A tố lạc rút về ở đâu? Có người bảo: “Trong lòng núi Tu di, có chỗ trống khuyết, giống như bồn quý úp xuống. Trong đó có thành trì, đây là chỗ cư trú của loài ấy”.

Hỏi: Vì sao kinh bảo rằng A tốc lạc nói làng mạc do ta thống lãnh ở dưới đáy biển, mà chúa A tố lạc lại ở trong núi ấy?.

- Có người nói: “Dưới đáy biển có lâu đài lớn bằng vàng, cao rộng mỗi chiều năm trăm du thiện na, trên đó có thành trì, là chỗ cư trú của A tố lạc ấy. Chúa A tốc lạc cũng có bốn khu vườn: một tên là Mừng vui, hai tên là Vui vẻ, ba tên là Vui nhất, bốn tên là Đáng yêu. Giống như Trời Tam thập tam có cây Ba lợi dạ đát la, chỗ cư trú của chúa A tố lạc cũng có cây như thế”.

Hỏi: Hình dáng A tố lạc ra sao?.

Đáp: Hình dáng thẳng đứng.

Hỏi: Tiếng nói ra sao?.

Đáp: Đều nói tiếng Thánh.

Hỏi: “Thuộc về đường nào?”. Có người bảo: “Thuộc về đường trời”. Có người lại bảo: “Thuộc về đường quỷ”.

Lại nữa, kinh Khởi Thế nói: “Cách phía Đông núi Tu di hơn một ngàn do tuần, ở dưới đáy biển, là quốc độ của chúa A tu la Tỳ ma chất đa tọa lạc. Ngang dọc rộng tám vạn do tuần, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới gắn lục lạc bằng vàng bạc. Phía ngoài có bảy lớp hàng cây Đa la. Tất cả đều làm bằng bảy loại bảo vật trần thiết trang nghiêm không thể kể hết. Trong thành lớn có riêng một cung điện tên là Thiết ma bà sí, phạm vi của cung điện rộng một vạn do tuần, có bảy lớp tường thành làm bằng bảy loại bảo vật, cao một trăm do tuần, dày năm mươi do tuần, có vườn ao hoa quả, chim chóc hòa ca (kinh đã nói rộng, không cần phải chép lạ rườm rà). Cách phía Nam núi chúa Tu di hơn một ngàn do tuần, ở dưới đáy biển, có cung điện của chúa A tu la nhảy nhót, lãnh thổ này ngang dọc rộng tám vạn do tuần. Cách phía Tây núi chúa Tu di hơn một ngàn do tuần, có cung điện của chúa A tu la Xa bà la, lãnh thổ này ngang dọc rộng tám vạn do tuần. Cách phía Bắc núi chúa Tu di hơn một ngàn do tuần, ở dưới đáy biển, có cung điện của chúa A tu la La hầu la, lãnh thổ này ngang dọc rộng tám vạn do tuần (chỗ cư trú cũng đẹp đẽ như đã nói ở trên). Tại kinh thành của chúa loài Ma bà cứ trú, có chỗ tụ họp của chúa A tu la La hầu la, cũng tên là Bảy đầu. Chỗ này ngang dọc rộng tám vạn do tuần, có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, đều làm bằng bảy loại bảo vật. Bốn phía cận kề đều có rất nhiều A tu la nhỏ, không thể kể hết (kinh đã nói đầy đủ).

Thứ tư: PHẦN NGHIỆP NHÂN

Theo trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt có nói đầy đủ về mười nghiệp phải chịu quả báo A tu la: một là thân làm các việc ác nhỏ, hai là miệng làm các việc ác nhỏ, ba là ý làm các việc ác nhỏ, bốn là nổi lên kiêu mạn, năm là nổi lên ngã mạn, sáu là nổi lên tăng thượng mạn, bảy là nổi lên mạn lớn, tám là nổi lên mạn tà, chín là nổi lên mạn quá mạn, mười là đem các thiện căn hồi hướng về đường A tu la. Nếu theo kinh Chánh Pháp Niệm diễn rộng, phần nhiều do ba loại nghiện nhân sân, mạn và nghi bắt phải chịu quả báo sinh vào đường ấy.

Hơn nữa, kinh Tạp A hàm nói: “Vào thời tiền kiếp, A tu la từng làm người nghèo ở gần bên sông, thường vác củi qua sông. Bấy giờ, nước sông sâu lại chảy xiết. Người ấy mấy lần bị nước cuốn phăng đi sắp chết, may mắn thoát được. Có vị Phật Bích Chi đến nhà khuất thực, người ấy vui vẻ cúng dường. Thọ thực xong, liền bay mất lên trời. Người nghèo khổ ấy thấy vậy, bèn phát tâm nguyện rằng: “Kiếp sau, xin cho thân thể của tôi lớn lao đến nỗi bất cứ dòng nước nào cũng không ngập quá đầu gối!”. Nhờ nhân duyên này, A tu la có được thân thể rất khổng lồ. Nước bốn biển lớn không ngập quá đầu gối, đứng trong biển lớn, thân vượt lên khỏi núi Tu di. Chống tay vào đỉnh núi, khom mình xuống nhìn Trời Đao lợi”.

Thứ năm: PHẦN QUYẾN THUỘC

Theo kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Vị thứ nhất là chúa A tu la La hầu. Chúa này có bốn ngọc nữ, do tưởng nhớ sinh ra: một tên là Như bóng, hai tên là Các hương, ba tên là Rừng đẹp, bốn tên là Đức hơn. Trong bốn ngọc nữ này, mỗi một vị đều có mười hai ức thị nữ để làm gia quyến. Tất cả đều vây quanh chúa A tu la, cùng nhau vui chơi, mặc sức hưởng lạc, không thể nào nói hết được. Vị thứ hai tên là Tráng Kiện, gia quyến có uy thế trội hơn. Vị thứ ba tên là Tràng Hoa, gia quyến có uy thế càng trội hơn. Vị thứ tư tên là Tỳ ma chất đa, gia quyến có uy thế trội hơn gấp đôi, càng không thể nói hết. Cho nên, sự cách biệt giữa sang hèn, không thể luận xem như nhau được”.

Thứ sáu: PHẦN Y THỰC

Nếu theo kinh Chánh Pháp Niệm nói, nhu cầu y phục, ăn uống của A tu la có sẵn tự nhiên. Mũ dải, áo quần thuần bằng bảy loại bảo vật đẹp đẽ, tinh khiết như chư Thiên. Các thức ăn, tùy theo ý thích mà hiện ra, có đầy đủ vị ngon, không thua kém của chư Thiên. Như các luận lớn nói, y phục và thức ăn của A tu la tuy hơn người, nhưng khi ăn thì không bằng người. Nghĩa là, trong hết thảy mọi bữa ăn của A tu la, đến miếng cuối cùng, đều phải biến thành bùn xanh. Cũng như Long vương, tuy ăn đủ trăm món, nhưng đến miếng cuối cùng, đều phải biến thành cóc nhái. Vì thế, kinh mới nói không bằng người.

Thứ bảy: PHẦN CHIẾN ĐẤU

Như kinh Tăng nhất A hàm nói: “Bấy giờ, đức Thế tôn bảo các Tỳ kheo, thọ được hình dáng khổng lồ, không ai hơn chúa A tu la. Thân thể cao lớn hơn tám vạn bốn ngàn do diên. Miệng rộng hàng ngàn do tuần. Một khi muốn xâm phạm mặt trời, lại hóa thân lớn thêm một ngàn sáu vạn do tuần, rồi xuống trước mặt trời, vua Mặt trời Mặt trăng thấy thế đều mang lòng sợ hãi, bồn chồn không yên chỗ, vì hình dáng đáng khiếp ấy. Tuy vua Mặt trời Mặt trăng sợ hãi không phát ra ánh sáng, nhưng chúa A tu la không dám xông đến chụp bắt. Tại sao thế? Vì vua Mặt trời Mặt trăng đầy đủ uy đức, có thần lực lớn, thọ mạng hết sức lâu dài. Tướng mạo đoan chính, hưởng thụ lạc quả vô cùng, lên đến một kiếp. Hơn nữa, ở đấy còn nhiều chúng sinh đem phước lực che chở, kh iến vua Mặt trời Mặt trăng không bị khổ não vì chúa A tu la xâm lăng.

Lúc ấy, chúa A tu la đâm ra ưu sầu, liền chết ở đấy”.

Lại nữa, kinh Trường A hàm nói: “Vì chúa A tu la có rất nhiều

uy lực, nên suy nghĩ rằng: “Thiên vương Trời Đao lợi và các vua Mặt trời Mặt trăng cứ đi lại trên đầu ta hoài. Ta thề sẽ bắt vua Mặt trời Mặt trăng để làm đôi bông tai!”. Càng nghĩ, càng giận dữ muốn ra tay. Liền sai hai chúa A tu la Xá ma lê và Tỳ ma chất đa cùng các đại thần sửa soạn khí giới, kéo nhau đi đánh chư Thiên. Bấy giờ, hai Long vương lớn là Nan đà và Bạt nan đà lấy thân mình quấn bảy vòng quanh núi chúa Tu di, làm rung chuyển cả núi và kéo mây giăng đầy, quẫy đuôi dậy sóng, nước văng tung tóe lên khắp núi chúa. Trời Đao lợi nói: “A tu la sắp gây chiến. Các Long vương, quỷ thần hãy cầmbinh khí lần lượt giao phong, nếu thua mới bỏ chạy!”. Bốn Thiên vương vũ trang chuẩn bị lâm chiến, trước tiên vào báo động cùng Đế thích, Đế thích báo động lên Trời Tha hóa tự tại, cho đến vô số chư Thiên khác, cùng các Long thần, quỷ sứ. Tất cả đều vây kín trước sau. Đế thích ra lệnh: “Nếu quân ta thắng, hãy lấy năm sợi dây trói chặt A tu la Tỳ ma chất đa giải về Thiện pháp đường. Ta muốn xem nó thế nào!”. A tu la cũng nói: “Nếu bọn ta thắng, cũng lấy năm sợi dây thừng trói chặt Đế thích giải về Thất diệp đường. Ta muốn xem nó thế nào!”. Quyết chiến một trận, hai bên đều không bị thương, nhưng do thân thể va chạm nhau, gây ra đau đớn khổ sở. Đế thích liền biến ra nghìn mắt, tay cầm chày kim cương, đầu phun ra khói lửa phừng phực, A tu la trông thấy bèn bỏ chạy, Tỳ ma chất đa bị bắt trói giải về. Trông thấy Đế thích, liền buông lời mắng nhiếc. Đế thích liền trả lời: “Ta muốn cùng nhà ngươi nói chuyện đạo nghĩa, cần gì phải dùng lời thô lỗ làm tuổi trời ngàn năm giảm nhiều tăng ít? Nhà ngươi đã phá giới, đem ác tâm gây chiến, dù đã tu nhiều hạnh bố thí, nhưng vì kiêu mạn như thế, nên đành phải thọ lấy báo thân này”. (Các kinh khác cho rằng vì đem tâm nịnh hót tu hạnh phước đức nên phải thọ lấy báo thân này).

Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Mẹ của chúa A tu la Tỳ ma chất la ăn theo lối quỷ, chỉ toàn sình lầy và rễ ngó sen. Con trai bà ấy lớn lên, thấy các thể nữ xinh đẹp vây quanh chư Thiên, liền thưa mẹ rằng: “Người ta đều có lứa đôi, sao con chỉ cô độc một mình?”. Bà ấy trả lời: “Thần núi Hương là Càn thát bà có con gái nhan sắc mỹ miền, trắng trẻo hơn bạch ngọc, các lỗ chân lông trên mình đều phát ra tiếng nhạc du dương. Mẹ rất đẹp lòng, nay sẽ đi hỏi cưới cho con, con có vừa ý không?”. A tu la nói: “Hay quá! Hay quá! Xin mẹ đi hỏi cưới cho con!”. Bấy giờ, mẹ của A tu la ấy đi đến núi Hương, bảo với thần âm nhạc ấy rằng: “Ta có một đứa con trai, đầy đủ thần thông tự tại, khắp bốn châu lớn, chẳng ai sánh bằng. Ông có cô con gái lớn, thật xứng đôi với con của ta”. Con gái của thần ấy nghe xong, xin vui lòng về làm dâu. A tu la cưới cô gái ấy chưa được bao lâu, liền mang thai. Trải qua tám ngàn năm sinh ra một cô con gái, dung nhan đoan chính lạ thường. Trên trời dưới thế, không ai có thể sánh bằng. Trên mặt có tám vạn bốn ngàn nét đẹp, bên phải, bên trái đều có tám vạn bốn ngàn nét đẹp, trước sau cũng thế. A tu la trông thấy cho là tuyệt diệu, như trăng ngự giữ ngàn sao, thật là độc đáo. Kiêu thi ca nghe tiếng, cưới về làm vợ. A tu la vui mừng đồng ý gả cho. Đế thích đặt tên là Đẹp ý. Chư Thiên trông thấy ca tụng là đẹp chưa từng thấy, đâm ra ngẩn ngơ. Nhìn bên đông quên bên tây, nhìn phía nam quên phía bắc, đến nỗi tóc lông đều sinh vui mừng. Một hôm Đế thích vào vườn Vui vẻ, cùng các thể nữ xuống ao chơi. Bấy giờ, Đẹp ý nổi ghen, sai năm trăm Dạ xoa chạy đi báo với A tu la cha rằng: “Nay Đế thích không sũng ái con nữa, cùng các thể nữ thỏa thích vui chơi”. A tu la nghe xong, sinh lòng giận dữ, liền kéo bốn đạo quân đi đánh Đế thích. Đứng trên biển lớn, chống chân trên đỉnh núi Tu di, chín trăm chín mươi chín con mắt cùng hiện ra một lượt, lay thành Hỷ Kiến, lắc núi Tu di, khiến cho bốn biển lớn nhất tề dậy sóng. Đế thích kinh hoảng, không biết chạy đi đâu. Bấy giờ có vị thần bảo Đế thích rằng: “Xin chớ kinh hoảng nhiều. Ngày xưa, Phật có dạy thần chú Bát nhã ba la mật. Thiên vương nên trì tụng, quỷ binh sẽ tự tan rã”. Lúc ấy, Đế thích ngồi trên Thiện pháp đường, đốt các loại danh hương, phát ra lời thệ nguyện lớn: “Bát nhã ba la mật là thần chú rất sáng láng, là thần chú cao siêu nhất, là thần chú không thể sánh nổi, chân thật không hư huyễn. Nay ta tụng trì, sẽ thành tựu Phật đạo, khiến cho A tu la tự nhiên giải tán”. Phát nguyện như thế xong, do công đức của Đế thích, giữa không trung bỗng nhiên có rừng dao rơi xuống trên mình A tu la. Bấy giờ, tai, mũi, chân tay của A tu la tự nhiên rụng sạch, làm cho nước biển lớn đỏ hồng như ngọc trai. A tu la đâm ra kinh hoàng. Không biết chạy trốn đi đâu, bèn chui tuốt vào ống tơ của ngó sen”.

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

Trích dẫn sơ lược ba chuyện linh nghiệm.

1. Sách Tây Quốc Chí nói: “Trong khe núi đá về phía Tây Nam nước Chiêm Bà ở Trung Ấn có hang của A tu la. Người nọ nhân lên núi tu hành, gặp hang ấy liền vào bên trong. Thấy được chốn cung điện của A tu la, các loài hoa tuyệt đẹp như trên thiên cung, vườn tược ao hồ, cây trái đủ thứ, không thể nào kể hết. Bọn A tu la thấy người nọ đi một mình liền bảo: “Nhà ngươi có thể ở đây lâu không?”. Người nọ trả lời: “Tôi sắp về nhà, không thể ở lâu”. A tu la thấy không ở lâu, bèn đưa cho một trái đào ăn xong, mới nói: “Nhà ngươi nên đi ra thật nhanh, sợ thân hình hóa lớn, hang không chứa nổi!”. Nghe dứt lời ấy, người nọ vội vàng chạy ra, nhưng thân thể bỗng nhiên hóa lớn, tướng mạo trở thành thô tháp. Đầu vừa chui khỏi, thân hình quá lớn đã lấp kín miệng hang, bị mắc kẹt lại, không tài nào chui hết ra được. Từ đó về sau, gần mấy trăm năm, chỉ thấy ló ra cái đầu lớn như cái lu chứa ba tạ. Có người trông thấy, hỏi chuyện. Người nọ kể rõ nhân duyên. Người ấy thương quá, nói rằng: “Bọn tôi sẽ đào đá cho thân ông chui ra, liệu thế được chăng?”. Đáp rằng: “Ơn đức biết mấy!”. Ngưới ấy đem câu chuyện và ý kiến tâu rõ lên nhà vua. Vua tôi cùng nhau bàn luận: “Đấy là kẻ phi phàm, sức địch ngàn người. Nay đào đá giúp cho chui ra, lỡ có ý đồ không tốt, ai có thể chống nổi?”. Vì thế, vẫn để yên như cũ. Người đương thời gọi là Ông tiên to đầu. Sứ giả nhà Đường là Vương Huyền Sách đã ba lần đến đó, lấy tay sờ đầu, cùng nhau nói chuyện vanh vách rõ ràng. Gần đây, có lửa hoang tàn trong núi bốc cháy sém đen cả đầu, nhưng không chết”.

Tây Quốc Chí gồm sáu mươi quyển, do triều đình soạn thuật. Nhà vua xuống sắc sai các họa sĩ vẽ tranh minh họa, cùng họp nhau làm việc ở trung đài. Còn lại bốn mươi quyển, bắt đầu làm từ năm Lân Đức thứ hai đến cuối mùa hạ năm Càn Phong nguyên niên mới hoàn thành. Ta gặp Vương Huyền Sách, được ông ấy đem chuyện này kể lại cho nghe.

2. Lại nữa, truyện Huyền Trang Pháp sư nói: “Nước Đà Na Yết Trách Ca thuộc vùng Nam Aán. Hai phía Đông, Tây của kinh thành dựa vào chốn núi non, đều có cảnh Tùng Lâm. Trong đó, có Luận sư Bà Tỳ Phệ Già (đời Đường dịch là Minh Biện), thường ngồi trước tượng Bồ tát Quán tự tại (đời Tấn dịch là Quán Thế Âm), tuyệt thực, chỉ uống nước, suốt ba năm, lập chí cầu nguyện được gặp Bồ tát Di lặc. Vì thế, Bồ tát Quán tự tại hiện ra, bảo đến trước tượng lực sĩ cầm chày kim cương trong hàng lớn phía Nam kinh thành, trì tụng chú kim cương. Đủ ba năm, lực sĩ kim cương hiện ra dặn dò: “Trong hang đá này có cung điện của A tố lạc (đời Tấn gọi là cung điện của A tu la). Theo đúng phép mà cầu xin, vách đá sẽ mở. Hãy lập tức vào trong, chờ Di lặc hiện xuống. Ta sẽ thông báo dùm cho”. Lại trải qua ba năm, miệng tụng chú, tay ném hạt cải vào vách đá. Bỗng nhiên vách đá mở toang ra. Bấy giờ, có hàng trăm nghìn vạn người đi xem, đều kinh hoàng thán phục. Luận sư chận chân lên miệng hang, quay lại mấy lượt, bảo mọi người cùng vào. Chỉ có sáu người vào theo, số còn lại bảo đấy là hang rắn độc, không dám bước vào. Luận sư vừa vào xong, miệng hang lập tức khép lại, liền lạc y như vách đá trước đây”.

3. Lại nữa, Pháp sư Huyền Trang nói: vào năm Trinh Quan thứ 13, Trang tôi đang ở chùa Na Lạn Đà tại nước Ma Ca Đà thuộc Trung Ấn, gặp một người thế gian kể lại rằng: “Có kẻ hiếu sắc nọ, nhân thấy kinh nói A tu la sinh ra con trai rất xấu, sinh con gái lại đoan chính. Nghe đồn trong núi kia có động A tu la gồm cả cung điện rất đẹp đẽ lạ lùng, giống hệt cảnh tượng trên trời. Kẻ ấy mơ tưởng đến chuyện dâm dục, mong được gặp nữ A tu la, cùng sánh lứa đôi. Do đó, thường xuyên trì tụng thần chú ròng rã suốt ba năm. Gần mãn hạn, liền được toại nguyện. Trước tiên, đem thử cho đệ tử và thân hữu thấy khả năng linh ứng. Khi sắp ra đi, kẻ ấy gọi đệ tử cùng lên đường. Đệ tử tin tưởng cũng đi theo. Chú đã hiệu nghiệm, bèn vào được cửa cung, có người giữ cửa rất nghiêm, phải đem thành tâm năn nỉ nhờ thông báo với phu nhân. Người này mới vào trình bày giúp mọi chuyện. Nữ A tu la vui mừng hớn hở, bảo rằng: “Mấy người đi đến?”. Thưa rằng: “Hai người”. Nữ A tu la căn dặn: ”Cho người trì chú được vào, kẻ tùy tùng tạm chờ ngoài cửa”. Người giữ cửa ra thông báo: “Đưa người trì chú vào trong”. Khi đệ tử thấy thầy được dẫn vào xong, không ngờ mình cũng đã về đến nhà rồi, đang đứng trước cửa phía Nam. Từ đó về sau, không còn nghe tin của kẻ ấy. Nhân thế, đệ tử phát tâm xuất gia cầu đạo, tình nguyện ở chùa thờ phụng Tam bảo. Chính miệng người thế gian ấy kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Pháp sư Huyền Trang nghe.

IV. Bộ thứ 4: QUỶ THẦN

Gồm có 11 phần: Thuật ý, Hội danh, Trụ xứ, Liệt số, Nghiệp nhân, Thân lượng, Thọ mệnh, Hảo xú, Khổ lạc, Quý tiện, Xá trạch.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Than ôi! Luận về quỷ thần phép thuật, chỉ thích yêu tà. Trong cõi u minh, chất nhiều tội lỗi. Hoặc ở hang sâu, hay nương gò lớn. Cuối ngọn khe xa, rừng thẳm, giữa lòng bụi rặm, bờ hoang. Kỳ dị âm thanh, lạ lùng hình dáng. Dọa nạt ngu tình, lay động phàm thức. Hoặc đội hình chim xác cá, lòng thú mặt người. Hoặc cử nhạc đàn ca, đánh dùi gõ mõ. Như các loài này, đều xin sám hối. Cùng thuộc chín châu miếu vũ, vạn quốc thần linh. Thái Bá ở Cô Tô, Quý Trể ở Diên Ấp. Hạ Vũ đào sông, khơi dòng đầm, động. Hà bá, sơn tinh, thần mưa, thần gió, tốt tươi bồi bổ, lộc trạch mang về. Hoặc bay trên ngọn trúc như rồng, như chim bay, nhạn liệng, hình dựa dẫm vào miếu thiêng, thể cận kề nơi lầu các. Làm mưa, phân gió nặng, nhẹ, nhỏ, to cho đến đại tướng già đầu, quỷ thần tóc kim Tú lợi lặc na, Bàn trà la sát, ba ngàn quyến thuộc, năm trăm tùy tùng, tất cả đều xin một lòng sám hối. Lại có kẻ nghiệp chướng nặng nhất, gọi là ngạ quỷ. Mắt sáng như chớp, họng nhỏ như kim, không nghe được tiếng nước nôi, mất hẳn mùi lương thực. Chân tay lửa đỏ nhất tề phát cháy, cử động rầm rộ như năm trăm xe. Hôm nay, thiện căn cũng được thấm nhuần đầy đủ.

Xin nguyện quỷ đang đói khát, ăn uống tự nhiên. Yêu mị quỷ thần, không còn nịnh hót. Xiển dương Phật pháp, che chổ thế gian. Bảo vệ tượng, kinh, cúng dường dốc chí. Ghi thiện chép ác, mãi mãi tu hành.

Thứ hai: PHẦN HỘI DANH

Sao gọi là đường quỷ? Như luận Lập Thế nói: “Đường quỷ tên là Thiểm đa. Bởi vì vua Diêm Ma La tên Thiểm đa. Chúng sinh ở đấy đồng loại với nhà vua nên gọi là Thiểm đa”.

Lại còn bảo thêm: “Đường này giao lưu với các đường khác, thiện ác tương thông, nên gọi là Thiểm đa”. Lại nữa, luận Tân Bà sa có câu hỏi rằng: “Vì sao đường ấy tên Bế lệ đa?”. Đáp: “Luận Thi Thiết bảo rằng vua của thế giới quỷ hiện nay tên là Diệm Ma. Khi kiếp này mới thành, có vua của thế giới quỷ tên Chủy đa. Thế nên, chúng sinh vào đường ấy, sinh ra ở đấy, đều gọi là Bế lệ đa. Tức là mọi ý nghĩa trong thế giới Chủy đa, từ đây trở về sau đều mang tên này cả”. Có người nói: “Do tăng trưởng tăng thượng tham lận, tạo tác các ác hạnh về thân, ngữ, ý nên phải về đường ấy, sinh vào đường ấy, chịu nghiệp quả đói khát. Trải qua hàng trăm ngàn năm không nghe được tên nước, huống gì thấy được, huống gì đụng được? Hoặc có loại bụng lớn như núi, họng nhỏ như lỗ kim, tuy gặp đồ ăn thức uống, nhưng không thể nào thọ dụng được”. Có người nói: “Bị sai khiến nên gọi là quỷ. Thường bị chư Thiên khắp nơi sai khiến nên phải bôn ba. Vì có hy vọng nên gọi là quỷ. Nghĩa là, vì trong năm đường kia, chúng sinh có hy vọng không nhiều hơn đường này, nhân thế mới gọi là quỷ. Lại nữa, mong cầu gọi là quỷ. Nghĩa là các ngạ quỷ ở đấy thường theo người khác, mong cầu ăn uống để nuôi sống tính mệnh, nên mới gọi là mong cầu”.

Thứ ba: PHẦN TRỤ XỨ

Như luận Bà sa nói: “Ngạ quỷ có hai chỗ ở: một là chính, hai là phụ. Thứ nhất là chỗ ở chính. Luận thuyết không nhất định. Luận ấy nói: “Cách phía dưới châu Diêm phù đề năm trăm do tuần, có thế giới quỷ do vua Diêm La cai quản”, đó là chỗ ở chính. Lại nữa, kinh Thiện Sinh Ưu bà tắc cũng đồng ý với luận thuyết này: “Dưới năm trăm do tuần, có thành trì của vua Diêm La. Chu vi bốn phía bảy vạn năm trăm ngàn do tuần. Nhà vua cư trú ở giữa để cai quản loài quỷ”. Lại nữa, như kinh Ngũ Đạo Khổ nói, loài ngạ quỷ này cư trú ở giữa hai ngọn núi Thiết Vi ấy, nên mới có kệ rằng:

“Giữa hai ngọn núi Thiết Vi ấy,

Không thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng. Ngạ quỷ cư trú ở trong đó, Để đền bù tội lỗi xa xưa”.

Thứ hai là chỗ ở phụ. Như luận Bà sa nói cũng không nhất định.

Có hai loại quỷ: một là có uy đức, hai là không có uy đức. Loại có uy đức ấy cư trú ở hang núi hoặc ở không trung, hay ở bờ biển. Loại ấy đều có cung điện, hưởng thụ phước báo hơn người. Loại không có uy đức, hoặc dựa vào phẩn uế dơ dáy để ở, hoặc dựa vào cây cỏ mộ phần để ở, hoặc dựa vào chỗ nhà xí cũ để ở. Loại này đều không có nhà cửa, phước báo thua người. Lại nữa, luận nói, trong bốn châu lớn đều có quỷ ở. Hai châu Đông Tây cùng có loại có uy đức và không có uy đức cư trú. Trong châu Bắc, chỉ có loại có uy đức, không có loại không có uy đức cư trú, do phước báo của loại ấy lớn hơn, nên mới được như thế. Thậm chí, trong Trời Đao lợi cũng có loại không có uy đức cư trú, để đáp ứng nhu cầu sai sử của chư Thiên. Từ đây trở lên, trong các Trời khác, không còn loài quỷ cư trú nữa. Thế nên, luận Bà sa bản dịch mới nói rằng: “Trong Trời Tứ thiên vương và Tam thập tam, chỉ có loài quỷ có uy đức lớn cư trú để lo liệu việc giữ cửa, canh phòng và tùy tùng cho chư Thiên”.

Có người nói: “Về phía Tây châu Thiệm Bộ này có năm trăm bãi nhỏ. Ở đó, loài quỷ chia nhau cư trú thành hai hàng (theo luận Bà sa bản củ thì ở phía Tây châu Diêm phù đề có năm trăm thành quỷ. Trong đó, tự phân chia hành hai hàng riêng biệt). Trong hai hàng bãi nhỏ này có năm trăm thành: hai trăm năm mươi thành do loài quỷ có uy đức cư trú, hai trăm năm mươi thành do loài quỷ không có uy đức cư trú. Bởi thế, ngày xưa có Chuyển luân vương tên Nệ Di bảo người đánh xe Ma đát lê rằng: “Ta muốn đi tham quan. Nhà ngươi hãy đánh xe chạy theo đường này, để ta thấy được cảnh chúng sinh thọ lãnh quả báo thiện ác”. Bấy giờ, Ma đát lê tuân theo lời nhà vua, khi đánh xe ngang qua hai hàng bãi nhỏ, nhà vua thấy loài quỷ có uy đức, đầu đội tràng hoa, mình mặc áo trời, ăn uống vị ngon giống như thiên tử, cưỡi xe voi, mọi người rong chơi vui thích. Nhà vua lại thấy loài quỷ không có uy đức thì đầu tóc rối bù, không mặc áo quần, nhan sắc khô héo, chỉ lấy tóc che thân, tay cầm bát đất đi ăn xin. Chứng kiến xong, nhà vua rất tin vào nghiệp quả thiện ác”.

- Hỏi: Đường quỷ hình dáng ra sao?.

- Đáp: Phần nhiều đứng thẳng lên giống người, nhưng cũng có loài nằm ngang, hoặc có mặt giống heo hay các loài cầm thú hung dữ khác, hệt như các hình được vẽ trên tường hiện nay”.

Hỏi: “Tiếng nói ra sao?”.

Đáp: “Khi kiếp mới thành, đều nói tiếng Thánh. Về sau, tùy theo chỗ ở mà nói thành thứ tiếng”. Hoặc có người nói: “Tùy theo chỗ nào vừa chết mà sinh vào đường này, thì sẽ có hình dáng và tiếng nói của chỗ ấy”. Bình luận rằng: “Không nên lập luận như thế. Nếu từ cõi vô sắc giới chết xong, đầu thai xuống đường này, há rằng không có hình dáng, không có tiếng nói chăng? Vậy thì, nên lập luận tùy theo chỗ sinh ra thế nào, thì sẽ có hình dáng và tiếng nói như thế ấy”.

Thứ tư: PHẦN LIỆT SỐ

Theo kinh Chánh Pháp Niệm nói rằng: “Tổng cộng ngạ quỷ có ba mươi sáu loại, do tạo nhân không giống nhau nên chịu quả đều khác biệt:

1. Quỷ trong vạc nước sôi: do nhận lời người khác thuê mướn sát sinh, bị quả báo nấu trong vạc nước sôi, hoặc nhận lời người khác giữ giùm rồi giằng co không trả lại nên phải bị quả báo này.

2. Quỷ hôi hám, miệng nhỏ như kim: đem của cải thuê mướn người sai đi sát sinh, nên có cổ nhỏ như mũi kim, một giọt nước cũng không lọt vào được.

3. Quỷ ăn ói mửa: do chồng khuyên vợ bố thí, vợ tiếc của bảo rằng không có. Bỏn xẻn gom góp của cải, nên thường bị ăn ói mửa.

4. Quỷ ăn phân: do vợ lừa dối chồng, ăn uống một mình, ghét bỏ hiềm nghi chồng, nên thường phải ăn phân của người khác tuôn ra.

5. Quỷ ăn lửa: do cấm đoán người về đường lương thực, khiến người tự sát, nên phải bị quả báo lửa đốt, kêu gào khổ sở vì đói khát.

6. Quỷ ăn mùi vị: do ăn nhiều món ngon, không chia cho vợ con, nên thường bị đói khát, chỉ được ngửi mùi vị mà thôi.

7. Quỷ ăn pháp: do tham của cải, thuyết pháp cho người, nên thường bị đói khát, da thịt tiêu tan. Phải nhờ Sa môn thuyết pháp, mới mong giữ được tính mệnh.

8. Quỷ ăn nước: do bán rượu như nước để mê hoặc kẻ ngu si, không giữ gìn trai giới, thường bị khát cháy khô.

9. Quỷ hy vọng: do tranh giành giá cả mua bán, lừa gạt người để lấy của nên thường bị đói khát. Chờ người cúng tế tiên linh mới được ăn.

10. Quỷ ăn khạc nhổ: do đem thức ăn không tinh khiết lừa gạt người tu hành, thân thường bị đói khát, luôn bị thiêu đốt, phải cầu xin người khạc nhổ và ăn đồ dơ của người.

11. Quỷ ăn tràng hoa: do kiếp trước ăn cắp tràng hoa của Phật để làm đồ trang sức cho mình. Nếu gặp người phải cúng vái, đem tràng hoa cúng tế tạ ơn, nhờ thế được ăn tràng hoa.

12. Quỷ ăn huyết: do sát sinh để cúng tế, không chia cho vợ con,

nên bị làm quỷ này. Phải dùng huyết bôi lên đồ cúng, mới có thể ăn được.

13. Quỷ ăn thịt: do lấy thịt của chúng sinh xắt nhỏ, cân lường, mua bán gian dối nên bị quả báo này. Khi cúng giỗ, phải dùng nhiều loại thịt mới có thể ăn được.

14. Quỷ ăn nhang: do bán nhang xấu để thu lợi nhiều, chỉ được ăn khói nhang, sau còn phải bị quả báo nghèo khổ.

15. Quỷ ăn nhanh: nếu có kẻ phá giới mà còn mặc pháp phục, lừa dối để lấy tiền của, nói dối đem cho người bệnh, nhưng lại không cho, tự mình ăn hết. Do bị quả báo này, thường ăn đồ dơ, tự thiêu đốt thân mình.

16. Quỷ rình cơ hội: do lập mưu mô lừa gạt lấy của cải, không cúng dường tu phước nên bị quả báo này. Lông lá trên mình phát cháy, ăn lấy khí lực dơ dáy của người để sống còn.

17. Quỷ hắc ám: do bẻ cong pháp luật, bắt người bỏ ngục để mưu cầu tiền tài, khiến người mắt chẳng thấy gì, tiếng thường rên xiết, nên phải bị quả báo ở ngục tối tăm, chứa đầy rắn độc, đau đớn như dao cắt.

18. Quỷ lớn sức: do trộm cướp của cải của người ta, đem chia cho người xấu, không cúng dường làm phước nên bị quả báo này. Có thần thông, lớn sức, nhưng chịu nhiều khổ não.

19. Quỷ rực lửa: do phá thành cướp bóc lương dân, nên bị quả báo này. Kêu gào la hét, khắp mình rực lửa. Sau đó, đầu thai làm người, thường bị cướp bóc.

20. Quỷ rình trẻ con: do giết trẻ con, khiến người sinh lòng giận lớn, nên bị quả báo này. Thường rình mò cơ hội để hại trẻ con.

21. Quỷ dâm dục: do thích dâm dục, có tiền của không cúng dường tạo phước nên bị quả báo này. Thường đi rong khắp thế gian, giao du với người, làm trò yêu quái để sống.

22. Quỷ ở hải đảo: do đi giữa đồng không, gặp người bị bệnh đau đớn, lừa gạt chiếm đoạt tiền của, phải bị sinh ra giữa hải đảo, chịu khổ sở về thời tiết nóng lạnh gấp mười lần người.

23. Quỷ cầm binh khí cho Diêm La: do kiếp trước được thân cận với vua quan, chuyên làm chuyện tàn ác nên phải chịu quả báo này. Bị sai phái làm quỷ cầm nghi trượng theo hầu nhà vua.

24. Quỷ ăn trẻ con: do đọc chú pháp mê hoặc người để lấy tiền của, sát hại heo, dê. Khi chết, bị đọa vào địa ngục. Sau đó, mới bị quả báo này, thường hay ăn thịt trẻ con.

25. Quỷ ăn tinh khí của người: do giả vờ làm bạn thân, hứa che chở người, khiến người trở nên dũng cảm, liều chết ở trận mạc. Mình không ra tay cứu giúp nên bị quả báo này

26. Quỷ la sát: do sát sinh để bày tiệc lớn nên phải chịu quả báo bị “lửa đói” thiêu đốt này.

27. Quỷ bị lửa đốt thân: do thói bỏn xẻn, ghen ghét che mất chân tâm, thích ăn đồ chay của Sa môn, bị đọa vào địa ngục, rồi từ địa ngục thoát ra, chịu quả báo làm quỷ bị lửa thiêu đốt thân mình.

28. Quỷ đầu đường ăn dơ: do đem đồ ăn không tinh khiết cúng dường đường Sa môn nên bị quả báo này. Thường ăn đồ dơ.

29. Quỷ ăn gió: do gặp Sa môn đến khất thực, đã hứa nhưng không chịu cúng dường thức ăn, nên bị quả báo này. Thường chịu đói khát khổ sở như trong địa ngục.

30. Quỷ ăn than hồng: do cai quản trại giam, cấm không cho ăn uống, nên bị quả báo này. Thường phải ăn than hồng.

31. Quỷ ăn lửa độc: do đưa đồ ăn có thuốc độc khiến người mất mạng, nên phải bị đọa vào địa ngục, sau sinh làm quỷ. Thường chịu đói khát, phải ăn lửa độc thiêu đốt thân mình.

32. Quỷ ở đồng không: do ở đồng không đào thành ao hồ để cung cấp nước cho kẻ bộ hành. Lại chửa rủa, quyết tâm phá bỏ, khiến người thiếu thốn khát nước, nên phải bị quả báo này. Thường bị đói khát, lửa cháy thiêu đốt thân mình.

33. Quỷ ăn tro tàn ở mồ mả: do ăn cắp hoa quả cúng Phật để sống, nên bị quả báo này. Thường ăn tro tàn còn nóng ở chỗ thiêu xác người chết.

34. Quỷ ở dưới cây: do thấy người trồng cây tạo bóng mát cho người, đem ác tâm chặt phá lấy gỗ về dùng, nên bị đọa vào trong cây, thường chịu khổ sở nóng lạnh.

35. Quỷ ở ngã tư đường: do trộm cướp lương thực của kẻ đi đường, tạo nên ác nghiệp, nên thường bị cưa sắt cắt xẻ thân hình. Nhờ thiên hạ cúng vái ở ngã tư đường, kiếm lấy đồ ăn sống qua ngày.

36. Quỷ có thân Ma la: do làm tà đạo, không tin chánh pháp, nên bị đọa vào địa ngục. Thường phá hoại các phép lành của người khác”.

Theo luận Thuận Chánh Lý nói: “Quỷ ấy có ba loại, ấy là quỷ không của cải, quỷ ít của cải và quỷ nhiều của cải.

Quỷ không của cải lại có ba loại là quỷ miệng đuốc, quỷ miệng kim và quỷ miệng hôi. Quỷ miệng đuốc thì trong miệng thường phun lửa mạnh, cháy rực không ngừng. Thân như bị đốt cháy giống cây Đa la. Đây là quả báo gây nên do quá sức keo kiệt. Quỷ miệng kim thì quỷ này bụng lớn, có sức chứa như hang núi, miệng nhỏ như lỗ kim. Tuy thấy các loại đồ ăn uống cao sang ngon tuyệt, cũng không thể hưởng thụ được. Bị đói khát hành hạ, khó chịu đựng nổi. Quỷ miệng hôi thì quỷ này trong miệng thường phát ra mùi hôi cực kỳ thối tha, hơn cả mùi phân ô uế bốc lên ở cửa hố xí. Mùi hôi tự bốc lên, bắt phải nôn khan. Giá có thức ăn, cũng không thể nuốt được. Khổ não vì đói khát, kêu réo chạy nhảy một cách điên cuồng.

Quỷ ít của cải cũng có ba loại, ấy là quỷ lông kim, quỷ lông hôi và quỷ có bướu. Quỷ lông kim thì loại này lông lá cứng rắn, cưa bén cũng không ăn vào. Trong thì cọ nhằm nội tạng, ngoài thì găm vào loài khác. Như nai trúng tên độc, kinh hoàng chạy nhảy một cách điên cuồng. Có khi gặp được đồ dơ, tạm thời giúp cơn đói khát. Quỷ lông hôi thì loại này lông lá rất hôi hám. Ô uế thường hun húc thối tha xương thịt, bốc hơi rã nát ruột gan. Xông lên cổ họng thành nôn. Độc địa khó chịu, phải véo thịt nhổ lông, rách nát da thịt, càng thêm khổ sở. Có khi gặp được đồ dơ, tạm thời giúp cơn đói khát. Về quỷ có bướu, thì loại này do ng hiệp lực xấu xa, nên cổ họng sinh ra bướu lớn, như mụt nhọt lớn. Nhức nhối, nóng sốt, đau đớn càng thêm tệ hại. Có khi máu mủ vọt lên, cùng giành nhau ăn lấy, tạm qua cơn đói.

Quỷ nhiều của cải cũng có ba loại ấy, ấy là quỷ mong cúng tế, quỷ mong đồ nhổ bỏ và quỷ có thế lực. Quỷ mong cúng tế thì quỷ này thường ngày đến trong đền thờ hưởng lộc của người cúng tế, sẵn có tự nhiên Đôi khi du lịch phương xa, như chim tung cánh giữa trời, đi về thỏa thích. Nhờ vào kiếp trước, hiểu biết cao xa, hy vọng thế này: “Một mai, nếu ta mệnh chung, tất cả con cháu chắc hẳn sẽ cúng tế cho ta đầy đủ cho ta phẩm vật ăn uống”. Do nghiệp lực của nhận thức ấy, được sinh vào loại quỷ này. Theo nhân lành của kiếp trước, nên thọ lãnh được sự cúng tế. Hoặc có kẻ, kiếp trước vốn yêu quý người thân, vì muốn cho ai nấy đều được giàu có no đủ, nên đã không theo chánh pháp, tom góp báu vật, nuôi lòng keo kiệt, không biết bố thí. Theo ác nghiệp này, phải sinh vào trong đường quỷ, ở các chỗ bài tiết dơ dáy, bên cạnh nhà cũ. Người thân nhớ đến, đón rước Sa môn, Phạm chí, kẻ cô đơn nghèo khổ để cúng dường làm phước. Quỷ ấy thấy xong, đối với người thân và các của cải, trong lòng nhớ lại và thấy rõ ràng quả báo keo kiệt hiện tại. Lòng sinh tin tưởng vào chuyện cúng dường tạo phước. Tiếp tục tăng trưởng, dứt bỏ được nghiệp tương ứng. Nhờ thế, thành tựu được nghiệp quả Thuận hiện pháp thụ. Nhân thế lực này, nên được giàu có no đủ.

Quỷ mong đồ nhổ bỏ thì loại này thường muốn thu dọn đàm dãi nhổ bỏ và phân dư của người để làm đồ ăn uống, cũng được sung túc. Vì loại quỷ này, ở vào kiếp trước, mỗi khi ăn uống, thấy dơ uế thì cho là không, tinh khiết thì cho là dơ uế. Nhờ vào phước lực hiện tại, tùy theo nhu cầu, đều được sung túc. Miếng ăn thức uống, tuy có sẵn tự nhiên, nhưng do quả báo không giống nhau, nên không thể mong cầu nhiều hơn được. Bởi lẽ, như trong đường địa ngục, chịu quả dị thục, dứt xong lại nối, ở các đường khác thì không. Như trong đường người, có kẻ siêu phàm, tu theo Phạm hạnh, trong các đường khác thì không. Như trong đường trời, tùy theo nhu cầu, mọi thứ hiện đủ. Về những thứ này, tuy có sẵn tự nhiên, nhưng không thể ở trong đó, mong cầu một số lượng giống nhau nhất định. Quỷ có thế lực lớn thì rất tương đồng với lời của luận Bà sa đã nói trước đây”.

Lại nữa, luận Du Già nói: “Đường quỷ có ba loại: một là quỷ ngoại chướng, nghĩa là chúng sinh ấy, vì thói keo kiệt quá cao, phải sinh vào đường quỷ, chịu quả báo đói khát tương ứng. Da thịt héo queo, giống như than đỏ. Đầu tóc bù rối, môi miệng cháy khô. Thường hay lấy lưỡi, liếm láp miệng mặt. Đói khát kinh hoàng, chạy bay khắp xứ. Đến chỗ suối hồ, gặp chúng sinh khác, tay cầm dao gậy, chận chẳng cho vào. Nước thành máu mủ, không thể uống được. Đấy gọi là quỷ ngoại chướng.

Hai là quỷ nội chướng, nghĩa là loài ấy, miệng lớn bằng kim, bụng dạ to tướng. Nếu được miếng ăn, cũng không nuốt được. Đấy gọi là quỷ nội chướng.

Ba là có loài ngạ quỷ tên Vầng lửa dữ, trong các bữa ăn, đều bị đốt cháy. Do nhân duyên này, đói khát quá khổ. Đấy gọi là quỷ vô chướng”.

Còn như, mua danh chuốc lợi, trả báo làm vui. Độc địa hại người, sẽ rước ác quả. Tuy thế, thiện như leo núi, đương nhiên khó lên, ác giống rơi xuống, dễ dàng thực hiện. Bởi vậy, thiên đường mở rộng, người đến lưa thưa, địa ngục đậy lồng, kẻ vào chen chật!

Thứ năm: PHẦN NGHIỆP NHÂN

Như luận Trí Độ nói: “Ác có ba bậc, nhưng tạo ác bậc dưới, liền sinh vào trong đường ngạ quỷ”. Theo luận Thập Địa, cũng đồng lý thuyết này: “Trong mười nghiệp ác, vừa tạo nghiệp nào, trước tiên, tất cả phải sinh vào ba đường ác, sau đó, mới được làm thân người”. Còn theo kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Nếu nổi tham, ghen, nịnh nọt, ton hót, lừa dối đối với người, hoặc lại tham lam keo kiệt, giữ của không chịu bố thí, đều bị sinh vào đường quỷ. Từ trong đó chết đi, phần nhiều bị sinh vào trong đường Súc sinh. Phải làm chim Già tra ca, thường xuyên đói khát, chịu nhiều thảm não. Chỉ uống nước trời mưa, ngước cổ hứng lấy, không được uống thêm các loại nước khác. Bởi thế, luôn luôn chịu khốn khổ đói khát”. Theo kinh Nghiệp Báo Sai Biệt nói: “Tạo đủ mười nghiệp sau đây, sẽ phải sinh vào trong đường ngạ quỷ: một là thân làm ác nhỏ, hai là miệng làm ác nhỏ, ba la ý làm ác nhỏ, bốn là keo kiệt bủn xỉn, nhiều tham lam, năm là tâm không phân biệt ác, sáu là ton hót ghen ghét, bảy là nổi lên tà kiến, tám là yêu quý của cải đến nỗi bỏ mạng, chín là nhịn đói đến nỗi chết mất, mười là nhịn khát đến nỗi chết mất. Do mắc mười nghiệp này, phải sinh vào đường Ngạ quỷ”.

Lại nữa, luận Phân Biệt Công Đức nói: “Có các Sa môn thực hành phép Thiền quán, hoặc ở mồ mả, hoặc ở dưới tàn cây. Bấy giờ, ở dưới tàn cây, quán đến tử thi. Ban đêm, thấy ngạ quỷ đánh một tử thi. Sa môn hỏi rằng: “Tại sao lại đánh tử thi này?”. Ngạ quỷ trả lời: “Vì tử thi này làm tôi khổ sở đến thế này, nên tôi phải đánh nó”. Sa môn nói: “Tại sao không đánh tâm của nhà ngươi, lại đánh tử thi này? Liệu có ích gì!”. Một lát sau, lại có một vị Trời đem hoa Mạn đà la trên trời rải lên xác thối ấy. Sa môn hỏi rằng: “Tại sao rải hoa lên xác thối này?”. Vị trời trả lời: “Ta nhờ tử thi này mới được sinh lên trời. Tử thi này chính là bạn tốt của ta, nên ta xuống đây rải hoa lên, để báo đáp ơn nghĩa xa xưa”. Sa môn trả lời: “Tại sao không đem hoa rải lên trong tâm của ông, lại đem rải lên cho tử thi? Này! Cội gốc của hành động thiện ác đều do tâm tạo ra. Vậy mà lại bỏ gốc tìm ngọn!”.

Thứ sáu: PHẦN THÂN LƯỢNG

Như kinh Ngũ Đạo nói: “Tầm vóc lớn nhất của ngạ quỷ thì cao một do tuần, đầu như núi lớn, trong cổ họng nhỏ như kim, tóc tai bờm xờm, hình dung gầy guộc, chống gậy mà đi. Tầm vóc như thế, thì thật là nhiều. Nhỏ nhất thì bằng đứa trẻ mới biết đi”. Có người nói: “Kích cỡ chừng trong khoảng ba tấc, theo kinh đã nói đầy đủ, không cần phải ghi chép rõ ràng”.

Thứ bảy: PHẦN THỌ MỆNH

Như kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Có ngạ quỷ sống thọ nhất được tám vạn bốn ngàn tuổi, yểu thì không có hạn định”. Theo luận Thành Thật, thọ nhất được bảy vạn tuổi, yểu cũng không có hạn định”.

Nếu theo kinh Ưu bà tắc nói: “Thọ nhất được một vạn năm ngàn tuổi. Như một ngàn năm trăm năm của nhân gian bằng một ngày đêm của ngạ quỷ. Ngạ quỷ ấy thọ một vạn năm ngàn tuổi, nếu tính theo ngày tháng của nhân gian, sẽ phải là hai ngàn bảy trăm vạn tuổi”. Nếu theo kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Có loài quỷ sống thọ năm trăm tuổi. Như mười năm của nhân gian bằng một ngày đêm của ngạ quỷ. Ngày đêm dài như thế. Quỷ ấy thọ năm trăm tuổi, nếu tính theo số ngày tháng của nhân gian, sẽ phải là một tám mươi vạn tuổi”.

Thứ tám: PHẦN HẢO XÚ

Như luận Bà sa nói: “Thứ nhất là đẹp. Đẹp trong đường quỷ thì như loại có uy đức, thì hình dung đoan chính, không khác chư Thiên. Vả lại, tất cả các thần núi, thần biển của ngũ nhạc, tứ độc đều rất đoan chính, gọi là đẹp cả. Thứ hai là xấu, ấy là loại quỷ không có uy đức. Hình dung xấu xí, không thể nói hết. Thân xẹp như bụng chó đói, đầu rối như mớ bòng bong. Cổ họng nhỏ xíu bằng đầu kim, chân tay teo như cành củi mọc. Miệng thường chảy dãi, mũi tuôn lòng thòng. Trong tai mưng mủ, trong mắt ứa máu. Loại quỷ như thế, gọi là xấu nhất”.

Thứ chín: PHẦN KHỔ LẠC

Như luận Bà sa nói: “Thứ nhất là khổ trong đường quỷ, tức là loài quỷ không có uy đức ở đấy. Thường xuyên đói khát, không nghe đến tiếng nước nôi, há gặp được thứ cam lộ ngọt ngào ấy? Giả thuyết gặp được sông sâu muốn uống, liền biến thành lửa đuốc cháy phừng. Vì phỏng được đưa vào cổ, lập tức gan ruột cháy sém rã rời. Như loại quỷ này, há chẳng khổ sao? Thứ hai là vui trong đường quỷ, tức là loại quỷ có uy đức ở đấy, luôn luôn giàu có đẹp đẽ. Áo quần tự nhiên có sẵn. Thân mặc áo trời, miệng ăn mỹ vị của trời. Hình dáng lớn cao phóng khoáng, dong xe thong thả lướt đi. Chơi đùa thỏa thích, không khác gì trời. Như loại quỷ này, há chăng vui sao?”.

Hỏi: “Nếu đã vui như thế thì hơn hẳn người. Tại sao kinh nói người và quỷ khác đường?”. Đáp: “Kinh nói đường quỷ thần không bằng đường người. Tóm tắt có hai lý do: một là hưởng báo phần hiển hiện không bằng người. Vì quỷ thần ở đấy ngày núp đêm đi, nên không bằng người. Hai là nhút nhát, nhiều lo sợ, nên không bằng người. Tuy có uy đức, nhưng vì phước báo yếu kém nên thường lo sợ người. Giả sử đêm ngày gặp người, thường phải ẩn núp né tránh”.

Hỏi: Đã yếu kém hơn người, tại sao lại có phước báo uy đức bằng

chư Thiên?.

Đáp: Đúng thế, vì do tiền thân đã bố thí nhiều, nên hưởng được báo thân có uy đức. Do tiền thân đã ton hót, không thành thật, nên phải sinh vào đường quỷ này.

Thứ mười: PHẦN QUÝ TIỆN

Như luận Bà sa nói: “Quỷ có uy đức thì gọi là sang, quỷ không có uy đức thì gọi là hèn. Lại nữa, quỷ làm chúa thì gọi là sang, quỷ bị sai sử thì gọi là hèn. Giàu nghèo thì thế nào? Quỷ có uy đức thì có nhiều quần áo, có dư vật thực, được phục dịch tự tại, ấy gọi là giàu. Thân thường phải bôn ba, phải luôn luôn làm lụng, miếng cơm hẩm không nghe, manh áo rách khó gặp. Như loại quỷ này, đáng gọi là nghèo vậy”.

Thứ mười một: PHẦN XÁ TRẠCH

Như luận Bà sa nói: “Quỷ có uy đức thì có đền đài trang hoàng bằng bảy loại châu báu. Tất cả các vị thần trong đất nước đều có đền đài làm chỗ cư trú. Quỷ không có uy đức như loại quỷ lang thang trôi nổi, như loại quỷ đói khát, đều không có nhà cửa. Tạm thời nương náu nơi mồ mả, đắp đổi dựa chân trong chốn chùa chiền, hay trong hang hốc, cỏ cây. Ấy là nơi cu trú của chúng”. Bởi thế luận Trang Nghiêm nói rằng: “Phật bảo, ngày xưa ta từng nghe có người con trai của nhà buôn lớn tên là Ức Nhĩ, vượt biển để tìm mua châu báu, xong xuôi thì trở về. Vì tách ở riêng với đồng bạn, bị thất lạc, nên đâm ra hết sức kinh hoàng. Bị đói khát hành hạ, thấy xa xa có một ngôi thành, cho là có nước, cố đến bên thành, muốn xin nước uống, nhưng thành ấy là thành của ngạ quỷ. Khi vào trong thành, ngay ngã tư đường, là nơi mọi người tu hội, thì chẳng thấy gì. Vì quá đói khát, cất tiếng lên xin: “Nước! Nước!”. Bọn ngạ quỷ nghe được tiếng “nước, nước” ấy, nhất tề xông đến: “Không biết có kẻ nào đem nước cho chúng ta đây?”. Bọn ngạ quỷ này, thân thể như cột nhà cháy, xõa tóc quấn quanh mình, cùng chắp tay nói thế này: “Xin cho bọn tôi nước uống!”. Ức Nhĩ thấy thế, nói rằng: “Tôi bị cơn khát hành hạ quá, nên mới đến đây xin nước”. Bấy giờ, bọn ngạ quỷ nghe Ức Nhĩ nói vì bị cơn khát hành hạ, nên mới đi tìm nước thì hy vọng của chúng liền tiêu tan. Tất cả đều thở dài, nói thế này: “Ông há không biết đây là thành của ngạ quỷ sao? Làm sao có thể kiếm được nước ở trong thành này!”. Bèn nói kệ rằng:

“Bọn tôi ở thành này,

Đã trăm nghìn vạn kiếp,

Còn chưa nghe tên nước, Huống gì là chuyện uống? Giống như cây Đa la, Bị đốt cháy phực lên. Bọn tôi cũng như thế,

Chân tay bị nhen lửa. Đầu tóc như bòng bong, Thân thể đều nứt bấy.

Đêm ngày nhớ uống ăn, Kinh hoảng kiếm mười phương. Đói khát hành hạ quá, Há miệng chạy đi xin. Có người xách gậy rượt, Tìm, bắt đánh rất đau. Hèo quất, không cho đến, Bọn tôi đành cam chịu.

Làm sao có được nước, Để đem cho người khác?

Kiếp trước của bọn tôi, Rất tham lận, ghen ghét. Chưa từng cho một ai, Nước uống và thức ăn.

Của mình đã không cho, Còn bắt người đừng cho. Vì tạo nghiệp ác ấy,

Hôm nay chịu khổ này”.

CẢM ỨNG DUYÊN:

Trích dẫn sơ lược sáu chuyện linh nghiệm.

1. Tư Mã Văn Tuyên đời Tống, người Hà Nội: cũng tin Phật pháp. Vào năm Nguyên Gia thứ chín, đang có tang mẹ thì em mất. Sáng ngày rằm, bỗng thấy em mình hiện nguyên hình trên linh vị, không khác ngày thường. Quanh co thở dài, xin cho ăn uống Văn Tuyên hỏi thử: “Lúc còn sống, em tu hạnh thập thiện. Theo kinh nói, phải được sinh lên trời hay sinh làm người. Tại sao lại sinh vào đường ngạ quỷ thế này?”. Người em cúi xuống, nhìn lên, trầm ngâm im lặng, không chịu trả lời. Ngay đêm ấy, Văn Tuyên mơ thấy em mình về nói: “Công phu tu thiện của em đã được quả báo sinh lên trời rồi. Con quỷ sáng nay hiện ra trên bàn thờ chỉ là loại quỷ mị, không phải là em. Sợ anh ngờ vực, nên phải đến nói rõ cùng anh”. Sáng hôm sau, Văn Tuyên mời tăng sĩ đến tụng kinh Lăng Nghiêm và sai người đánh đuổi đi. Con quỷ ấy liền trốn dưới giường rồi chạy ra ngoài cửa, hình thù khá xấu xí. Cả nhà đều kinh hãi, mắng nhiếc đuổi đi. Quỷ trả lời: “Đói quá phải đến xin ăn thôi. Ít lâu sẽ đi!”. Một lát sau, trên đầu bàn thờ của mẹ ông lại có một con quỷ khác, da dẻ hình dung màu đỏ, thân thể rất cường tráng. Văn Tuyên thở dài, gợi chuyện qua lại, đều trả lời rành mạch. Lúc đầu còn sợ sệt, cuối cùng cũng hơi quen thuộc. Con quỷ cũng lân la lại gần, ăn ở vào ra gần như người nhà.

Bấy giờ, ở kinh đô cùng nhau truyền miệng đồn đãi. Người xem đi về, dấu chân chồng chéo đầy cửa. Lúc ấy, tại chùa Nam Lâm có một tăng sĩ cùng với tăng sĩ ở chùa Linh Vị là Sa môn Hàm đã cùng với con quỷ đàm luận, cũng rất khúc chiết. Quỷ nói: “Kiếp trước, tôi cũng từng là người tôn quý. Vì phạm nhiều tội ác, phải chịu quả báo, chưa trả xong thì làm quỷ. Đến năm Dần, sẽ có đám quỷ bốn trăm đứa, bọn chúng làm ra bệnh dịch. Trong những người phải chịu nạn, không liên can đến các vị tu hành. Nhưng bọn quỷ ngang ngược đông quá, sẽ lạm dụng ra uy thiện phước, nên trên sai tôi đến giám sát bọn chúng”. Tăng sĩ đưa đồ ăn đến cho. Quỷ nói: “Tôi đã có đồ ăn, không cần phải đem cho những thứ này”. Sa môn Hàm nói: “Quỷ biết nhiều chuyện, hãy nói thân ta từ đâu đến? Tại sao làm Sa môn?”. Trả lời rằng: “Từ đường người đến. Nhân duyên xuất gia vốn do lời thệ nguyện”. Hỏi về chung cuộc của những lẽ tồn vong, sinh tử, quỷ trả lời đại khái, đều có hiệu nghiệm rõ ràng. Những chi tiết ấy rất nhiều, không thể ghi chép tỉ mỉ. Sa môn Hàm hỏi: “Ông vốn không đến xin ăn, tại sao ở lâu đến thế?”. Quỷ trả lời: “Tại đây có một cô gái, đáng lẽ phải bị bắt. Nhưng vì giữ gìn giới hạnh tinh tiến, nên không thể bắt được. Lâu nay, tôi nấn ná ở đây là vì chuyện ấy. Làm quấy rối chủ nhà, thật đáng hổ thẹn!”. Từ đó về sau, rất ít thấy bóng dáng. Những kẻ đến xem sau, chỉ còn được nghe tiếng nói. Bấy giờ là năm Nguyên Gia thứ 10, đến ngày 28 tháng 3, quỷ nói với Văn Tuyên rằng: “Lâu nay đến ở nhờ, thấy ông xuất hết của cải làm phước. Đáng nễ như thế, làm sao ở lâu?”. Hiếu Tổ (tự của Văn Tuyên) trả lời: “Đã cho ông ở nhờ, tại sao lại ở trên bàn thờ tổ tiên của người ta?”. Trả lời: “Những người đã mất trong nhà ông đều có chỗ ở cả. Chỗ này chỉ bày suông ra thôi. Thế nên, tôi mới ở tạm”. Liền đó, từ biệt ra đi.

2. Vương Hồ đời Tống, người Trường An: Có người chú mất đã

vài năm, đến năm Nguyên Gia thứ hai mươi ba, bỗng hiện hình về nhà, trách Hồ chỉ lo tu hành, bỏ phế việc nhà không lo liệu, đánh phạt năm mươi gậy. Những người hai bên và làng xóm đều nghe tiếng nói và tiếng gậy đánh phạt của người chú, lại thấy cả vết roi, nhưng không thấy hình dáng của người chú. Chỉ một mình Hồ là thấy được. Người chú bảo: “Số ta chưa đáng chết. Thần bảo cần ta để coi sóc bọn quỷ. Nay ta phải đi theo đoàn quan binh đông đảo, sợ kinh động hàng xóm nên không cho vào”. Hồ cũng thấy đoàn quỷ náo động ở ngoài làng. Giây lát, người chú từ biệt ra đi, và bảo rằng: “Ngày mồng bảy tháng bảy sang năm, ta sẽ trở về đưa cháu đi tham quan cõi âm, để biết sự báo ứng của tội phước. Không cần bày vẽ tốn kém, nếu cháu không bỏ ý định, chỉ mang theo trà thôi”. Đến kỳ hẹn, quả nhiên người chú trở về nói với người nhà của Hồ: “Nay ta đưa Hồ đi tham quan xong sẽ cho về. Chẳng có gì đáng lo ngại”. Hồ lập tức nằm lên giường, lặng bặt như chết. Liền đó, người chú đưa Hồ đi tham quan khắp các chỗ núi non, xem đủ các loài yêu quỷ. Cuối cùng, đến Tung Sơn, bọn quỷ gặp Hồ, đều làm tiệc thết đãi. Những món ngon đem mời không khác với thế gian, chỉ có món gừng thì rất giòn và ngon tuyệt. Hồ muốn giấu đem về. Bọn ngồi hai bên cười Hồ và nói: “Chỉ nên ăn tại đây, không được mang về”. Đến cuối, Hồ thấy một chỗ nhà cửa đẹp đẽ, rộng rãi. Màn chiếu sạch sẽ, chỉnh tề. Có hai tăng sĩ nhỏ tuổi ở đó. Hồ bước đến, hai tăng sĩ nhỏ tuổi dọn mời trái cây và trầu cau. Hồ đi tham quan cũng lâu, thấy đủ báo ứng của tội phước khổ vui, bèn xin từ biệt trở về. Chú của Hồ bảo: “Cháu đã biết thiện rất đáng tu, không nên tu tại gia. Ngài chân trắng như lụa, giới hạnh tinh tiến cao siêu. Thật xứng đáng làm thầy!”. Ở Trường An có vị Sa môn chân trắng không dơ, nên người đương thời gọi là Bạch túc a luyện (chân trắng như lụa bạch), được giặc Ngụy rất tôn kính. Vua giặc Ngụy tôn làm thầy. Hồ đã đến xin quy y với ngài trong chùa, liền thấy hai tăng sĩ nhỏ tuổi từng gặp năm trước trên Tung Sơn đang theo học trong đại chúng. Hồ thất kinh, đem kể lể chuyện xa cách, hỏi thăm đến đây từ lúc nào. Hai tăng sĩ trả lời: “Bần đạo lâu nay vẫn ở chùa này, không nhớ trước đây có quen biết với huynh”. Hồ nhắc lại chuyện gặp gỡ trên Tung sơn. Hai tăng sĩ nói: “Huynh lầm với ai rồi! Đâu có chuyện ấy!”. Đến sáng hôm sau, hai tăng sĩ tự nhiên đi mất. Hồ đem kể rõ cho các Sa môn chuyện gặp mặt trước đây trên Tung sơn. Đại chúng đều kinh ngạc, lập tức đi tìm hai tăng sĩ, không biết ở chỗ nào. Mới hiểu ra, họ chính là thần nhân.

Cuối niên hiệu Nguyên Gia, có tăng sĩ ở Trường An tên là Thích

Đàm Sảng đến chơi Giang Nam, kể rõ đầu đuôi như thế.

3. Lý Đán đời Tống, tự là Thế Tắc, người Quảng Lăng: nhờ hiếu thảo, cẩn trọng, thành thật, nổi danh khắp làng xóm. Ngày mười bốn tháng giêng năm Nguyên Gia thứ 3, đột ngột chết mất, nhưng lồng ngực vẫn còn ấm. Bảy ngày sau sống lại, đút cháo cho ăn, một lúc sau bình thường như cũ, kể rằng: “Có người cầm phướn làm hiệu, đến đầu giường bảo vua Diêm La có lệnh cho gọi. Đán liền đi theo một mạch về hướng Bắc. Đường xá rất bằng phẳng, yên lặng. Khi đến nơi, thấy thành quách lầu gác cao lớn đẹp đẽ, giống như cung điện hiện nay. Sai viên truyền giáo hỏi thăm và bảo đi tới trước. Thấy trên tòa sảnh lớn có ba mươi vị ngồi làm việc. Mặc áo đơn, chít khăn xanh, phân ban ngồi rất đông đúc. Một vị ngồi phía Đông, mặc áo bào, tựa vào ghế. Thị vệ hầu hạ hơn trăm người. Người ấy nhìn Đán rồi phán với các vị đang ngồi rằng: “Nên chỉ cho thấy địa ngục để nhân gian biết rõ”. Đán vừa nghe phán xong, ngửng đầu lên nhìn quanh bốn phía, không nhận ra đâu nữa. Nhìn lại thì thấy đang ở trong địa ngục, thấy đám tội nhân đang chịu quả báo, rên rĩ kêu gào không thể nhìn nổi. Bỗng viên truyền giáo nói: “Vua Diêm La cho phép ông về. Sẽ đến đón ông lần nữa”. Nhờ thế, mà được trở về. Đến tháng giêng năm Nguyên Gia thứ 6 lại chết. Bảy ngày sau sống lại, thuật rõ mọi chuyên đã thấy, đại khái cũng như trước đây. Hoặc có tội nhân gởi lời nhắn lại với gia đình, lúc sống đã phạm tội, nhờ ra tay làm phước giùm cho. Nói qua tên họ, thân thích, làng xóm. Đán theo lời tìm đến, đều gặp được để chuyển lời. Đán còn nói vào năm giáp Thân, sẽ xảy ra trận dịch để tiêu diệt kẻ ác. Đệ tử thờ Phật, giữ giới Bát quan trai, tu tâm làm lành sẽ đượt thoát nạn. Đán giữ chức tế tửu của Đạo gia, bèn muốn bỏ đạo của mình. Đồ chúng khuyên răn, nên Đán theo cảhai bên, nhưng vẫn thường nhắn nhủ thực hành phép Bát quan trai.

4. Vào năm Nguyên Gia thứ bốn đời Tống: Thượng thư Bộc xạ Trịnh Tiên Chi, người đất Vinh Dương, tháp tùng nhà vua đi tuần sát kinh thành. Vừa tới nơi, đang đêm liền chết đột ngột. Ông hiển hiện lời thiêng bảo với mọi người: “Thọ mạng của ta đã hết lâu rồi, đáng ra phải chết sớm hơn. Nhờ suốt mấy năm nay, kính tin Phật pháp, bố thí phóng sinh. Vì công đức ấy nên mới kéo dài thêm được mấy năm. Than ôi! Lẽ báo ứng của hai cõi âm dương vốn có ảnh hưởng cùng nhau. Cần phải lìa bỏ thế tục, chuyên tâm phụng thờ Chánh pháp”. Bấy giờ, nhiều kẻ tôn quý cao sang đều nghe những điều ấy. (Bốn chuyện linh nghiệm trên đây rút từ Minh Báo Ký).

5. Huề Nhân Thiến là người Hàm Đan ở quận Triệu đời Đường: Thưở nhỏ theo học sách Nho, không tin quỷ thần. Thường muốn xem quỷ thần có thực hay không, đã đến một người dạy cho thấy quỷ học hơn mười năm, cũng chẳng thấy gì. Về sau dời nhà sang huyện Hướng. Trên đường đi, gặp một người giống quan lớn, áo mão rất lộng lẫy, cưỡi ngựa tốt, có hơn năm mươi tùy tùng, nhìn Nhân Thiến nhưng chẳng nói gì. Sau đó, vẫn thường gặp người ấy, nhưng thái độ vẫn như thế. Suốt hơn mười năm, cả thảy mấy chục lần. Sau nữa, bỗng dừng ngựa gọi Nhân Thiến, nói: “Thường gặp ông luôn, lòng ta rất hâm mộ. Xin được kết giao cùng ông”. Nhân Thiến liền vái chào, hỏi: “Ông là ai thế?”. Đáp: “Ta chính là quỷ đây. Họ là Thành, tên Cảnh, vốn người ở Hoằng Nông, làm Biệt giá thời Tây Tấn, hiện làm Trưởng sử ở nước Hồ”. Nhân Thiến hỏi: “Nước ấy ở đâu? Nhà vua tên họ gì? Đáp: “Phía Bắc Hoàng Hà đều là lãnh thổ của nước ấy. Kinh đô đóng tại phía Tây Bắc Lâu Phiền, là Sa Thích đấy mà! Nhà vua chính là Vũ Linh vương của nước Triệu ngày xưa, nay cai trị nước ấy, dưới sự thống lãnh của Thái Sơn. Hằng tháng, nhà vua đều sai Thượng tướng về chầu Thái Sơn. Thế nên, ta thường đi qua nơi đây và cùng ông gặp gỡ. Ta cũng có thể giúp cho ông biết trước tai họa để tránh né, thoát khỏi thiệt hại. Chỉ trừ định mệnh sống chết và báo ứng của họa phước lớn lao thì không thể thay đổi được mà thôi”. Nhân Thiến bằng lòng. Do đó, Thành Cảnh tặng cho một viên tùy tùng là thư ký họ Thường, sai đi theo Nhân Thiến và dặn dò: “Có chuyện sắp xảy ra, hãy báo trước cho Nhân Thiến biết. Chuyện gì nhà ngươi không biết nổi, phải đến báo cho ta hay”. Liền đó, từ biệt ra đi. Thường thư ký luôn luôn đi theo Nhân Thiến, giống như người hầu. Mỗi khi có chuyện cần tham vấn, chắc chắn đều biết trước. Bấy giờ, vào đầu niên hiệu Đại Nghiệp, Chi Tượng ở Lăng Sầm lành lệnh doãn tại Hàm Đan. Con là Văn Bản, tuổi còn niên thiếu. Chi Tượng mời Nhân Thiến đến nhà giảng sách cho Văn Bản. Nhân Thiến đem chuyện này kể cho Văn Bản nghe, rồi nói: “Thành Trưởng sử nói với ta, có một chuyện xấu hổ với ông lắm, không thể nói ra được. Nhưng đã chơi thân với ông, không thể không nói cho ông hay. Đường quỷ thần cũng có ăn uống thật, nhưng ăn không được no, luôn luôn khổ vì đói. Nếu ăn được một bữa của người, thì sẽ no suốt một năm. Vì thế, phần đông bọn quỷ đều đi ăn trộm của người. Ta đã có địa vị cao sang, không thể làm chuyện trộm cắp như thế. Xin ông cho một bữa ăn”. Khi Nhân Thiến đem chuyện ấy nói với Văn Bản, Văn Bản cho làm cỗ đủ các món ăn ngon quý. Nhân Thiến nói: “Quỷ không muốn vào nhà người, phía ngoài bờ sông, nên giăng màn trải chiếu, bày tiệc dọn rượu lên trên”, Văn Bản làm theo lời ấy. Đến ngày, Nhân Thiến thấy Cảnh và khách khứa cùng đến, hơn trăm tùy tùng cũng đã ngồi yên. Văn Bản đứng lên vái chào, tạ lỗi vì cơm rượu chưa mấy tinh mỹ, đồng thời cũng truyền đạt lòng cảm tạ của Cảnh. Trước đó, khi Văn Bản sắp thết đãi, Nhân Thiến xin sắm vàng lụa để làm quà tặng. Văn Bản hỏi: “Đó là những thứ gì?”. Nhân Thiến nói: “Vật dụng của quỷ đều khác với người, chỉ có vàng và lụa thì thông dụng như nhau, nhưng tốt nhất là đồ giả. Lấy màu vàng bôi lên thiếc trắng làm vàng, lấy giấy làm bạc là giá trị nhất. Văn Bản theo lời mà sắm sửa. Khi Cảnh đã ăn uống xong, mới cho các tùy tùng ăn uống. Văn Bản đem tặng các thứ vàng lụa chế tạo, Cảnh rất hoan hỷ, cám ơn: “Nhân ông Huề nói ra, khiến cậu phải bận lòng sắm sửa mọi thứ! Cậu muốn biết tuổi thọ không?”. Văn Bản từ chối: “Không mong biết đến!”. Cảnh cười rồi ra đi. Mấy năm sau, Nhân Thiến mắc bệnh, tuy không nặng lắm, nhưng không gượng dậy nổi. Đã hơn một tháng trôi qua, Thiến hỏi Thường thư ký, nhưng Thường không biết, liền hỏi trưởng sử. Trưởng sử trả lời: “Hiện không biết được việc trong cả nước, chờ tháng sau, nhân đi chầu Thái Sơn, hỏi thăm tin tức rồi sẽ báo lại”. Đến tháng sau, trưởng sử báo rằng: “Do chính người làng là ông Triệu làm chủ sự ở Thái Sơn, vì còn thiếu một viên, đã tiến cử ông vào chức ấy, nên làm báo cáo trình bày, xin triệu ông. Khi báo cáo làm xong thì sẽ chết”. Nhân Thiến hỏi: “Xin đem báo cáo cho xem”. Cảnh nói: “Tuổi ông thọ hơn sáu mươi, nay mới bốn mươi, chỉ vì chủ bạ họ Triệu xin trưng dụng ông mà ra nông nỗi này thôi! Phải xin lại giúp ông mới được!”. Rồi nói thêm: “Chủ bạ họ Triệu có hỏi thăm, nói anh Huề là bạn học ngày xưa, tình sâu nghĩa nặng. Tôi may mắn được làm chủ bạ ở Thái Sơn. Vừa rồi có thiếu một viên ở đó. Vua Diêm La ra lệnh kiếm người. Tôi đã đem bẩm với ngài, và được chấp thuận. Anh ấy không thể sống mãi, chắc chắn phải chết. Chết đi, dù có cơ may, chưa chắc đã được làm quan. Tiếc chi một vài mươi năm kéo dài cuộc sống tạm bợ? Nay văn thư đã ban hành, không thể chậm lại. Mong anh ấy quyết định ý hướng đến đây, đừng nên chần chờ gì nữa!”. Nhân Thiến lo sợ, bệnh càng nặng thêm. Cảnh bảo Thiến rằng: “Chủ bạ họ Triệu chắc chắn muốn mời ông đến. Ông có thể thân hành lên Thái Sơn, đến trước vua Diêm La kêu cầu, may ra có thể thoát được”. Thiến hỏi: “Làm sao có thể ra mắt vua Diêm La?”. Cảnh bảo: “Chỉ loài quỷ mới có thể gặp được mà thôi. Đến miếu Thái Sơn, vượt qua một dãy núi nhỏ về phía Đông, đến chỗ đất bằng, đó là kinh đô của ngài. Ông tự mình đến ra mắt ngài đi”. Thiến đem báo cho Văn Bản, Văn Bản sửa soạn giúp hành trang. Được mấy hôm, Cảnh lại báo với Thiến: “Văn thư sắp xong rồi, sợ ông kêu cầu cũng không thoát khỏi. Hãy mau mau làm một tượng Phật, văn thư ấy tự nhiên sẽ tiêu tan”. Thiếu báo cho Văn Bản, rồi đem 3 nghìn tiền mướn vẽ một tượng Phật lên vách phía Tây nhà chùa, vừa xong, Cảnh lại đến báo: “Thoát rồi!”. Thật tình, Thiến không tin Phật. Trong lòng vẫn còn hồ nghi, nên hỏi Cảnh rằng: “Phật pháp nói có nhân quả ba đời, điều này hư thật ra sao?”. Cảnh trả lời: “Đều thật cả”. Thiến lại hỏi: “Đã như thế, thì người chết sao phải phân chia sáu đường, lẽ nào tất cả đều làm quỷ? Tại sao Vũ Linh vương và ông đến nay vẫn còn làm quỷ?”. Cảnh hỏi: “Trong huyện của ông có bao nhiêu nhà?”. Thiến đáp: “Hơn vạn nhà”. Lại hỏi: “Trong ngục có bao nhiêu tù?”. Thiến đáp: “Bình thường, dưới hai mươi đứa”. Lại hỏi tiếp: “Trong vạn nhà ấy, có bao nhiêu người làm quan ngũ phẩm?”. Thiếp đáp: “Không có ai cả”. Lại hỏi nữa: “Từ cửu phẩm trở lên. Có bao nhiêu người làm quan?”. Thiến đáp: “Vài chục người”. Cảnh nói: “Ý nghĩa của sự phân chia vào trong sáu đường cũng như thế mà thôi. Được sinh lên đường Trời, vạn người chưa có được một, giống như trong huyện của ông không có ai được làm quan ngũ phẩm. Được sinh vào đường người, vạn người có được vài ba, giống như trong huyện của ông có vài chục người làm quan cửu phẩm. Đọa vào địa ngục, vạn người cũng có mấy chục, giống như số tù nhân trong nhà ngục của huyện ông. Chỉ có ngạ quỷ và súc sinh là nhiều nhất, giống như số nhà phải chịu thuế má phu phen trong huyện của ông. Ngay trong đường này cũng có thứ bậc”. Nhân đó, Cảnh chỉ vào kẻ tùy tùng rồi nói: “Người ấy hoàn toàn không giống như ta. Những kẻ không bằng người ấy, lại càng nhiều hơn nữa”. Thiến hỏi: “Quỷ có chết không?”. Trả lời: “Có chứ”. Thiến hỏi: “Chết xong sẽ sinh vào đường nào?”. Trả lời: “Không biết. Giống như người chỉ biết chuyện sống mà không biết chuyện sau khi chết xong”. Thiến hỏi: “Đạo gia đặt ra sớ chương cúng vái, liệu có cầu khẩn thêm được gì không?”. Cảnh đáp: “Đạo gia chủ trương Thiên đế quản lảnh khắp cả sáu đường, gọi đó là Thiên tào. Vua Diêm La giống như Thiên tử của thế gian. Chúa của Thái Sơn giống như Tể tướng. Những vị thần coi năm đường giống như các Thượng thư. Còn nước của bọn ta giống như châu, quận lớn. Mỗi khi nhân gian có chuyện cầu xin, gọi là dâng chương sớ. Như chuyện cầu phước, cũng giống cầu thần ban cho ơn phước. Thiên tào nhận lấy, giao xuống cho Diêm La, bảo ngày tháng đó, có người đó kêu cầu chuyện đó. Cần xem xét tận tình, đừng để oan uổng, lạm phép. Vua Diêm La nhận lấy và tuân hành theo, giống như người ta tuân theo chiếu chỉ. Chuyện phi lý, không thể cầu khẩn van nài. Có oan uổng, chắc chắn được làm sáng tỏ. Làm gì có chuyện cầu khẩn thêm được!”. Thiến còn hỏi: “Nhà Phật tu phước thì thế nào?”. Cảnh đáp: “Phật là bậc đại Thánh. Không có văn thư sai khiến xuống dưới. Hễ ai tu phước thì sẽ được thiên thần kính nể. Phần đông đều được hưởng khoan hồng. Như người nào phúc hậu, dẫu có tên trong sổ bộ của bên đường ác, cũng không được phép bắt bớ. Đó là điều ta không biết và cũng không hiểu tại sao lại như thế”. Cảnh nói xong, liền ra đi. Một vài ngày sau, Thiến có thể ngồi dậy nổi và lành bệnh hẳn.

Sau khi Văn Bản mất cha, liền trở về quê. Thiến gửi thư nói: “Quỷ thần thật giỏi tham lam ton hót. Ngày trước, muốn cậu cho ăn uống, nên rất thân thiết ân cần. Khi biết không còn lợi dụng được nữa, liền tỏ ra rất lạnh nhạt xa lạ. Tuy thế, Thường thư ký vẫn còn họp mặt. Vừa qua huyện nhà bị giặc vây, số người chết chóc, thất tán gần hết. Ta nhờ Thường thư ký báo trước, nên cũng bình tâm. Giặc không bắt gặp, nên vẫn được an toàn”.

Ngày mồng 8 tháng chín năm Trinh Quan thứ mười sáu, các văn thần được nhà vua ban cho tập bắn ở cửa Huyền Vũ. Bấy giờ, Văn Bản làm Trung thư thị lang, cùng đi với anh ruột làm Thái thường khanh và Thị thư thị ngự sử Mã Châu, Cấp sự trung Vi Côn. Khi ngồi vào chỗ với nhau, Văn Bản tự mình đem kể với các đồng liêu nghe như thế. (Chuyện trên đây rút từ Minh Báo Ký).

6. Thuật rõ nhiều loại quỷ thần trong nhân gian: Các huyện vùng núi ở Lâm Xuyên có yêu quái đến ở, thường nhân mưa gió lớn, cất tiếng kêu lên như hú, biết bắn người. Vết thương như bị móng thú cào cấu, đầu sưng nặng nề. Độc nhất là thứ trống, mái. Trống thì nhanh, mái thì chậm. Nhanh thì không quá nữa ngày. Chậm thì không qua khỏi đêm. Lên rừng cần có người đi theo, thường để cứu chữa. Nếu chữa chạy ít bớt thì phải chết. Tục gọi là “quỷ lao đao”. Thế nên sách dân gian nói: “Quỷ thần là kẻ chứng nghiệm của sự phát huy họa phúc đối với nhân thế”.

Lão Tử nói: “Xưa được một, nghĩa là trời được một để trong. Đất được một để yên. Thần được một để linh. Hang được một để đầy. Vương hầu được một để làm lành cho thiên hạ”. Thế thì, trời đất quỷ thần đều là những chủ thể sống chung với ta vậy. Vì khí phân hóa, nên tính khác nhau. Đứng riêng biệt nên hình lạ hoắc. Chẳng có gì được lưỡng toàn cả. Sống thì nặng nề về dương. Chết thì nặng nề về âm. Là chỗ nương náu của tính. Mỗi cái đều được yên nơi. Trong cõi thái âm có quái vật sinh tồn”. (Hai chuyện nhỏ trên đây rút từ Sưu Thần Ký).

Sách Hàn Thi Ngoại Truyện nói: “Chết làm quỷ. Quỷ là quay về. Tinh khí quay về với trời. Thịt quay về với đất. Huyết quay về với nước. Mạch quay về với đầm. Tiếng quay về với sấm. Cử động quay về với gió. Mắt quay về với mặt trời mặt trăng. Xương quay về với cây. Gân quay về với núi. Răng quay về với đá. Mỡ quay về với móc sương. Móc sương quay về với cỏ. Hơi thở lại quay về với con người”.

Sách Lễ Ký Tế Nghĩa chép: “Tể Ngã nói, con nghe tên của quỷ thần, nhưng không biết được ý nghĩa. Khổng Tử bảo rằng: “Khí là sự hưng thịnh của quỷ thần. Phách là sự hưng thịnh của quỷ. Tổng hợp cả quỷ và thần là mục đích của giáo hóa vậy”.

Theo sách Thập Lục Quốc Xuân Thu Tiền Lương Lục của Thôi Hồng nói: “Trương Khuynh là con nhà họ Mã ở An Định. Trước đây, khi Trương Khuynh giết Cúc Kiệm. Cúc Kiệm buông lời oán hận. Thế rồi, dưới ánh trăng sáng thấy con chó bạch xuất hiện. Trương Khuynh rút kiếm chém lấy, bị té nhào xuống, không gượng dậy nổi. Kẻ hầu cận thấy Cúc Kiệm đứng ngay bên cạnh. Trương Khuynh chết ngay.

Theo kinh Thần Dị nói: “Phía Đông Bắc có thạch thất của chằn tinh, gồm có ba mươi hộ ở chung. Bia đá dựng kề bên đề rằng “cửa quỷ”. Suốt ngày không đóng cửa. Đến chiều tối có tiếng người nói, có ánh lửa xanh lóe lên”. (Bốn chuyện linh nghiệm trên đây rút ra từ sách Thái Bình Ngự Lãm).

Thưở còn nhỏ, Tống Định Bá ở Nam Dương đi đêm gặp quỷ, hỏi: “Ai đó?”. Đáp: “Quỷ đây”. Bỗng quỷ hỏi lại: “Ông là ai thế?”. Định Bá gạt nó, trả lời: “Ta cũng là quỷ”. Quỷ hỏi: “Đang đi đâu?”. Đáp rằng: “Đang đến chợ Uyển”. Rồi đi được mấy dặm, quỷ nói: “Đi bộ thế này chậm quá, nên cùng thay phiên cõng nhau”. Định Bá nói: “Hay tuyệt!”. Quỷ bèn cõng Định Bá trước, đi được mấy dặm, quỷ nói: “Ông nặng quá. Hay không phải là quỷ?”. Định Bá trả lời: “Vì ta mới chết nên thân còn nặng”. Nhân đó, Định Bá thay phiên cõng lại quỷ. Quỷ hầu như không nặng chút nào. Cứ thế, cùng thay phiên cõng nhau đến ba lượt. Định Bá lại nói: “Ta mới chết, nên không biết rõ quỷ sợ cái gì?”. Quỷ đáp: “Chỉ không thích người ta nhổ vào mình thôi”. Rồi cõng nhau đi tiếp. Giữa đường gặp sông, Định Bá bảo quỷ lội trước. Quỷ nghe lời, tuyệt đối không có tiếng động. Định Bá tự lội, tiếng động bì bõm. Quỷ lại hỏi: “Tại sao lội có tiếng động?”. Định Bá trả lời: “Mới chết, không quen lội nước, nên phải như thế. Đừng lấy làm lạ về ta nữa”. Đi sắp đến chợ Uyển, Định Bá liền cõng quỷ, túm lấy trên đầu, giữ thật chặt. Quỷ kêu ré lên thành tiếng lớn đòi xuống. Định Bá không nghe lời, cứ đi thẳng một mạch đến chợ Uyển. Bỏ quỷ xuống đất, nó liền hóa thành một con dê. Định Bá đem ra bán. Sợ nó biến hình, liền nhổ vào nó. Định Bá bán được một ngàn năm trăm tiền rồi bỏ đi. Thời bấy giờ, Thạch Sùng nói: “Định Bá bán quỷ được một ngàn năm trăm tiền”. (Chuyện linh nghiệm trên đây rút ra từ Liệt Dị Truyện).

Sách Triệu Thái Truyện nói: “Thái từng lặng lẽ mà chết. Có hai người sứ giả dắt đi về phía Tây, vào trong tòa chính điện, gồm có ba lớp cửa màu đen, chu vi rộng mấy chục dặm, nóc cao lợp ngói. Hôm đó, cũng có người cùng chết, nam nữ đến 5, 6 nghìn người, tất cả đều chờ ngoài cửa. Có viên thư ký mặc áo đơn trắng, cầm bút điểm danh. Nam nữ chép riêng thành hai hàng trái phải. Bảo rằng: “Đừng nhúc nhích, ta phải dẫn các ngươi vào trình với chúa Thái Sơn. Sổ bộ nằm trong quyển thứ 20”. Giây lát đã đến nơi. Chúa ngồi quay mặt về phía Tây, hai bên có thị vệ cầm đao đứng hầu. Hai hàng nam nữ đến đó, nghe kêu tên, lần lượt từng người một bước vào chỗ chúa. Căn cứ vào tội trạng nặng nhẹ, chúa xét xử cho vào ngục”. Xét Bảo Phác Tử nói: “Theo các sách Cửu Đỉnh Ký và Thanh Linh kinh đều cho rằng người và vật chết đi, đều có quỷ cả”.

Đời Ngụy, khi Tôn Ân làm loạn, đất Ngô Hưng đều rối beng. Có một gã đàn ông trốn loạn, đột nhập vào miếu thờ Tưởng hầu. Mới bước vào cửa, tượng gỗ đã giương cung bắn gã chết tươi. Người qua đường và thủ từ, ai cũng trông thấy rõ ràng. (Chuyện linh nghiệm trên đây rút ra từ U Minh Lục).

V. Bộ thứ 5: SÚC SINH

Gồm có 10 phần: Thuật ý, Hội danh, Trụ xứ, Thân lượng, Thọ mệnh, Nghiệp nhân, Báo thụ, Tu phúc, Khổ lạc, Hảo xú.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Than ôi! Luận đến súc sinh, ngu si thọ quả. Đông đúc giống loài, phức tạp ngành họ. Bẩm chất uế dơ, đường ác sinh hạ. Bỏ hết tuệ căn, chứa chất tham giận. Bởi thế, ong, ve giấu nọc; rắn rít nuôi thù. Cu, sẻ dâm bôn; sói, chồn hung dữ. Hoặc có loại, lông mang sừng nhú, khoác lục ngậm châu; nanh nhọn mỏ to, vuốt dài mai bén. Hoặc có loại, nghe vật đi về, chịu người sai sử. Sủa đêm chó giỏi, gáy sớm gà tranh. Trâu nhọc ruộng đồng, ngựa lao chinh chiến. Xác thịt do đó tiêu hao, da dẻ vì thế khô héo. Hoặc có loại, đầm lầy núp bóng, mắc bẫy lưới giăng; ao vũng nương mình, gặp nạn lờ đờ. Như những loại này, đều xin sám hối. Cho đến côn bằng vĩ đại, kiến mối li ti. Chuột nhũi hớp nước sông sâu, chim ri làm tổ cây lớn. Thủy lục sinh sản, mao vũ bầy đàn. Sặc sỡ thân hình, rực tía vảy giáp; hồng thắm mang vi, đỏ tươi đuôi chót. Như những loại này, xin được sám hối.

Khiến cho, tín căn thanh tịnh, bỏ tướng xấu xa, tuệ mạng trang nghiêm, phục hồi Thiên báo. Không bị ruổi dong khổ sở, xa đứt mổ xẻ đớn đau. Mặc ý tiêu dao, tùy tâm phóng khoáng. Uống ăn tự tại, ca hót thảnh thơi. Ra khỏi chậu lồng, thoát hẳn trói buộc.

Thứ hai: PHẦN HỘI DANH

Súc sinh, như trong luận Bà sa giải thích, sinh nghĩa là chúng sinh, súc có nghĩa nuôi dưỡng. Nghĩa là chúng sinh ngang ngược ấy, bẩm tính ngu si, không thể tự lập, được người khác nuôi dưỡng, nên gọi là súc sinh.

Hỏi: Nếu vì được nuôi dưỡng mà gọi là súc sinh, thì các loài Rồng ở nước, ở cạn, ở trên không, không được người ta nuôi dưỡng, có nên gọi là súc sinh chăng?.

Đáp: Dưỡng có nghĩa rất rộn, khắp nhân gian cho đến các cõi Trời Lục dục. Không nuôi dưỡng, ở đấy hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ trong các chỗ núi non, đồng nội, đầm lầy của nhân gian mà thôi. Hơn nữa, loài Rồng ngày xưa cũng từng được người ta nuôi dưỡng, có nói rõ tại kinh văn. Nay được nuôi dưỡng cũng rất nhiều, nên mới gọi là súc sinh. Vả lại, luận Lập Thế nói: “Súc sinh, Phạm ngữ gọi là Để lật xa. Do gây nghiệp ton hót quanh co, nên phải sinh vào đường ấy”. Vì thế, luận ấy còn nói: “Chúng sinh trong đường này, phần nhiều đi sấp mình xuống nên mới gọi là Để lật xa”.

Theo trong luận Tân Bà sa thì gọi là Bàng sinh, nên có câu hỏi: “Sao gọi là đường Bàng sinh?”. Đáp: “Thân hình của chúng nằm ngang, nên cũng đi ngang. Vì thân hình đã nằm ngang, nên cũng phải đi ngang như thế, mới gọi là bàng sinh”. Có người nói: “Do các chúng sinh ở đấy đã tạo thêm lên các hành vi xấu về thân ngữ ý, phải sinh vào đường ngu tối ấy, nên gọi là bàng sinh. Nghĩa là loại súc sinh ấy đều hiện hữu khắp năm đường khác. Như trong địa ngục có loại không chân, như các loài trùng Nương củ tra. Có loại hai chân, như các loài chim mỏ cứng như sắt. Có loại bốn chân, như các loài chó đen lớn xác. Có loại nhiều chân, như các loài trăm chân. Trong đường quỷ có loại không chân, như các loài rắn độc. Có loại hai chân như loài quạ, cú. Có loại bốn chân, như các loài chồn cáo, voi, ngựa. Có loại nhiều chân, như các loài sáu chân, trăm chân. Trong ba châu lớn của đường người, có loại không chân, như tất cả các loài côn trùng bò sát. Có loại hai chân như các loài le, nhạn. Có loại bốn chân, như các loài voi, ngựa. Có loại nhiều chân, như các loài trăm chân. Trong châu Câu Lô, có loại hai chân, như các loài le, nhạn. Có loại bốn chân, như các loài voi, ngựa. Không có các loại không chân và có nhiều chân. Vì ở đấy là nơi hưởng quả báo không muộn phiền. Trong các Trời Tứ thiên vương và Tam thập tam, có loại hai chân, như các loài chim tuyệt đẹp. Có loại bốn chân, như các loài voi, ngựa. Các loại khác đều không có nữa, như trên đã giải thích. Lên trong cõi Từ Thiền, chỉ có loại hai chân, như các loài chim tuyệt đẹp. Các loại khác đều không có nữa. Vì cõi Trời Không cư càng tốt đẹp hơn”.

Hỏi: Trong bốn cõi Tứ Thiền ấy, nếu không có các loài voi, ngựa, lấy gì để cưỡi? Cũng nghe nói chư Thiên ở đấy cưỡi các loài voi ngựa. Tại sao lại nói là không?.

Đáp: Do phước lực của chư Thiên ở đấy, nên đã tạo ra các loài voi, ngựa vô tri để cưỡi đi chơi cho vui thích.

Theo kinh Lâu Thán nói: “Súc sinh không giống nhau. Có ba loại: một là cá, hai là chim, ba là thú. Trong cả ba loài này, mỗi loài đều nhiều vô số. Cá có sáu ngàn bốn trăm giống. Chim có bốn ngàn năm trăm giống. Thú có hai ngàn bốn trăm giống. Trong kinh ấy cũng chỉ nói tổng số, không phân biệt rõ tên các loài”. Trong kinh Chánh Pháp Niệm thì chủng loại cũng giống nhau. Có 40 ức, nhưng cũng không liệt kê rõ tên các giống loài.

Thứ ba: PHẦN TRỤ XỨ

Như luận Tân Bà sa có câu hỏi: Bàng sinh vốn cư trú chỗ nào?

Đáp: Chỗ cư trú vốn tại trong biển lớn. Về sau, di trú khắp các đường khác.

Hỏi: Hình dáng thế nào?.

Đáp: Phần nhiều nằm ngang, cũng có loài đứng thẳng, như các loài Khẩn nại lạc xá già hê lô sách ca.

Hỏi: Tiếng nói ra sao?.

Đáp: “Khi kiếp mới thành, đều nói tiếng Thánh. Về sau, do lúc thọ dụng ăn uống, nên phân chia thành các loại chúng sinh không giống nhau. Vì ton hót, dối trá tăng lên, nên có các loại tiếng nói khác nhau.

Thậm chí, còn có loài không biết nói”.

Lại nữa, luận Cựu Bà sa nói: “Chỗ cư trú của súc sinh có chính và phụ khác nhau. Thứ nhất: chỗ ở chính. Có người bảo, tại chỗ tối tăm trong khoảng giữa hai ngọn núi Thiết Vi, hoặc tại đáy biển lớn, hoặc tại trên các châu, bãi. Thứ hai: chỗ ở phụ thì bảo tại trong năm đường. Như trong địa ngục, hoặc có loại súc sinh không chân, như các loài rắn ở đấy. Hoặc có loại hai chân, như các loài quạ cú ở đấy. Hoặc có loại bốn chân như các loài chó ở đấy (trong đó, hoặc có loài có báo thân thật, hoặc có loài có hóa thân, không nhất định). Trong đường quỷ, cũng có loài súc sinh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân. Nghĩa là các quỷ có uy đức trong đường ấy cũng có các loài voi, ngựa, lạc đà, lừa. Trong loại quỷ không có uy đức, chỉ có các loài chó. Trong đường A tu la thì cũng giống như đã nói trong đường quỷ.

Thứ tư: PHẦN THÂN LƯỢNG

Như kinh Bồ tát Xử Thai nói: “Thứ nhất: chim lớn, không gì hơn chim Kim sí, đầu và chân dài cách nhau tám ngàn do tuần, chiều cao cũng như thế. Như khi chim ấy bay đi, từ một ngọn núi Tu di này đến một ngọn núi Tu di khác, không hề nghỉ chân giữa khoảng đường bay. Kinh văn đã nói rộng rãi điều này. Thứ hai: thú lớn, không gì hơn rồng. Như kinh A hàm nói: Hai con rồng Nan Đà và Bạt Nan Đà cực lớn, quấn bảy vòng quanh núi Tu di. Đầu như đỉnh núi, đuôi nằm trong biển. Thứ ba: thân cá lớn, không gì hơn các Ma kiệt lớn. Như luật Tứ phần nói: Thân cá Ma kiệt lớn thì dài, hoặc ba trăm do tuần, bốn trăm do tuần. Thậm chí, thân cá lớn nhất dài đến bảy trăm do tuần. Thế nên, kinh A hàm nói: Mắt như mặt trời mặt trăng. Mũi như núi lớn. Miệng như núi lửa.

Nếu theo các sách thế gian, Trang Châu có nói: “Có chim đại bàng, thân hình rất lớn. Lưng chim đại bàng ấy, không biết mấy nghìn dặm. Khi sắp bay, quẫy nước tung lên ba ngàn dặm, cánh vươn rộng như che kín mây trời, nương cơn lốc mà lên cao, cách mặt đất chín vạn dặm, rồi mới bay đi. Muốn từ biển Bắc sang biển Nam, một chuyến phải mất sáu tháng, chẳng hề đậu nghỉ giữa đường”. (Theo nội điển, chim này xem như chim Kim sí nhỏ. Thế gian không lường được, nên mới nói khác, thành ra chim đại bàng).

Sách thế gian còn nói: “Thú ở nước lớn, chẳng có gì hơn con ba ba Cự linh. Thân hình của nó rất lớn, đầu đội núi Bồng Lai, đi vào biển lớn để rong chơi mà cũng chẳng nói mình cao thấp lớn bé”. (Con ba ba này không lớn bằng con cá Ma kiệt nhỏ, nên không thể đem ra so sánh hơn thua được). Trang Châu nói: “Chim nhỏ không gì hơn chim Tiêu minh. Nuôi con trên vòi nuỗi. Đẻ trứng, ấp con, cho bú trên vòi muỗi ấy mà trứng cũng chẳng rơi xuống”. (Chim này cũng chưa đạt kỷ lục nhỏ. Chúng sinh trong nội điển có hóa thân nhỏ nhất thì thân hình chỉ bằng hạt vi trần, phải dùng thiên nhãn mới thấy được. Thế nên, trong luật Phật nói rằng Phật dạy các Tỳ kheo phải lọc nước để uống. Xá Lợi Phất đã lọc nhiều lần, nhưng vẫn còn vi trùng. Vì thế, bảy ngày không dám uống nước, thân hình trở thành khô xọp. Phật biết rõ nhưng vẫn hỏi: “Tại sao ông tiều tụy đến thế?”. Xá Lợi Phất thưa rằng: “Phật dạy, phải lọc nước để uống. Tôi dù đã lọc nhiều lần, đến khi dùng thiên nhãn xem lại, vi trùng vẫn còn lọt qua được, giống như bình bát có cát trôi trong nước. Để bảo vệ sinh mạng, tôi không dám uống nước, nên thân thể tiều tụy thế này”. Phật bảo Xá Lợi Phất: “Nếu lấy thiên nhãn ra xem, thì tất cả chúng sinh chẳng còn ai sống được. Từ nay về sau, ta cho phép chỉ dùng nhục nhãn xem nước trong sạch, trong đó không có vi trùng, thì có thể uống được”). Thế nên, báo thân nhỏ bé của chúng sinh, khắp nơi đều có. Liệu vi trùng nhỏ bé, há bằng con Tiêu minh to lớn kia chăng?

Thứ năm: PHẦN THỌ MẠNG

Như luận Tỳ đàm nói: “Chúng sinh thọ nhất trong đường súc sinh không hơn một kiếp, như các loài Rồng chúa Trì địa và rồng Y la bát. Chúng sinh yểu nhất không hơn loài phù du, sáng sinh chiều mất, không đầy một ngày. Chúng sinh thọ trung bình thì không thể nói hết”. Còn luận Trí Độ nói: “Phật dạy Xá Lợi Phất quán từ kiếp quá khứ đến vị lai của chim bồ câu. Trước sau đều tám vạn kiếp, nhưng vẫn chưa bỏ được xác chim ấy”. Thế nên, thọ mạng ngắn dài của súc sinh, người phàm không thể ức đoán nổi.

Thứ sáu: PHẦN NGHIỆP NHÂN

Theo trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt nói: “Tạo đủ mười nghiệp sau đây thì phải chịu quả báo súc sinh: một là thân làm ác, hai là miệng làm ác, ba là ý làm ác, bốn là từ phiền não tham lam nổi lên các nghiệp ác, năm là từ phiền não sân hận nổi lên các nghiệp ác, sáu là từ phiền não si mê nổi lên các nghiệp ác, bảy là phỉ báng chúng sinh, tám là hành hạ chúng sinh, chín là đem cho đồ dơ uế, mười là làm chuyện tà dâm”. Nếu theo kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Chủng loại chúng sinh, mỗi loài đều khác, tạo nhân chịu quả báo cũng chẳng giống nhau. Kinh văn đã nói rõ ràng, không thể thuật hết ra được”. Nếu theo kinh Địa Trì nói: “Tạo đủ mười nghiệp ác. Mỗi một nghiệp đều có thể khiến chúng sinh đọa vào trong các đường địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Sau đó mới được làm người, nhưng vẫn còn chịu báo ứng của tiền kiếp”. (Trong các thiên khác có nói đầy đủ về điều này).

Thứ bảy: PHẦN THỌ BÁO

Theo kinh Hiền Ngu nói: “Bấy giờ, có đoàn lái buôn muốn đi sang nước khác, đoàn này có mang theo một con chó. Đến nữa đường, bọn họ dừng lại nghỉ ngơi. Rình lúc không có người để ý, chó liền ăn trộm thịt mang theo. Bọn họ nổi giận, đánh chó gãy chân, liệng bỏ giữa đồng rồi lên đường. Lúc ấy, Xá Lợi Phất dùng thiên nhãn thấy chó lê lết đói khát, đau đớn sắp chết đói, liền mặc áo mang bát vào thành khuất thực. Xong xuôi, cầm ra khỏi thành, bay đến chỗ chó nằm. Lòng từ bi thương xót, lấy đồ ăn ra cho. Chó được ăn, vui mừng tỉnh lại. Xá Lợi Phất thuyết pháp vi diệu cho nghe, chó liền chết đi, đầu thai vào nhà Bà la môn ở nước Xá Vệ. Về sau, Xá Lợi Phất đi khất thực một mình. Bà la môn trông thấy, hỏi rằng: “Tại sao tôn giả đi một mình, không có sa di?”. Xá Lợi Phất trả lời: “Ta không có sa di. Nghe ông có con trai, nên đem cho ta”. Bà la môn nói: “Tôi có được một đức con trai, tự là Quân Đề, tuổi còn nhỏ dại, chưa sai sử được. Sau này khôn lớn, tôi sẽ cho ngài”. Sau đó, khi đứa bé lên bảy tuổi, Bà la môn đem giao cho Xá Lợi Phất, xin được xuất gia. Xá Lợi Phất nhận được đứa bé, đem về Kỳ Hoàn, cho làm sa di, dần dà thuyết pháp cho nghe. Đứa bé tâm ý thông suốt, chứng được quả A la hán, công đức đầy đủ. Khi sa di Quân Đề vừa đắc đạo xong, tự dùng trí lực quán lại tiền thân, đã tạo hạnh nghiệp nào, gặp được Thánh tăng, chứng được Đạo quả. Quán thấy tiền thân làm con chó đói, nhờ Hòa thượng ban ơn, nay được làm người và chứng được chánh quả. Lòng sinh hoan hỷ và tự nghĩ rằng: “Ta nhờ ơn thầy, thoát khỏi đau khổ. Nay phải đem trọn đời phục thị cho thầy. Chỉ cầu làm sa di, không thọ đại giới”. Phật bảo A Nan: “Do đời quá khứ, vào thời Phật Ca Diếp, Quân Đề xuất gia. Tuổi trẻ tiếng tốt, rất giỏi tán tụng, được mọi người đều thích nghe. Có một lão tăng, tiếng nói khàn đục, không thể tán tụng, nhưng đã chứng được quả A la hán, công đức đầy đủ. Tỳ kheo trẻ tuổi, ỷ mình có tiếng tốt, vào gặp lão tăng mắng rằng: “Tiếng như chó sủa!”. Lão tăng liền la lên: “Thầy tăng trẻ tuổi, ông có biết ta chăng? Tuy ta như thế này, nhưng đã chứng được quả A la hán, công đức đầy đủ!”. Tỳ kheo trẻ tuổi ấy nghe xong, trong lòng hoảng sợ, lông tóc dựng đứng cả lên. Lập tức đến trước mặt lão tăng, sám hối lỗi lầm mạo phạm. Do lời mắng nhiếc, suốt trong năm trăm kiếp, thường làm thân chó. Do đã xuất gia, giữ giới thanh tịnh, nay được gặp ta, mới được giải thoát”.

Lại nữa, luận Trí Độ nói: “Do ngu si nhiều, nên phải làm các côn trùng, chim chóc đần độn như giun trùn, bọ hung, kiến hôi, vịt trời, cú vọ, cú mèo. Bồ tát Long Thọ đôi lần nói: “Vì lòng dâm dục nhiều, nên phải chịu quả báo dâm dục làm vịt trời”. Có người nói: “Vì ngu si nhiều, nên cũng phải làm vịt trời”. Hai con vịt trời ấy giống nhau hay khác nhau? Đáp: “Loại do túc nghiệp dâm dục sinh ra thì làm loại le vịt ở dưới nước. Loại do túc nghiệp ngu si sinh ra thì làm loài cú dữ trên cạn, hoặc thấy ban ngày, ban đêm không thấy. Loại do dâm dục sinh ra thường bay liền bầy và lội nổi mình trên nước, hoặc thấy ban đêm, ban ngày không thấy. Loại do ngu si sinh ra thường bay đi rình bắt chuột ban đêm. Cú cũng có hai loại: do túc nghiệp dâm dục sinh ra thì làm cú già, ban ngày thấy, ban đêm không thấy. Do túc nghiệp ngu si sinh ra thì làm cú mèo, ban đêm thấy, ban ngày không thấy”.

Lại nữa, các kinh Trường A hàm và Tăng nhất nói: “Chim Kim sí có bốn loại: một là do trứng sinh ra, hai là do bào thai sinh ra, ba là do ẩm ướt sinh ra, bốn là do biến hóa sinh ra. Vào kiếp trước, tất cả đều đã bố thí rất nhiều, nhưng vì kiêu căng, ngã mạn, sâh hận, hành hạ chúng sinh, nên phải sinh làm loài chim này. Có ngọc như ý để làm tràng hạt, có thần thông biến hóa, có đầy đủ mọi nhu cầu. Thân cao bốn mươi dặm, áo rộng tám mươi dặm, dài bốn mươi dặm, nặng 2 lượng rưỡi. Ăn các loài rùa, kỳ đà, ba ba theo lối đoạn thực (kinh Niết Bàn nói có thể ăn, có thể tiêu hóa tất cả các loài cá, các loài vàng bạc đá quý, trừ kim cương). Biết tắm rửa, mặc y phục và ăn sống theo lối hoạt thực, cũng có sinh hoạt vợ chồng, hai hân cùng giao nhau để thành âm dương phối hợp. Sống thọ một kiếp, cũng có loại ít hơn”.

“Có một cây ở phía Bắc bờ biển lớn, tên Cứu la sân ma, cao một trăm do tuần, bóng mát năm mươi do tuần. Phía Đông của cây, có cung điện của loài Rồng do trứng sinh ra và cung điện của loài chim Kim sí do trứng sinh ra. Phía Nam của cây, có cung điện của loài Rồng do bào thai sinh ra và cung điện của loài chim Kim sí do bào thai sinh ra. Phía Tây của cây, có cung điện của loài Rồng do ẩm ướt sinh ra và cung điện của loài chim Kim sí do ẩm ướt sinh ra. Phía Bắc của cây, có cung điện của loài Rồng do biến hóa sinh ra và cung điện của loài chim Kim sí do biến hóa sinh ra. Mỗi cung điện dọc ngang rộng sáu ngàn do tuần, trang sức như trên đã nói. Nếu chim Kim sí do trứng sinh ra, bay xuống mặt biển, lấy cánh quẫy nước, nước liền rẽ đôi, sâu đến hai trăm do tuần, bắt lấy loài Rồng do trứng sinh ra để ăn thịt tùy thích (kinh Hoa Nghiêm nói, chim này ăn gió do rồng quạt mà thành. Nếu gió thổi vào mắt của người thì sẽ bị mù, nên gió này không thổi đến nhân gian, sợ làm tổn thương mắt của ngưới). Các loài chim Kim sí do bào thai sinh ra, ẩm ướt sinh ra, biến hóa sinh ra, cũng đều như thế (kinh Niết Bàn nói, chim Kim sí này chỉ không ăn thịt người đã thọ Tam quy). Có con rồng con do biến hóa sinh ra, thường giữ phép Bát quan trai trong 6 ngày ăn chay hằng tháng. Bấy giờ, chim Kim sí muốn bắt lấy nó để ăn. Ngậm nó, bay lên ngọn cây phía Bắc đỉnh núi Tu di cao mười sáu ngàn sáu vạn dặm, tìm kiếm đuôi rồng, tuyệt nhiên không thấy. Chim nghe ra được nguyên nhân, cũng thọ ngũ giới”.

Lại nữa, kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Chim Kim sí chúa tên là Tiếng chính âm, sung sướng thảnh thơi bậc nhất trong các loài chim, mỗi ngày ăn thịt một con rồng chúa và năm trăm con rồng con ở cõi Diêm phù đề. Lần lượt ăn thịt khắp bốn châu, số lượng cũng như trên, giáp vòng rồi lại bắt đầu. Trải qua tám ngàn năm, tướng chết bắt đầu xuất hiện. Các loài Rồng phun độc, nên chim không thể bắt ăn thịt được, đói khát kinh hoàng, dù muốn cũng không thể ngồi yên, liền bay đến núi Kim Cương. Từ đây hạ cánh thẳng xuống, từ đầu tầng nước lớn xuống đến đầu tầng gió. Bị gió thổi tung lên lại trên đỉnh núi Kim Cương đến bảy lần như thế, cuối cùng mới chết. Vì chất độc của nó, khiến cho núi Thập Bảo đều bốc cháy. Rồng chúa Nan đà sợ cháy mất núi này, liền làm mưa lớn, giọt nước bằng đầu trục xe. Thịt chim bị cháy tiêu tan hết, chỉ còn sót lại trái tim. Trái tim lại rơi xuống, rồi bị hất tung lên bảy lần như trước. Xong xuôi, mới nằm yên trên đỉnh núi Kim Cương. Rồng chúa Nan đà đem về làm hạt minh châu. Chuyển luân vương thâu lấy làm châu Như ý. Nếu người biết niệm Phật, khi chết đi, trái tim cũng sẽ trở nên như thế”.

Lại nữa, các kinh Lâu Thán và Trường A hàm nói: “Rồng có bốn loại. Đều do kiếp trước tạo nhiều sân hận, lòng gian tà không ngay thẳng, nhưng đã bố thí nhiều, nên nay được làm loài này. Nhờ phước đức bố thí nên có được bảy loại châu báu để làm cung điện (chỗ tọa lạc của cung điện thì đã nói trong phần chim Kim sí trên đây). Thân cao bốn mươi dặm, áo dài bốn mươi dặm, rộng tám mươi dặm, nặng hai lượng rưỡi. Có thần thông tự tại, ăn uống trăm vị, đến miếng cuối cùng, liền biến thành cóc nhái. Khi mệnh chung thì tự hóa, gia quyến bèn mở đạo tâm, xin bố thí cho chiếc áo đen, khiến các loài Rồng đều thường hoan hỷ phát tâm cúng dường. Cát nóng sẽ không rơi tới tấp lên mình và thoát khỏi mọi hoạn nạn. (Cũng biết biến thành các loài rắn, không gặp phải cóc nhái khi ăn và không bị chim Kim sí ăn thịt)”.

“Ăn các loài giải, kỳ đà, cá, ba ba theo lối đoạn thực. Biết tắm rửa, mặc áo quần. Ăn sống, nhai nhỏ theo lối tế hoạt thực. Cũng có sinh hoạt vợ chồng, hai thân cùng giao nhau để thành âm dương phối hợp. Sống thọ một kiếp, đôi khi có loài ít hơn. Thoát được chim Kim sí ăn thịt. Chỉ có 16 loài Rồng chúa: một là Sa kiệt, hai là Nan đà, ba là Bạt nan đà, bốn là Y na bà la, năm là Đề đầu lại tra, sáu là Thiên kiến, bảy là A lô, tám là Già cú la, chín là Già tỳ la, mười là A ba la, mười một là Già nậu, mười hai là Cù già nậu, mười ba là A nậu đạt, mười bốn là Thiện trụ, mười lăm là Ưu thiểm già ba đầu, mười sáu là Đắc xoa ca”.

Lại nữa, các kinh Lâu Thán, Hoa Nghiêm đều nói: “Rồng chúa Sa kiệt cư trú ở dưới đáy biển lớn phía Bắc núi Tu di. Cung điện ngang dọc rộng tám vạn do tuần, do bảy loại châu báu tạo thành. Có bảy lớp tường thành, có lan can rèm lưới trang trí lên trên ấy. Có vườn tược ao hồ, chim chóc hót ca. Có vách vàng cửa bạc, cửa cao hai ngàn bốn trăm do tuần, rộng hai ngàn hai trăm do tuần, vẽ màu rực rỡ. Thường có năm trăm quỷ thần canh gác. Rồng chúa biết tùy tiện làm ra mưa lớn, dù cả bầy rồng khác xúm nhau cũng không bằng được. Nước đọng lại thành vực, chảy tung vào biển lớn, màu sắc trong trẻo như lưu ly”.

Lại nữa, kinh Hải Long Vương nói: “Rồng chúa bạch Phật, tôi chính thức ở trong biển lớn, vào thời Phật Câu Lâu Tần, dưới đáy biển sâu, gia quyến rất ít. Đến nay, gia quyến loài Rồng biển của tôi đã rất đông đúc”. Phật bảo rồng chúa, ai đã xuất gia, quy y Phật pháp, vi phạm giới hạnh, không bỏ chánh kiến, không đọa địa ngục. Như những loài này, sau khi mệnh chung, đều sinh làm rồng. Phật bảo rồng chúa, vào thời Phật Câu Lâu Tần, có 98 ức cư sĩ, tu sĩ vi phạm giới hạnh, sau khi mệnh chung, đều sinh làm rồng. Vào thời Phật Câu Na hàm Mâu Ni, có tám mươi ức cư sĩ, tu sĩ phá giới buông lung, sau khi mệnh chung, đều sinh làm rồng. Vào thời Phật Ca Diếp, có sáu mươi bốn ức cư sĩ, tu sĩ phạm giới, sau khi mệnh chung, đều sinh làm rồng. Vào thời của ta, có chín mươi chín mươi ức cư sĩ, tu sĩ tranh luận, phỉ báng kinh luật, sau khi chết đi, sẽ sinh làm rồng. Nay đã có loài ra khỏi. Bởi vì lẽ ấy, tại đáy biển lớn vợ con trong gia quyến của loài Rồng biển sinh sản đông đúc, không thể kể xiết. Sau khi ta nhập Niết bàn, sẽ có nhiều cư sĩ xấu xa vi phạm giới luật, sẽ sinh vào loài Rồng hoặc sẽ đọa vào địa ngục”.

Lại nữa, kinh Tăng Hộ nói: “Bấy giờ, đức Thế tôn bảo Tỳ kheo Tăng Hộ, ông đã thấy được ở dưới đáy biển, các rồng chúa mang báo thân rồng, có nanh giáp vảy sừng, hình dáng đáng sợ, dơ dáy khó gần. Vì đường súc sinh ngăn cản phép xuất gia tu hành, nên không khỏi bị chim Kim sí ăn thịt. Tính nết loài Rồng thường ngủ nhiều. Có năm lúc không thể giấu mình: một là lúc sinh, hai là lúc chết, ba là lúc hành dâm, bốn là lúc giận dữ, năm là lúc ngũ. Lại có bốn loại độc, không thể theo Chánh pháp: một là độc vì âm thanh, nên không thể theo Chánh pháp. Nếu nghe có âm thanh phát ra thì sẽ hại người. Hai là độc vì thấy, nên không thể theo Chánh pháp. Nếu thấy hiện ra có thân hình, chắc chắn sẽ hại người. Ba là độc vì hơi thở, nên không thể theo Chánh pháp. Nếu bị hơi thở hà vào, chắc chắn sẽ hại người. Bốn là độc vì đụng chạm, nên không thể theo Chánh pháp. Nếu đụng chạm vào mình, chắc chắn sẽ hại người”.

Thứ tám: PHẦN TU PHÚC

Như kinh Bồ Tát Xử Thai nói rằng: “Phật bảo Bồ tát Trí Tích, có một thưở nọ, vào vô lượng kiếp xa xưa, ta làm chim Kim sí chúa, có cung điện bằng thất bảo, có hậu viên, ao hồ đều bằng thất bảo. Lòng rất thanh thản, như Chuyển luân vương, bèn đi xuống biển, tìm rồng ăn thịt. Bấy giờ trong biển, có con rồng con hóa sinh, đang giữ giới Bát quan trai trong ngày trai nhật. Bấy giờ, chim Kim sí chúa, thân cao tám ngàn do tuần, hai cánh phải trái đều dài bốn ngàn do tuần, dùng cánh rẽ nước, bắt con rồng con. Nước chưa kịp khép, đã ngậm con rồng con bay lên. Khi chim muốn ăn rồng, trước hết phải nuốt từ phần đuôi. Chim bay đến phía Bắc núi Tu di, ở đó có một cây lớn bằng sắt, thân cao sáu vạn dặm. Chim ngậm con rồng con đến đó, sửa soạn ăn thịt. Tìm kiếm đuôi rồng, chẳng biết chỗ nào, tìm kiếm mãi, suốt một ngày đêm. Đợi đến sáng mai, rồng mới ló đuôi, nói với chim rằng, thân ta vốn là loài Rồng hóa sinh, nếu ta không giữ giới Bát quan trai, nhà ngươi đã hóa thành tro. Bấy giờ, chim Kim sí nghe xong, ăn năn hối lỗi nói rằng, Phật pháp uy lực, cao siêu khó lường. Ta có cung điện, cách đây không xa, theo ta đến đó, cùng nhau vui chơi. Rồng bèn theo chim, đến xem cung điện. Gia quyến của ta, đến nay vẫn chưa được nghe đến giới Bát quan trai của Phật. Xin nhờ chỉ dạy giùm cho giới luật uy nghi này. Một mai, nếu có mệnh chung, may mắn được sinh làm người. Lúc ấy, con rồng con liền đem giới cấm đọc tụng cho nghe ngay tại cung điện của chim và nói kệ rằng:

“Là con của rồng chúa, Ta tu bảy vạn năm.

Vì lấy kim châm lá, Phạm giới, bị làm rồng. Cung ta ở đáy biển, Cũng do thất bảo thành: Châu ma ni, pha lê,

Châu minh nguyệt, bạc vàng. Hãy theo ta đến đó, Tham quan chuyện tu hành. Thiện căn càng tăng trưởng, Từ bi thêm chứa chan.

Bấy giờ, chim nghe lời rồng con, thọ trì giới Bát quan trai xong, tự phát nguyện rằng, từ nay trở về sau, cho đến lúc lâm chung, xin thề không sát sinh nữa và xin thực hành đúng theo lời Phật dạy. Gia quyến của chim Kim sí cũng thọ trì giới Bát quan trai xong, liền đi theo rồng con đến cung rồng dưới biển. Ở đấy có tháp thất bảo chứa lời Phật dạy, chánh pháp cao siêu, chứa đầy trong kinh sách, đựng trong hòm bằng thất bảo. Thấy các vật phẩm cúng dường quý báu như ở trên trời. Rồng con nói vơi chim rằng, ta mang báo thân này, thọ mạng tuy còn dài, nhưng chưa từng sát sinh và chưa từng đụng chạm đến nước. Bấy giờ, con trai, con gái nhà rồng tâm ý đều thông suốt, sau khi mệnh chung, đều được sinh vào quốc độ của Phật A Di Đà”.

Thứ chín: PHẦN KHỔ LẠC

Theo kinh nói: “Như loài Rồng có phước thì có y báo, chánh báo sung sướng đầy đủ. Thê thiếp, kỹ nữ, áo quần, ăn uống, ngựa voi, thất bảo đều không thiếu thứ gì, thanh nhàn tự tại còn hơn cả người. Thậm chí trong cõi Lục dục đều có chim thú sung sướng thanh nhàn. Cũng có các loài Rồng bạc phước, hằng ngày bị cát nóng thiêu đốt thân mình, và bị các loài côn trùng gậm nhấm thể xác. Còn như súc sinh ở thế gian thì bị sử sai đánh đập thồ chở nặng nề, ruổi giong theo lệnh, không được tự do. Cho đến những loài lội ở dưới nước, đi ở trên bộ, bay giữa không trung, thiếu thốn cỏ ăn, nước uống, tàn hại lẫn nhau. Lại có những loài súc sinh ở giữa hai ngọn núi Thiết Vi, thường sống trong chỗ tối tăm, chịu khổ không ngừng, không chút thanh thản. Nhưng nỗi khổ này, không thể tả hết”.

Thứ mười: PHẦN HẢO XÚ

Theo kinh nói: “Như những loài Rồng, kỳ lân, công, phụng, anh vũ, gà rừng, trĩ gấm, đều được người quý chuộng, ao ước, mến yêu. Còn những loài khỉ đột, sói chồn, tê giác, cọp, rắn, cú vọ, cú mèo, đều bị người ghét bỏ, không thích nghe đến tiếng kêu. Đẹp xấu là thế, trình bày khó hết. Sang hèn dễ biết, nói sao cho cùng!”.

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

Trích dẫn sơ lược bảy chuyện:

1. Yêu quái đời Hoàng Sơ.

2. Yêu quái heo đực ở núi Thục.

3. Yêu quái chim ở núi Việt.

4. Yêu quái dê ở giếng của Quý Hoàn tử.

5. Yêu quái chó ở đất của nhà Hoài Diêu đời Tấn.

6. Yêu quái chó đời Cao Tân Thị.

7. Chuyện người và yêu quái giao phối sinh con trong sách Tây Quốc Hành Ký.

1. Giữa niên hiệu Hoàng Sơ đời nhà Ngụy: địa phận Đốn Khâu có người cưỡi ngực đi đêm, thấy giữa đường có con vật lớn bằng thỏ, hai mắt sáng như gương, nhảy nhót chận ngang trước đầu ngựa, cản trở không cho tiến lên. Người ấy sợ hãi, té ngay xuống ngựa. Yêu quái xông đến túm lấy, người ấu kinh hoảng chết ngay. Rất lâu mới tỉnh lại thì yêu quái đã mất tăm, không biết ở đâu, liền lên ngựa đi tiếp. Được mấy dặm, gặp một người. Chào hỏi xong, người ấy kể lại biến cố vừa xảy ra như thế. Nay được gặp nhau làm bạn đồng hành, thật hết sức đáng mừng. Người ấy nói, tôi đi có một mình, gặp được ông cùng làm bạn, sung sướng không thể nào tả nổi! Ngựa ấy đi nhanh, xin hãy đi trước, tôi sẽ đi theo sau. Bèn cùng nhau đi. Bạn hỏi: “Con vật vừa rồi như thế nào, khiến ông phải kinh hoảng như thế?”. Người ấy đáp: “Mình giống thỏ, mắt sáng như gương. Hình thù thật đáng ghê sợ!”. Bạn nói: “Thử nhìn lại tôi, xem ra sao?”. Người ấy quay lại nhìn thì đúng là yêu quái vừa gặp. Yêu quái bèn nhảy lên ngựa, người ấy hoảng hồn ngã ngay xuống đất chết tươi. Người nhà lấy làm lạ, thấy ngựa chạy về một mình, lập tức đổ xô đi tìm, gặp được giữa đường. Giây lát hồi tỉnh, kể lại đầu đuôi câu chuyện như thế.

2. Trên đỉnh núi cao phía Tây Nam đất Thục: có con vật giống loài khỉ, cao bảy thước, biết đi như người, giỏi rượt theo người, tên là Con heo đực, còn tên là Con ngựa hóa hay là Con vượn cái. Thường rình phụ nữ đi đường, nếu có người lớn, liền lén bắt mang đi, người khác không hay biết. Nếu có người đi gần bên, đều lấy dây dài kéo bắt đi, nên không thể thoát được. Con này biết phân biệt mùi hơi nam nữ, nên khi bắt người nữ đi, người nam không hề hay biết. Nếu bắt được con gái nhà người ta, liền đem về làm vợ. Người nào không sinh con thì suốt đời không được thả cho về. Mười năm sau, hình thù đều giống với nó, tâm trí cũng bị mê mẫn không có ý trở về. Nếu sinh được con cái, nó liền bồng ẵm đưa về nhà. Sinh con cũng giống như người, nếu không chịu nuôi con người mẹ sẽ chết. Vì thế mọi người đều sợ sệt, chẳng ai dám không nuôi con. Khi lớn lên, không khác gì người, đều mang họ Dương. Thế nên, ngày nay ở phía Tây Nam đất Thục, có nhiều người họ Dương, đều vốn là con cháu của Con heo đực hay Con ngựa hóa này vậy.

3. Trong vùng núi thẳm non sâu của đất Việt: có loài chim lớn như con tu hú, màu xanh, tên là Chim cai trị. Chim này khoét lỗ trong thân cây cổ thụ để làm tổ, lớn bằng hũ đựng năm, sáu thưng. Miệng tổ cỡ vài tấc, lấy đất vẽ viền chung quanh, màu xanh màu đỏ nổi lên rõ ràng, y như bia bắn. Người đi rừng đốn gỗ, thấy cây này thì lãng tránh ra xa. Đôi khi đêm tối mò, người không thấy chim, chim cũng biết người không trông thấy, liền kêu lên: “Chao ôi! Lên núi!”. Sáng mai, người bèn mau mau lên núi. “Chao ôi! Xuống núi!”. Thế là sáng mai phải cấp tốc xuống núi. Nếu chim không bảo xuống thì chỉ nói cười mà thôi, người có thể yên tâm ở lại đốn cây. Nếu có đồ dơ dáy vướng vất gần chỗ của nó thì sẽ có cọp đến canh chừng suốt đêm. Người không chịu về thì sẽ bị cọp bắt ăn thịt. Giữa ban ngày, thấy rõ hình dáng của nó đúng là chim. Ban đêm, nghe tiếng hót của nó, cũng đúng là chim. Có dịp vui thích, liền biến thành người cao ba thước, đi xuống khe suối mò cua trong đá, đem đến chỗ người đốt lửa nướng lên. Người không dám đụng đến nó. Người Việt gọi chim này là tổ của thầy mo xứ Việt.

4. Quý Hoàng Tử đào giếng: bắt gặp một vật giống cái vò đất, trong đó có con dê, bèn đến hỏi Khổng Tử rằng: “Ta đào giếng, bắt được con chó. Tại sao thế?”. Khổng Tử đáp rằng theo ta biết thì đó là dê. Bởi ta nghe nói rằng: “Yêu quái trong nước là ma rồng. Yêu quái của đất là dê dữ”. Sách Hạ Đỉnh Chí nói: “Con ma rồng lớn bằng đứa bé lên ba. Mắt đỏ, da đen. Tai dài, tay lớn. Vuốt màu đỏ tươi. Lấy dây trói lại thì có thể làm thịt ăn được”. Vương Tử nói rằng: “Yêu tinh của cây là con Du quang. Yêu tinh của kim loại là con Thanh minh”.

5. Giữa niên hiệu Nguyên Khang đời Tấn: trong nhà Hoài Diêu ở huyện Lâu tại Ngô quận bỗng nghe từ lòng đất có tiếng chó con sủa vọng lên. Dò chỗ có tiếng chó sủa phát ra, trên có lỗ như hang trùn. Hoài Diêu lấy gậy thọc vào, được vài thước, có cảm giác như gặp con gì, liền đào xuống, nhìn vào thấy một cặp chó con chưa mở mắt, cũng lớn như chó nhà, đem lên cho bú cho ăn. Kẻ hầu hạ đều đổ đến xem. Có bậc trưởng lão nói rằng: “Đây gọi là chó tê ngưu. Bắt được nó sẽ khiến cho nhà giàu có hưng thịnh, nên nuôi dưỡng lấy nó”. Vì thấy chó chưa mở mắt, nên Hoài Diêu đem bỏ vào chỗ cũ, lấy cối đá đậy kỹ lên trên. Ít lâu sau mở ra xem, hai bên đầu không có hang hốc, thế mà lại biến mất đi đâu không còn nữa. Nhiều năm sau, nhà Hoài Diêu vẫn bình yên, không xảy ra việc hên sui gì cả.

6. Giữa niên hiệu Đại Hưng: trong phủ đệ ở Ngô quận lại đào được hai con gia súc như trên. Về sau, thái thú Ngô Mậu bị quân ở Ngô Hưng giết chết. Thi Tử nói rằng: “Trong đất có chó gọi là Sói đất, có người gọi là Không hại”. Sách Hạ Đỉnh Chí nói: “Đào đất bắt được con chó gọi là Giả. Đào đất bắt được con heo gọi là Tà. Đào đất bắt được người gọi là Tụ. Tụ là Không hại vậy. Con vật này là của tự nhiên, đừng cho quỷ thần mà lấy làm lạ. Như thế, Giả và Sói đất tuy khác tên nhưng thật ra chỉ là một”. Thiên Vạn Tất trong sách Hoài Nam Tử nói rằng: “Dê ngàn năm hóa thành trùn khoang cổ. Cóc ăn nấm linh, khi chết thành chim cun cút. Đấy là do khí tạo ra. Vì cùng cảm ứng với nhau nên sinh ra huyễn hoặc vậy”. Họ Cao Tân có bà già ở trong cung vua, mắc bệnh đau tai, chạy tìm danh y đương thời váy chữa, móc ra con sâu ngọ ngoạy lớn như cái kén. Sau đó, bà già đem nhốt vào trong cái bầu rồi lấy dĩa đậy lại. Giây lát, sâu ấy hóa thành con chó bông ngũ sắc. Do đó, đặt tên là Bàn Hồ và nuôi dưỡng. Bấy giờ, rợ Ngô hùng mạnh, thường xâm lấn lân bang. Nhà vua đã sai tướng tá đi đánh dẹp, nhưng không thể thắng và bắt được giặc đem về. Bèn chiêu mộ trong thiên hạ, người nào có thể lấy được đầu tướng giặc Ngô sẽ thưởng vàng nghìn cân, thực ấp vạn hộ và ban cho công chúa. Sau đó, Bàn Hồ xách đầu tướng giặc đến cửa cung. Nhà vua xem xét lại thì đúng là đầu giặc Ngô. Biết làm sao đây! Quần thần đều tâu: “Bàn Hồ là thú, không thể phong quan tước, lại càng không thể gả công chúa. Dù có công cũng không thể ban thưởng được”. Công chúa nghe được, tâu lên nhà vua rằng: “Đại vương đã đem con ra hứa với thiên hạ. Nay Bàn Hồ đem đầu tướng giặc về đây, giúp nước trừ hại. Đó là mệnh trời sai khiến, nào phải là trí lực của chó?

Bậc vương giả trọng lời, bậc bá giả trọng chữ tín. Không thể vì thân con bé nhỏ mà nuốt lời hứa với thiên hạ được. Đó là tai họa cho nước nhà”. Nhà vua lo sợ nên phải bằng lòng, cho phép công chúa lấy Bàn Hồ. Bàn Hồ liền đem công chúa lên núi, ở chỗ cỏ cây rậm rạp không có dấu chân người. Từ đây, công chúa trút bỏ quần áo cao sang, ăn mặc trang pgục của người hèn hạ, cầm chĩa một theo Bàn Hồ lên núi xuống hang, cư trú trong động đá. Nhà vua thương nhớ, sai người lên tìm. Trời nổi mưa to gió lớn, sấm sét mịt mù. Người đi, không ai có thể đến được. Ba năm trôi qua, công chúa sinh hạ 6 trai, 6 gái. Sau khi Bàn Hồ chết xong, bọn họ ăn ở với nhau thành vợ chồng. Xe sợi vỏ cây, nhuộm bằng hạt cỏ, đem cắt may mặc, vì thích quần áo sặc sỡ nhiều màu. Sau đó, công chúa về thăm, đem chuyện tâu với vua cha. Nhà vua cho người lên kiếm. Trời không đổ mưa, thấy bọn họ ăn mặc cũn cỡn, nói năng líu lo, ăn uống chồm hổm. Bản tính thích chỗ rừng núi, ghét chốn thị thành. Chìu theo sở thích, nhà vua xuống chiếu ban cho núi lớn đầm sâu, gọi tên là Mọi rợ. Bọn họ ngoài mặt ngu si, trong lòng tinh quái, an thân lãnh địa, quý trọng của ban. Vì bọn họ bẩm thụ khí lạ của mệnh trời, nên phải đối xử theo lối đặc biệt. Đổi chác, làm rẫy đều không đóng thuế quan, không thu thuế đất. Các tù trưởng đều được ban ấn tín, đội mũ bằng da rái cá, ngụ ý sinh sống ở nước nhiều hơn. Hiện nay, tức là bọn rợ ở các vùng Lương Hán, Ba Thục, Vũ Lăng, Trường Sa, Lô Giang vậy. Mỗi dịp cúng tế ông tổ Bàn Hồ thì dùng món cháo tấm trộn cá nấu nhừ, cùng tụ họp nhau gõ vào bồn và kêu là. Tục ấy đến nay vẫn còn. Thế nên, người ta gọi là “mình trần đầu vồ, con cháu Bàn Hồ”. (Sáu chuyện trên đây rút từ Sưu Thần Ký).

7. Sách Tây Quốc Ký của Pháp sư Huyền Trang nói rằng: “Nước Tần Già La (tuy không phải là nước Ấn Độ, nhưng đường đến nước ấy phụ thuộc vào Ấn Độ) vốn là bãi châu báu, có nhiều châu báu quý hiếm và quỷ thần cư trú. Về sau, có một quốc vương hỏi vợ bên nước láng giềng. Ngày lành tháng tốt sang rước dâu về, giữa đường gặp sư tử. Bọn thị vệ tùy tùng bỏ cô dâu chạy trốn. Cô dâu ngồi trong xe cam tâm chịu chết. Bấy giờ, sư tử chúa cõng cô dâu vào hang thẳm trong núi sâu. Đúng bữa, bắt nai, hái quả đem cho ăn. Lâu ngày chầy tháng sinh một đám con trai con gái. Hình dạng giống người, nhưng tính tình lại là súc vật. Con trai lớn lên, có sức mạnh bắt được thú dữ. Tuy tuổi còn nhỏ, trí khôn đã phát triển, nói với mẹ rằng: “Con là gì đây? Cha thì dã thú, mẹ lại người ta. Không thuộc loài nào, làm sao cưới vợ?”. Mẹ bèn đem chuyện xưa ra kể cho nghe. Con nói: “Người và thú khác đường, cần phải bỏ trốn!”. Mẹ đáp: “Trước đây mẹ đã trốn đi, nhưng không thoát được”. Sau đó, đứa con theo sư tử cha lên núi vượt đèo, quan sát đường đi nước bước để lén trốn thoát. Rình lúc cha đi xong, bèn cõng mẹ chạy xuống làng mạc. Mẹ bảo: “Cần phải cẩn thận, đừng tiết lộ sự tình. Nếu người ta biết được, sẽ khinh bỉ mẹ con ta ngay”. Khi về đến nước của vua cha thì đã không còn nữa, họ hàng cũng đều bị diệt vong, đành xin tá túc trong làng. Người ta hỏi rằng: “Hai mẹ con là người nước nào? Đáp: “Tôi vốn là người ở nước này, bị lưu lạc sang đất khác, nay hai mẹ con dắt nhau về quê hương”. Mọi người nghe nói đều thương, cùng nhau xúm lại giúp đỡ. Riêng phần sư tử chúa, khi trở về hang, thấy chẳng còn ai, đâm ra thương nhớ vợ con, liền nổi cơn giận dữ, vụt chạy khỏi hang. Qua lại sục sạo khắp chốn xóm làng, gầm rống vang dội, hung hăng tàn sát người và súc vật. Ra tay giết chóc tất cả mọi loài. Dân làng vừa xông đến, liền bị tóm lấy vật chết. Cả làng phải đánh trống, thổi tù va, mang nỏ, cầm mâu, họp thành đội ngũ chống lại, mới có thể thoát nạn. Nhà vua sợ dùng đường lối nhân từ không thích hợp, nên tung đám thợ săn chuyên nghiệp đến, quyết bắt cho kỳ được. Lại thân hành đem bốn đạo quân đông đến vạn người, bao vây khắp rừng rậm đến tận hang cùng. Sư tử gần rống vang dội, người ngựa đều kinh sợ. Không tài nào bắt được, nhà vua phải chiêu mộ người nào có khả năng bắt được sư tử để trừ hại cho đất nước, hứa sẽ trọng thưởng và tuyên dương công trạng. Người con nghe được lệnh vua, liền bàn với mẹ: “Lâu nay mẹ con mình đói khổ. Nay con nên đáp lời kêu gọi may ra bắt được, sẽ có của để mẹ con mình nuôi nhau”. Mẹ nói: “Lời con nói mẹ nghe không được. Con thú ấy, dù biết là thú, nhưng cũng là cha của con. Lẽ nào vì đói khổ mà làm chuyện ngỗ nghịch trái đạo?”. Con nói: “Người và thú vật khác loài, nói đến lễ nghĩa làm gì? Mẹ cứ cản trở thì con cũng chẳng khác gì thú vật”. Bèn rút dao găm lên đường, đáp ứng lời chiêu mộ. Bấy giờ, nghìn người muôn ngựa bố trí đông đảo như mây đùn sương tỏa. Sư tử cha chiếm cứ giữa rừng, không ai dám đến gần. Con bèn đi thẳng vào trước mặt. Sư tử cha liền nằm mẹp xuống một cách hiền lành, thương yêu con đến quên hết giận dữ. Con lén đâm phụp dao vào giữa bụng. Tuy thế, sư tử cha thương yêu con rất nhân từ, không chút giận hờn. Đến khi con mổ bụng ra, sư tử cha vẫn cam lòng chịu đau mà chết. Nhà vua hỏi: “Người này là ai mà phi thường đến thế?”. Rồi đem lợi lộc ra dụ dỗ, lấy uy lực để răn đe, cuối cùng con mới chịu đem đầu đuôi sự tình trình bày đầy đủ. Nhà vua phán: “Ngỗ nghịch thay! Đến cha mà còn nỡ giết, huống gì người ngoài? Thú vật khó thuần, ác tâm dễ động. Trừ khử mối hại cho dân, công lao to thật. Cắt đứt tính mạng của cha, lòng quá ngang tàng! Trọng thưởng để trả công to, đày xa để phạt ngang ngược thì phép nước không hư, lời vua không trái”. Liền đó, cho sắm sửa hai chiếc thuyền lớn, dự trữ nhiều lương khô. Giữ mẹ ở lại, chu cấp để thưởng công lao. Trai gái đều lên thuyền riêng, phó cho sóng gió đưa đi. Thuyền của bọn con trai vượt biển, đến bãi châu báu này. Thấy có nhiều châu báu quý hiếm, nên dừng lại cư trú. Về sau, có đoàn thương nhân ghé vào bãi, bọn con trai giết chết trưởng đoàn, giữ con gái lại. Cứ thế, con cháu sinh sôi đông đúc. Bèn lập ra vua tôi để phân chia cao thấp. Dựng đô lập ấp thành bờ cõi riêng. Vì tổ tiên có công bắt được sư tử chúa, nên lấy công ấy mà đặt tên nước. Thuyền của bọn con gái trôi đến phía Tây Ba lạt tư, bị quỷ thần ở đấy dụ dỗ, sinh ra một bầy con gái. Thế nên, ngày nay trở thành nước lớn của đàn bà ở phương Tây. Vì thế, người nước Sư tử hình dáng thấp đen, cằm vuông đầu lớn, tính tình hung hãn, đánh độc tàn nhẫn. Ấy cũng là do con cháu của mãnh thú, nên phần đông đều hùng dũng tráng kiện. Đó là một thuyết về loại người này. Nếu theo kinh điển của Phật giáo, như kinh Khởi Thế, thì vào ngày xưa, ở trong thành lũy kiên cố của bãi có nhiều châu báu này là chỗ cư trú của năm trăm La sát nữ.

Lại nữa, trước đền thờ trời ở phía Bắc thành thuộc mé Đông nước

Khuất Chi có hồ Rồng lớn là nơi loài Rồng biến hình giao phối với ngựa cái, sinh ra giống ngựa rồng con rất thuần thục để cưỡi. Do đó, nước này sản xuất nhiều ngựa hay. Nghe các sách xưa nói rằng: “Gần đây, có nhà vua tên Kim Hoa, thường quan tâm đến việc chính trị. Nhà vua thuần hóa một con rồng để kéo xe. Do nôn nóng chinh phục, lỡ tay quất roi đụng vào tai, nó liền trốn đi. Phải bỏ nghìn vàng thuê người kiếm về”.

Trong thành không có giếng, phải lấy nước ở hồ này. Con rồng bèn biến thành người, cùng phụ nữ giao phối, sinh được đứa con hùng dũng, chạy kịp ngựa phi. Cứ thế, dần dần lan rộng, mọi người đều có giống rồng. Bọn này ỷ sức làm càn, không tuân phép nước. Nhà vua ra sức cùng nước Đột Quyết diệt giống người này, lớn nhỏ đều giết sạch, không chừa một mạng. Đến nay, thành ấy trở nên hoang phế, mất hẳn dấu vết con người. (Hai chuyện sau đây rút từ sách Tây Quốc Ký của Pháp sư Huyền Trang).

Thuật rằng: “Thường thấy bọn ngu mê tà kiến nói rằng: “Sang hèn không giống, người thú khác nhau. Làm sao có chuyện người làm súc sinh, súc sinh làm người? Phật pháp nói gạt, sợ không đúng thật”. Nếu các người giữ thói u mê, không tin vào lời Phật dạy, tại sao các kinh điển, thư tịch thế gian trên đây đều ghi chép rành rành trước mắt? Liệu các người cũng chẳng tin ư? Nào làm ơn, nhẫn nhục như Sở vương ăn đĩa sinh bệnh, rồi bệnh cũng lành. Vua Tống không chịu cúng vái, yêu tinh phải đi. Nào gây ác như Lữ hậu hạ độc Triệu vương Như Ý, Như Ý biến thành chó xanh. Vua Tề giết công tử Bành Sinh, Bành Sinh hóa thành heo người hù dọa. Chuyện gần đây còn như thế, huống gì đã tạo nhân gây nên nghiệp báo thiện ác, nổi chìm sáu nẻo khác nhau, gánh chịu tai ương muôn kiếp?”.

VI. Bộ thứ sáu: ĐỊA NGỤC

Gồm có 8 phần: Thuật ý, Hội danh, Thụ báo, Thì lượng, Điền chủ, Vương đô, Nghiệp nhân, Giới úc.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Than ôi! Luận về địa ngục đắng cay, thật là thống thiết! Lấp lánh rừng dao trên mặt nhật, chói ngời núi kiếm tủa khắp trời. Sùng sục vạc sôi trào bọt sóng, phừng phừng lò cháy lóe tia hồng. Thành sắt suốt ngày cửa đóng, trụ đồng đêm tối lửa nhen. Nhìn ở bên trong, tội nhân la liệt. Khổ đau tuyệt vọng, kêu réo khóc la. Đầu trâu mắt dữ, ngục tốt nanh dài. Chĩa nhọn đâm hông, tim gan xay giã, áp thân lửa mạnh, cháy rụi thịt da. Hoặc lại, xay đầu giã cẳng, hầm phách nấu hồn, xẻ mật banh lòng, bằm thân quết thịt. Khổ đến nỗi ấy, nói sao cho cùng! Do đó, nổi chìm trong vạc nước sôi, sấp ngửa giữa lò than đỏ. Thịt nát trên đầu giáo, kiếm, xương tan bên cạnh thây khô. Giường sắt nóng hổi, sao ngủ cho yên? Cột đồng đốt đỏ, há ôm lâu được? Trong mắt rực lửa, lệ khóc ráo hoanh, giữa miệng ngậm khói, kêu chẳng thành tiếng. Như những chỗ này, tội vẫn còn nhẹ. Thế nên, trong ngục đá lạnh, xem tựa khí ấm, giữa lò than hồng, giống như gió mát. Cho là sung sướng, lấy làm hân hoan! Rơi xuống A tỳ, hình thù càng lạ. Cay đắng bốn bề tường sắt, dọc ngang tám vạn do tuần. Tiếng xác đốt nổ nghe rất kinh hoàng, mùi hôi thịt cháy bốc khói ngùn ngụt. Giống cá trên chảo, máu mỡ sém khô. Không một phút vui, đụng đâu cũng khổ. Cử động chẳng được, trói buộc rất căng. Đông Tây qua lại, trên dưới thông nhau. Hết kiếp ở đây, dời sang chỗ khác, chỗ khác hết kiếp, trở về lại đây. Xoay vần như thế, đến vô lượng kiếp.

Nguyện cầu những kẻ tu phúc hôm nay, thành khẩn một lòng

cùng xin sám hối. Mong sao vạc nóng hừng hực thành tựu hồ sen, lò lửa phừng phừng trở nên lọng quý. Cây kiếm tua tủa là cảnh chùa chiền, núi dao lởm chởm là chốn pháp hội. Cột đồng nguội hẳn, treo mãi cờ phướn, lưới sắt thay hình, đổi ra cõi Phật. Đầu trâu liệng kiếm, thọ phép Tam quy, cai ngục quăng roi, giữ gìn ngũ giới. Oan gia hóa giải, chẳng còn sắc mặt oán hờn, chủ nợ vui mừng, không có bộ tịch sân hận. Những kẻ mất đầu mất cổ, nhờ đó phục hồi, những người nát thịt tan xương, từ đây lành lặn.

Thứ hai: PHẦN HỘI DANH

- Hỏi: “Tại sao gọi là địa ngục?”.

- Đáp: “Theo luận Lập Thế A tỳ đàm nói, Phạm âm là Nê lê da, nghĩa là không vui đùa, không vui vẻ, không đi ra, lại không có phước đức, lại không chừa xa ác nghiệp, nên phải sinh vào trong đường ấy. Lại còn nói, trong dục giới, đường này thấp kém nhất gọi là đường tà. Do nhân duyên này, nên gọi địa ngục là Nê lê da”. Theo trong luận Bà sa gọi là không tự tại. Nghĩa là tội nhân ở đây bị ngục tốt kèm cặp, không được tự tại, nên gọi là địa ngục. Còn gọi là không thể thích vui, nên gọi là địa ngục. Hơn nữa, địa là đáy, nghĩa là dưới đáy. Trong vạn vật, đất ở thấp nhất, nên gọi là đáy. Ngục là bị quản thúc. Nghĩa là bị quản thúc không được tự tại, nên gọi là địa ngục. Hơn nữa, gọi tên là Nê lê da là theo Phạm ngữ, ở đây là không có. Nghĩa là trong địa ngục ấy không có lợi ích gì cả, nên mới gọi là không có”.

Hỏi: Địa ngục có nhiều loại, hoặc ở dưới đất, hoặc ở trên mặt đất, hoặc ở giữa hư không. Tại sao đều gọi là địa ngục?.

Đáp: Địa ngục, xưa dịch là bị quản thúc ở chỗ chật hẹp, không câu chấp dưới đất, trên không. Nay theo kinh điển mới dịch, theo chính âm trong bản văn bằng Phạm ngữ là Na lạc ca hoặc Nại lạc ca, đều có nghĩa tổng quát là chỗ hết sức khổ của con người, nên gọi là Nại lạc ca. Bởi thế, trong luận Bà sa có câu hỏi: “Tại sao đường ấy gọi là Nại lạc ca?”. Đáp: “Vì các chúng sinh trong đường ấy đều không vui, không thích, không thưởng thức, không hưởng thụ, không an lạc nên mới gọi là Nại lạc ca”. Có người nói: “Vì trước đây, chúng sinh ở đấy đã tạo tác một cách tàn bạo nhiều hơn, thêm hơn các ác hạnh về thân ngữ ý, phải vào trong đường ấy, khiến đường ấy liên tục, nên mới gọi là Nại lạc ca”. Có người nói: “Vì bị rơi ngược vào đường ấy, nên gọi là Nại lạc ca. Như có bài kệ nói rằng:

“Rơi ngược xuống địa ngục,

Chân trên, đầu xuống dưới. Do phỉ báng chư tiên,

Hiếu tịnh, tu khổ hạnh”.

Có người nói: “Nại lạc là người, ca là làm ác. Người làm ác phải sinh vào chỗ ấy, nên gọi là Nại lạc ca”.

Hỏi: “Tại sao chỗ lớn và thấp nhất gọi là vô gián?”.

Đáp: Vì chỗ ấy luôn luôn chịu khổ, không có vui vẻ xen vào, nên gọi là vô gián.

Hỏi: Trong các địa ngục khác, vì có ca múa, ăn uống, hưởng quả Dị thục vui vẻ, nên không gọi là vô gián chăng?.

Đáp: Trong các địa ngục khác, tuy không có quả Dị thục vui vẻ, nhưng có quả Đẳng lưu vui vẻ, như luận Thi Thiết nói, trong địa ngục Đẳng hoạt, có lúc được gió mát thổi đến, huyết thịt được mọc lại, có lúc phát ra tiếng nói: “Sống lại!”. Các chúng sinh ở đấy bỗng nhiên sống lại. Chỉ vào lúc huyết thịt mọc lại và sống lại như thế, mới tạm thời sinh ra vui vẻ xen lẫn trong chịu khổ, nên không gọi là vô gián”.

Thứ ba: PHẦN THỌ BÁO

Như luận Bà sa có câu hỏi rằng: Địa ngục ở tại chỗ nào?.

Đáp: “Đa số ở tại phía dưới châu Thiệm Bộ này”. Sắp xếp ra sao? Có người bảo: “Từ châu này đi xuống bốn vạn du thiện na thì đến đáy của địa ngục Vô gián. Địa ngục Vô gián ngang dọc cao thấp đều rộng hai vạn du thiện na. Từ đây đi lên một vạn chín ngàn du thiện na, trong đó sắp xếp bảy địa ngục còn lại. Nghĩa là kế trên có địa ngục Nóng nhất. Kế trên có địa ngục Nóng. Kế trên có địa ngục Kêu gào lớn. Kế trên có địa ngục Kêu gào. Kế trên có địa ngục các thứ hợp (chúng hợp). Kế trên có địa ngục Dây thừng đen. Kế trên có địa ngục Sống lại. Địa ngục này ngang dọc đều rộng một vạn du thiện na. Năm trăm du thiện na là đất sét trắng, năm trăm du thiện na là bùn sình”. Có người nói: “Từ dưới lớp bùn sình này có địa ngục Vô gián nằm ở chính giữa, bảy địa ngục còn lại nằm bao bọc chung quanh. Giống như làng xóm bao quanh đô thành ngày nay vậy”.

Hỏi: “Nếu thế, thuyết của luận Thi Thiết làm sao thông đạt? Luận ấy nói chu vi của châu Thiệm Bộ chỉ lớn 6003, 5 du thiện na, trong khi mỗi một địa ngục đều rộng lớn hơn. Làm sao phía dưới châu này có thể chứa nổi tất cả?”.

Đáp: “Châu Thiệm Bộ này, phía trên hẹp, phía dưới rộng ra, giống như đống lúa, nên có thể chứa nổi. Vì thế, trong kinh có nói, bốn biển lớn, càng xuống, càng sâu”.

Hơn nữa, mỗi một địa ngục lớn có mười sáu tầng. Nghĩa là mỗi địa ngục có bốn cửa, ngoài mỗi cửa có bốn tầng. Thứ nhất là tầng tro nóng. Trong tầng này, tro nóng cao lên ngập gối. Thứ hai là từng phẩn uế. Trong tầng này ứ đầy phẩn uế. Thứ ba là tầng mũi nhọn. Trong tầng này lại có ba loại: một là đường dao nhọn. Trong đường này sắp xếp dao nhọn chĩa mũi tên, làm thành đường đi. Hai là rừng lá kiếm. Trên rừng này đều lấy kiếm bén mũi làm lá. Ba là rừng kim sắt. Nghĩa là trên rừng này đều có mũi kim sắt dài mười sáu lóng tay. Ba loại trong tầng mũi nhọn này tuy tên khác nhau, nhưng cùng có lá sắt giống nhau, nên được xếp chung vào một tầng. Thứ tư là tầng sông nóng. Trong tầng này có nước mặn nóng. Gộp chung cả địa ngục này thành ra mười bảy. Như thế, tám địa ngục lớn gộp chung với các tầng phụ thuộc thành ra một trăm ba mươi sáu chỗ. Do đó, kinh nói có một trăm ba mươi sáu địa ngục. Bởi thế, kinh Trường A hàm bảo rằng: “Tổng cộng có tám địa ngục lớn. tám địa ngục lớn này đều có mười sáu địa ngục nhỏ bao bọc chung quanh, giống như phía ngoài bốn châu lớn có tám vạn châu nhỏ bao bọc. Phía ngoài tám vạn châu nhỏ lại có biển lớn. Phía ngoài biển lớn lại có núi lớn Kim Cương. Phía ngoài núi lớn này lại có núi khác, cũng gọi là Kim Cương (kinh Lâu Thán gọi là núi Thiết Vi lớn). Ánh sáng của thiên thần nhật nguyệt đều soi sáng tới khoảng giữa hai ngọn núi này. tám địa ngục lớn là: một là Tưởng tượng, hai là Dây thừng đen, ba là Đè ép, bốn là Kêu gào, năm là Kêu gào lớn, sáu là Thui nướng, bảy là Thui nướng lớn, tám là Vô gián (kinh Lâu Thán và các kinh khác nêu tên không giống nhau, do phiên dịch có chỗ lầm chỗ đúng, nhưng đại ý đều như nhau cả).

Thứ nhất là địa ngục Tưởng tượng. Có mười sáu ngục nhỏ bao bọc chung quanh. Trong đó, tay của chúng sinh mọc ra móng sắt, lần lượt nổi giận, lấy móng sắt cấu xé lẫn nhau, thịt rơi theo tay, tưởng rằng đã chết, nên gọi là Tưởng tượng. Hơn nữa, trong đó chúng sinh nuôi ác tâm mưu hại lẫn nhau. Tau cầm dao kiếm, lần lượt đâm chém, băm vằm, chặt nhỏ, thân thể nát báy trên đất, tưởng rằng đã chết, nên gọi là Tưởng tượng. Khi luồng gió lạnh thổi đến, bỗng nhiên sống lại. Nạn nhân tự tưởng rằng ta đã sống lại. Lâu ngày chịu tội xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Tưởng tượng. Kinh hoàng chạy đi cầu cứu, không ngờ lại đến địa ngục Cát đen. Gió nóng bỗng nhiên nổi dậy, thổi tung cát đen nóng hổi bắn vào mình, đốt cháy da thịt, vào tận xương cốt. Trong người phát hỏa, chạy đi chạy lại, thần thể bừng cháy tan nát. Tội lỗi vẫn chưa trả hết, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Cát đen, đến địa ngục Bắn phân nóng. Tự nhiên ở phía trước có dẫy đầy phân nóng bắn ra và đạn sắt nóng hổi. Ngục tốt ép bức tội nhân, bắt phải cầm đạn sắt nóng hổi đốt cháy thân mình. Lại còn bắt đút vào miệng, rơi lọt từ cổ họng xuống bụng, chạy tuốt ra ngoài. Tất cả đều bị cháy tiêu. Có loại côn trùng mỏ sắt mổ thịt đến tận xương tủy, khổ độc vô cùng. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Bắn phân nóng, đến địa ngục Đinh sắt. Ngục tốt đánh ngã ngửa trên bàn sắt nóng, kéo duỗi thân hình ra, lấy đinh sắt đóng lên tay chân thân thể đến năm trăm cái. Đau đớn rên la, cũng chưa chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Đinh sắt, đến địa ngục Đói sắt. Ngục tốt liền đánh ngã ngửa trên bàn sắt nóng, lấy đồng nấu chảy rót vào miệng, lọt từ cổ họng xuống bụng, chạy tuốt ra ngoài. Tất cả đều bị cháy tiêu. Đền tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Đói sắt, đến địa ngục Khát. Bị đánh ngã ngửa trên bàn sắt, ngục tốt lấy đạn sắt nóng đút vào miệng, đốt cháy miệng mồm, lọt xuống bụng ra ngoài. Tất cả đều bị cháy tiêu. Đau đớn kêu khóc. Lâu ngày chịu tội xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Khát, đến địa ngục Một vạc đồng. Ngục tốt trợn mắt giận dữ, chụp chân tội nhân, liệng ngược xuống vạc, nước sôi sùng sục tung tóe, chìm nổi quay cuồng, thân nát thịt nhừ. Muôn khổ đều đủ, chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu tội xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Một vạc đồng, đến địa ngục Nhiều vạc đồng. Ngục tốt chụp chân tội nhân, liệng ngược xuống vạc, nước sôi sùng sục tung tóe, chìm nổi quay cuồng, thân nát thịt nhừ. Ngục tốt lại lấy móc sắt kéo lên, liệng vào các vạc khác, tội nhân kêu đau khổ sở, chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Nhiều vạc đồng, đến địa ngục Đá mài. Ngục tốt bắt tội nhân, đánh ngã ngửa trên bàn đá nóng, kéo duỗi chân tay, lấy tảng đá lớn đè xuống trên mình, cọ mài lui tới, thịt nát xương tan, đau đớn thảm thiết, chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Đá mài, đến địa ngục Máu mủ. Máu mủ sôi sục tung tóe. Tội nhân chạy nhảy khắp Đông Tây, bỏng khắp thân thể, đầu mặt tan nát, lại còn bốc lấy máu mủ mà ăn, bỏng lủng từ trên xuống dưới, đau đớn không thể chịu đựng nổi, chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Máu mủ, đến địa ngục Đong lửa. Có đống lửa lớn, bốc cháy phừng phừng. Ngục tốt bức bách tội nhân phải lấy tay cầm đấu sắt nóng hổi đong lửa khiến cho lửa đỏ thiêu đốt tội nhân. Lửa nóng đau đớn, rên la gào khóc, chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Đong lửa, đến địa ngục Sông Tro. Ngang dọc sâu cạn đều rộng năm trăm do tuần. Nước tro sôi sùng sục tung tóe. Hơi độc bốc lên phừng phực. Sóng nhồi vỗ đập vào nhau, tiếng ầm ì thật đáng sợ. Từ đáy lên đến mặt sông, kim sắt dọc ngang đâm ra tua tủa. Trên bờ sông ấy có rừng cây kiếm, cành lá hoa quả đều là dao kiếm. Tội nhân lội xuống dòng sông, nổi chìm theo sóng, xô dạt vào ra, chìm lỉm xuống đáy, bị kim sắt đâm mình, xuyên thấu trong ngoài, máu mủ muôn bề, đau đớn muôn bề. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được, mới ra khỏi Sông tro. Lên bờ bên kia, đến rừng cây kiếm, liền bị kiếm bén cắt đâm, tổn thương thân thể. Lại có chó sói xông đến ăn thịt, tội nhân phải trèo lên cây kiếm, mũi kiếm lại giương lên, tay giơ, tay đứt, chân đạp, chân lìa. Da thịt rụng rời, chỉ còn gân mạch nối liền xương trắng. Bấy giờ, trên cây có loài chim mỏ sắt mổ đầu ăn não, đau đớn kêu gào. Chịu tội chưa xong, khiến cho đừng chết. Tội nhân lại lội xuống Sông Tro, nổi chìm theo sóng, bị kim sắt đâm mình, đau đớn muôn bề. Thịt da tan nát, máu mủ tuôn đầy, chỉ còn xương trắng nổi trôi trên mặt nước. Gió lạnh thổi đến, bỗng nhiên tội nhân đứng dậy. Chịu tội xong rồi, không ngờ lại đến địa ngục Đạn sắt. Có đạn sắt cháy đỏ đầy dẫy khắp nơi. Ngục tốt bắt tội nhân chụp lấy đạn sắt, khiến cho tay chân cháy nát, khắp mình bốc lửa. Muôn khổ đều đủ, chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Đạn sắt, đến địa ngục Búa rìu. Ngục tốt bắt lấy tội nhân, đánh ngã ngửa trên bàn sắt nóng, lấy búa rìu sắt nóng hổi chặt đứt chân tay, tai, mũi, lưỡi, thân mình, đau đớn kêu gào. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Búa rìu, đến địa ngục Chó sói. Có bầy chó sói tranh nhau chạy đến cắn xé, tội nhân thịt nát xương tan, tuôn đầy máu mủ, đau đớn muôn bề. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Chó sói, đến địa ngục Cây kiếm. Khi tội nhân chạy vào rừng kiếm, gió lớn thổi lên, thổi lá cây kiếm rơi xuống trên mình, đầu mặt thân thể đều bị thương cả. Có loài chim mỏ sắt mổ vào hai mắt, đau đớn kêu gào. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Cây kiếm, đến địa ngục Giá lạnh. Có cơn gió lạnh rất lớn thổi đến thân mình của tội nhân, khiến toàn thân đông lạnh bị thương, da thịt rơi rớt, đau đớn kêu la, sau đó mới chết. Do thân làm việc bất thiện, miệng và ý cũng thế, nên mới đọa vào địa ngục Tưởng tượng. Khiếp sợ đến nổi dựng đứng tóc lông.

Thứ hai là địa ngục lớn Dây thừng đen, có mười sáu ngục nhỏ bao bọc chung quanh. Mỗi địa ngục ngang dọc rộng năm trăm do tuần. Tại sao gọi là địa ngục lớn Dây thừng đen? Vì các ngục tốt ở đấy bắt tội nhân đánh ngã ngửa trên bàn sắt nóng hổi, kéo duỗi thân mình, lấy dây sắt nóng kéo căng ra thật thẳng, rồi dùng búa nóng theo lằn dây, chặt tội nhân thành trăm nghìn đoạn. Lại nữa, ngục tốt treo dây sắt nóng dọc ngang vô số, rồi bắt tội nhân phải đi trong khoảng có dây thừng. Gió lớn thổi lên, thổi vào các dây thừng, đụng chạm vào thân mình, đốt cháy da thịt, tiêu xương văng tủy, đau đớn muôn bề, nhưng tội lỗi chưa hết, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Dây thừng lớn, đến địa ngục Cát đen, rồi đến địa ngục Giá lạnh, sau đó mới chết. Không cần thuật rõ. mười sáu ngục còn lại, cũng giống như trên đã nói, nhưng chịu đau đớn càng nhiều hơn. Do có ác ý với cha mẹ, Phật và Thanh văn, nên đọa vào địa ngục lớn Dây thừng đen này.

Thứ ba là địa ngục lớn Đè ép, cũng có mười sáu ngục nhỏ bao bọc chung quanh. Mỗi địa ngục ngang dọc rộng năm trăm do tuần. Tại sao gọi là địa ngục lớn Đè ép? Vì có nhiều núi đá lớn, từng cặp đối diện nhau. Khi tội nhân vào trong này, núi tự nhiên khép lại, đè ép thân mình, xương thịt nát bấy. Xong xuôi, núi đá trở lại như cũ, đau đớn muôn bề, chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lại có voi sắt lớn, khắp mình bốc lửa, kêu rống chạy đến, chà đạp tội nhân, uốn lượn trên mình, thân thể nát bấy, máu mủ tuôn đầy, kêu gào thảm thiết, khiến cho không thể chết được. Ngục tốt lại bắt tội nhân ngồi trên tảng đá lớn, rồi lấy đá lớn đè lên. Lại còn bắt tội nhân nằm trên mặt đất, rồi lấy chày sắt giã xuống. Từ chân đến đầu, da thịt nát bấy, máu mủ tuôn đầy, đau đớn muôn bề, chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Vì thế, mới gọi là địa ngục Đè ép. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Đè ép, đến địa ngục Cát đen, rồi đến địa ngục Giá lạnh, sau đó mới chết. Chỉ tạo ba nghiệp ác, không tu ba hạnh thiện, liền bị đọa vào địa ngục Đè ép, đau đớn không thể kể nổi.

Thứ tư là địa ngục Kêu gào, cũng có mười sáu ngục nhỏ bao bọc chung quanh. Mỗi địa ngục này ngang dọc rộng năm trăm do tuần. Tại sao gọi là địa ngục lớn Kêu gào? Vì ngục tốt bắt tội nhân ném vào trong vạc lớn, rồi lại đặt trong vạc sắt lớn, nước sôi sùng sục tung tóe, nấu chín tội nhân. Khóc lóc kêu gào, đau đớn chua cay. Lại bắt tội nhân ném lên chảo sắt lớn, lật lên lật xuống, rang nướng thân mình. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục lớn Kêu gào, đến địa ngục Cát đen, rồi đến địa ngục Giá lạnh, sau đó mới chết. Do nuôi lòng sân hận, tạo các ác hạnh, nên phải đọa vào địa ngục lớn Kêu gào.

Thứ năm là địa ngục Kêu gào lớn, cũng có mười sáu ngục nhỏ bao bọc chung quanh (lớn nhỏ cũng như trước). Tại sao gọi là địa ngục Kêu gào lớn? Vì ngục tốt bắt tội nhân đặt vào chõ lớn, rồi lại đặt vào trong vạc sắt lớn, nước sôi sùng sục, nấu chín thân thể. Rồi lại ném lên chảo lớn, lật lên lật xuống rang nướng. Tội nhân khóc lóc, kêu gào lớn lên, đau đớn chua cay. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Vì thế, gọi là địa ngục Kêu gào lớn. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Kêu gào lớn, đến địa ngục Giá lạnh, sau đó mới chết. Do nhiễm các tà kiến, bị lưới yêu trói buộc, tạo các hạnh thấp hèn, liền bị đọa vào địa ngục Kêu gào lớn.

Thứ sáu là địa ngục Thui nướng, cũng có mười sáu ngục nhỏ bao bọc chung quanh (lớn nhỏ cũng như trước). Tại sao gọi là địa ngục Thui nướng? Vì ngục tốt bắt tội nhân đặt trong thành sắt lớn. Thành này bốc cháy, trong ngoài đều đỏ rực, thui nướng tội nhân. Rồi lại đặt trên lầu sắt. Lầu này bốc cháy, trong ngoài đều đỏ rực. Rồi lại đặt trong lò sắt nung. Lò này bốc cháy, trong ngoài đều rực đỏ, thui nướng tội nhân, da thịt cháy rụi, muôn khổ đều đủ. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Vì vậy gọi là địa ngục Thui nướng. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Thui nướng, đến địa ngục Giá lạnh, sau đó mới chết. Do thui nướng chúng sinh nên bị đọa vào địa ngục Thui nướng, chịu đựng đau khổ triền miên vì thui nướng.

Thứ bảy là địa ngục lớn Thui nướng, cũng có mười sáu ngục nhỏ bao bọc chung quanh (lớn nhỏ cũng như trước). Tại sao gọi là địa ngục lớn Thui nướng? Nghĩa là vì ngục tốt ở đây đem tội nhân bỏ trong thành sắt. Thành này bốc cháy, trong ngoài đều đỏ rực, thui nướng tội nhân, da thịt cháy nát, muôn khổ đều đủ. Có hầm lửa lớn, bốc cháy phừng phừng. Hai bên bờ hầm có núi lửa lớn. Ngục tốt đem tội nhân ném xuống, rồi xóc vào đầu ngọn chĩa sắt, dựng đứng trong hầm, thui nướng thân thể, da thịt cháy tan. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lâu ngày chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục lớn Thui nướng, đến địa ngục Giá lạnh, sau đó mới chết. Do bỏ nghiệp quả tốt lành, làm các ác hạnh, nên phải đọa vào địa ngục lớn Thui nướng này.

Thứ tám là địa ngục Vô gián, cũng có mười sáu ngục nhỏ bao bọc

chung quanh (lớn nhỏ cũng như trước). Tại sao gọi là địa ngục A tỳ? Địa ngục A tỳ nghĩa là địa ngục Vô gián. Tại sao gọi là Vô gián? Vì ngục tốt bắt tội nhân ở đấy lột sạch da dẻ, từ đầu đến chân, rồi lấy da ấy trói buộc tội nhân, treo lên xe lửa. Bánh xe nghiền trên đất nóng, chạy vòng đi vòng lại. Thân thể nát bấy, da thịt vung vãi khắp nơi, muôn khổ đều đủ. Chịu tội chưa xong, khiến cho không thể chết được. Lại có thành sắt, bốn mặt phát cháy. Đông lan đến Tây, Tây lan sang Đông. Nam Bắc trên dưới đều cùng như thế. Lửa cháy tới lui, không sót chỗ nào. Tội nhân chạy khắp Đông Tây, thân thể thiêu hủy, da thịt nát tan. Đau đớn đắng cay, khốn khổ muôn bề. Tội nhân ở bên trong rất lâu, cửa mới mở ra. Tất cả bôn ba chạy tới, tay chân thân thể tất cả đều bốc lửa. Chạy sắp đến cửa, tự nhiên cửa liền đóng lại. Tội chưa đền xong, nên không thể chết được. Tội nhân ở đó, mắt nhìn vật gì, đều thành màu xấu. Tai nghe tiếng dở, mũi ngửi mùi hôi, thân đụng gây đau, ý nghĩa đều bậy. Trong khoảng một búng tay, tất cả đều xấu, nên mới gọi là địa ngục Vô gián. Chịu khổ xong rồi, mới ra khỏi địa ngục Vô gián, đến địa ngục Giá lạnh, sau đó mới chết. Do làm tội nặng, phải chịu nghiệp báo sinh vào đường ác, nên bị đọa vào địa ngục Vô gián, đền tội rất nhiều, không thể kể hết. Trên đây là nói qua tên của tám địa ngục lớn và đều nói trải qua mười sáu ngục nhỏ. Hình thức chịu tội cũng như trước đã trình bày.

Lại nữa, kinh Quán Phật Tam Muội Hải nói rằng: “Địa ngục A tỳ ngang dọc đều rộng tám ngàn do tuần, có bảy lớp tường sắt, bảy lớp lưới sắt. Có mười tám ngăn, chung quanh đều được bao bọc bằng bảy lớp rừng dao. Lại có thêm bảy lớp rừng kiếm. Bốn góc có bốn chó đồng canh giữ, cao lớn đến bốn mươi do tuần. Mắt sáng như điện chớp, nanh sắc như cây kiếm, răng bén như mũi dao, lưỡi nhọn như kim sắt. Tất cả lông lá trên mình đều phát ra lửa dữ, bốc lên khói có mùi hôi thối tha. Còn mười tám ngục tốt, miệng như Dạ xoa, có sáu mươi bốn mắt, nhìn sục sạo như đạn sắt bắn tung ra. Răng nanh bén chĩa lên, cao bốn do tuần. Đầu răng phát lửa, thiêu đốt xe sắt đã nói trên. Bánh xe ấy bốc lửa, phát ra dao găm, kiếm kích, đốt cháy thành A tỳ, đỏ rực như đồng nấu chảy. Ngục tốt có 8 đầu, sáu mươi bốn sừng. Đầu sừng phát hỏa, hóa thành gang cứng, rồi thành bánh xe dao. Lần lượt từng bánh xe dao này sắp lớp, trong ánh lửa sáng, đầy dẫy cả thành A tỳ. Trong thành có bảy cờ phướn sắt bốc lửa, sôi lên sùng sục. Sắt chảy bắn tung tóe khắp cả bốn cửa thành. Trên thành có 8 chõ lớn, đồng sôi sùng sục, bắn tung tóe khắp trong thành. Giữa hai ngăn của địa ngục có tám vạn bốn ngàn con trăn sắt lớn, phun ra lửa độc trúng mình tội nhân. Khắp trong thành đều nghe tiếng rít gió của chúng như trời nổi sấm, rồi bắn ra đạn sắt như mưa. Có năm trăm Dạ xoa, năm trăm ức côn trùng, tám vạn bốn nghìn mỏ bén. Trên đầu phóng lửa như mưa rơi xuống khắp thành A tỳ. Khi đàn côn trùng này bay xuống, lửa mạnh sẽ cháy rực lên, chiếu sáng khắp phía trên ngục đến tám vạn 4 nghìn do tuần, khuấy động nước biển lớn, cháy sém cả chân núi, xuyên thấu đáy biển một lỗ giống hình bánh xe. Nếu có kẻ giết cha hại mẹ, nhục mạ người thân, khi chết đi, chó sắt sẽ biến thành 16 chiếc xe có hình dáng như lọng quý. Tất cả tia lửa sẽ biến thành ngọc nữ. Tội nhân trông thấy từ xa, nảy lòng ham thích muốn xông đến. Gió dao vừa lặng, kiếm lạnh vội rít lên: “Thà được lửa ấm, để yên trong xe, nhóm lên ngồi sưởi, dù chết cũng đành!”. Những ngồi lên ngồi trong xe để chiêm ngưỡng ngọc nữ đều bị bắt và bị búa sắt chặt đứt thân mình. Chỉ trong nháy mắt, rơi xuống A tỳ. Từ ngăn trên rơi xuống, nhanh như bánh xe lửa xoay, đã đến ngăn dưới, thân thể đã nằm yên trong ngăn dưới ấy. Chó sắt sủa lớn, nhai xương hút tủy. La sát ngục tốt cầm chĩa sắt lớn đâm vào đầu, bắt phải đứng lên. Toàn thân rực lửa, lan khắp A tỳ. Bấy giờ, vua Diêm La cất tiếng dạy rằng: “Hỡi các tội nhân ngu si ở trong địa ngục, khi còn sống, các người đã bất hiếu với cha mẹ, sai trái kiêu căng, thiếu đạo đức. Nay các người phải sinh xuống chỗ gọi là địa ngục A tỳ. Cứ thế, lần lượt chịu đựng khổ nạn lớn lao, không thể nói hết. Một ngày một đêm chịu tội ở địa ngục dài bằng sáu mươi Tiểu kiếp ở Diêm phù đề. Theo đó, tính lên một đại kiếp. Tạo đủ năm điều ác nghịch, sẽ chịu tội năm kiếp. Còn chúng sinh phạm bốn điều trọng cấm, ngồi ăn không của cải cúng dường, phỉ báng, tà kiến, không biết nhân quả, bỏ ngang học tập Bát nhã, chê bai chư Phật mười phương, ăn cắp vật dụng của tăng già, dâm dật vô đạo, cưỡng hiếp chị em của các Tỳ kheo ni đã giữ gìn giới luật thanh tịnh, làm các việc ác. Như loại người này, khi lâm chung, sẽ chịu quả báo trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp ở địa ngục. Lại phải còn vào trong mười tám ngăn ở phương Đông để chịu tội như trên. Các phương Nam, Bắc, Tây, cũng đều như thế. Thân thể tan nát khắp A tỳ, tứ chi vương vãi khắp mười tám ngăn ây. Địa ngục A tỳ có mười tám địa ngục nhỏ. Trong mỗi địa ngục nhỏ này đều có mười tám địa ngục Giá lạnh, một tám địa ngục Tối tăm, một tám địa ngục Nóng nhỏ, một tám địa ngục Bánh xe dao, một tám địa ngục Bánh xe kiếm, một tám địa ngục Xe lửa, một tám địa ngục Bắn phân nóng, một tám địa ngục Vạc nước sôi, một tám địa ngục Sông tro, năm trăm ức địa ngục Rừng kiếm, năm trăm ức địa ngục Rừng kim, năm trăm ức địa ngục Cột đồng, năm trăm ức địa ngục Máy sắt, năm trăm ức địa ngục Lưới sắt, một tám địa ngục Hang sắt, một tám địa ngục Đạn sắt, một tám địa ngục Đá nhọn, một tám địa ngục Uống đồng. Như thế, trong địa ngục A tỳ lớn cómột tám địa ngục nhỏ. Trong mỗi địa ngục nhỏ lại có riêng mười tám ngăn. Bắt đầu từ Giá lạnh đến Uống đồng. Tổng cộng có 142 ngăn địa ngục. Mỗi chúng sinh đều tạo nghiệp không giống nhau, nhưng khi trải qua các địa ngục này để chịu khổ thì lại như nhau”.

Lại nữa, kinh Khởi Thế nói: “Phật bảo các Tỳ kheo rằng, trong địa ngục A tỳ lớn cũng có mười sáu ngục nhỏ, tạo thành gia quyến bao bọc chung quanh. Mỗi địa ngục này rộng năm trăm do tuần. Các chúng sinh ở đấy, hoặc có kẻ sinh ra, có kẻ ra khỏi, có kẻ đang ở. Do quả báo của nghiệp ác, có kẻ tự nhiên sinh ra. Bọn ngục tốt canh giữ liền dùng hai tay bắt lấy tội nhân, đánh ngã ngửa trên mặt đất bằng sắt đang bốc lửa, rồi hung hăng lập sấp xuống mặt đất và lấy dao bén lột da, rút gân từ mắt cá của chân tay, kéo lên đến đỉnh đầu, thành một sợi liền nhau thấu tận tim, tủy, đau đớn không thể bàn cãi nổi. Sau khi lột gân xong, liền bắt cưỡi xe sắt chạy đi thật nhanh. Xe ấy rất nóng, lửa cháy sáng hừng hực. Trên đường sắt hiểm trở, chỗ nào xe cũng đều chạy qua một cách thành thạo. Cứ thế chạy hoài, theo ý ngục tốt, không hề dừng lại chút nào. Muốn đến phương nào, cũng đều tùy ý của ngục tốt mà chạy lại. Suốt đường đi, ngục tốt giữ chặt tội nhân, không hề buông lơi. Dọc đường, lửa đỏ thiêu đốt tội nhân, thân thể, huyết thịt chẳng còn lại chút nào. Mọi nghiệp ác đã tạo từ thưở xa xưa, khi chưa làm người, tội nhân đều phải gánh chịu. Do ác báo gây nên, từ phương Đông xuất hiện một đống lửa rất lớn, cháy đỏ phừng phừng. Ngọn lửa bốc lên mãnh liệt. Các phương Nam Bắc Tây và trên dưới tứ duy cũng đều như vậy. Những kẻ bị các đống lửa ấy bủa vây, càng lúc càng bị siết gần hơn để chịu khổ nạn. Từ vách phía Đông, xuất hiện ánh lửa lớn phóng thẳng sang vách phía Tây rồi mới dừng lại. Từ vách phía Tây, xuất hiện ánh lửa lớn phóng thẳng sang vách phía Bắc. Từ vách phía Bắc, xuất hiện ánh lửa lớn phóng thẳng vào vách phía Nam, từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, ngang dọc cùng gặp nhau, trên dưới cùng chạm nhau, sức nóng mãnh liệt, tia lửa bay chạm vào nhau. Bấy giờ, bọn ngục tốt bắt các tội nhân đặt vào trong sáu đống lửa lớn ấy, đến nỗi chịu đựng khổ sở vô cùng thống thiết, nhưng tội nhân vẫn chưa chết, vì nghiệp ác của họ chưa trả hết, phải ở trong đó để chịu đựng mọi nỗi đau đớn. Các chúng sinh ở trong địa ngục A tỳ rất lớn này, do quả báo của nghiệp ác, phải trải qua một quãng thời gian dài vô lượng, chịu mọi khổ sở xong rồi, bốn cửa của địa ngục mới mở ra lại. Lúc cửa vừa mở, các tội nhân nghe tiếng cửa mở, liền chạy bổ về đấy và suy nghĩ thế này, hôm nay chúng ta thoát được bọn ngục tốt ở đây rồi! Trong khi chạy gấp gáp rất nhanh như thế, thân thể của họ bỗng nhiên bốc cháy phừng phừng, giống như dũng sĩ cầm bó đuốc cỏ khô chạy ngược chiều gió. Bó đuốc ấy sẽ càng cháy mãnh liệt hơn nữa. Hễ các tội nhân ấy chạy nhanh, thân thể của họ càng bốc cháy mãnh liệt hơn, đến nỗi khi sắp giơ chân lên thì huyết thịt đã cháy tiêu tan, sắp hạ chân xuống thì huyết thịt lại mọc ra. Khi vừa đến cửa ngục, cửa ngục liền đóng lại kín mít. Biết không thể ra được, trong lòng bực tức muộn phiền, bèn ngã sấp xuống đất, bị thiêu đốt khắp da dẻ. Xong đến xác thịt, xong đến xương cốt, cho đến tủy não. Khói lửa ngùn ngụt, ngọn lửa gay gắt. Khói lửa hòa quyện vào nhau, nỗi đau khổ càng thêm bội phần. Tội nhân chịu khổ khắc nghiệt ở bên trong. Do ác nghiệp chưa hết, nên phải gánh chịu tất cả. Trong mọi lúc, tại địa ngục A tỳ rất lớn này không có một khoảnh khắc nào được tạm thời an lạc, dù trong khoảnh khắc một cái búng tay. Cứ thế tội nhân lần lượt chịu đủ mọi nỗi khổ ấy. Phật bảo các Tỳ kheo bằng lời thế này, các ông nên biết rằng trong cõi ấy còn có mười địa ngục khác. Là mười địa ngục nào? Một là địa ngục Át phù đà, hai là địa ngục Nê la phù đà, ba là địa ngục A hô, bốn là địa ngục Hô hô bà, năm là địa ngục A cha cha, sáu là địa ngục Tao kiện đề ca, bảy là địa ngục Ưu bát la, tám là địa ngục Ba đầu ma, chín là địa ngục Bôn trà lê ca, mười là địa ngục Câu mâu đà. Do nhân duyên nào gọi là địa ngục Át phù đà? Vì các chúng sinh ở đấy có thân hình giống như bọt nước, nên gọi là địa ngục Át phù đà. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục Nê la phù đà? Vì các chúng sinh ở đấy có thân hình giống như miếng thịt, nên gọi là địa ngục Nê la phù đà. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục A hô? Vì các chúng sinh ở đấy khi chịu đau đớn hành hạ khắc nghiệt, đã kêu gào lên “Ô hô! Ô hô!, rất là thống thiết, nên gọi là địa ngục A hô. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục Hô hô bà? Vì các chúng sinh ở đấy mỗi khi bị nỗi cực khổ trong địa ngục ấy hành hạ, đã kêu gào lên “Hừ hừ bà! Hừ hừ bà”, nên gọi là địa ngục Hô hô bà. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục A cha cha? Vì các chúng sinh ở đấy bị nỗi khổ cực hành hạ thân thể quá sức, chỉ còn biết kêu rên “A cha cha! A cha cha!”. Nhưng lưỡi tê đơ lại, nên miệng không thể phát thành lời. Vì thế, mới gọi là địa ngục A cha cha. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục Tao kiện đề ca? Vì màu sắc của tia lửa mạnh trong địa ngục có các chúng sinh ấy giống hoa Tao kiện đề ca, nên gọi là địa ngục Tao kiện đề ca. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục Ưu bát la? Vì màu sắc của tia lửa mạnh trong địa ngục có các chúng sinh ấy giống hoa Ưu bát la, nên gọi là địa ngục Ưu bát la. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục Ba đầu ma? Vì màu sắc của tia lửa mạnh trong địa ngục có các chúng sinh ấy giống hoa Ba đầu ma, nên gọi là địa ngục Ba đầu ma. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục Bôn trà lê ca? Vì màu sắc của tia lửa mạnh trong địa ngục có các chúng sinh ấy giống hoa Bôn trà lê ca, nên gọi là địa ngục Bôn trà lê ca. Lại do nhân duyên nào gọi là địa ngục Câu mâu đà? Vì màu sắc của tia lửa mạnh trong địa ngục có các chúng sinh ấy giống hoa Câu mâu đà, nên gọi là địa ngục Câu mâu đà”.

Lại nữa, kinh Tam Pháp Độ Luận nói: “Địa ngục có ba loại: một là địa ngục nóng, hai là địa ngục Lạnh, ba là địa ngục Phụ.

Thứ nhất là địa ngục Nóng, theo Bộ Tát bà đa, có tám địa ngục lớn: một gọi là địa ngục Cùng sống, còn gọi là Sống lại. Hoặc ngục tốt kêu cho sống lại, hoặc gió lạnh thổi cho sống lại. Hai nguyên nhân tuy khác nhau, nhưng làm cho sống lại thì cũng là một như nhau, nên gọi là địa ngục Sống lại. Hai gọi là địa ngục Dây thừng đen. Trước tiên, lấy dây thừng cột lại, sau đó lấy búa chặt đứt. Ba gọi là địa ngục Cùng khép, cũng gọi là Cùng ép. Hai ngọn núi cùng khép lại phía dưới để cùng ép tội nhân. Bốn gọi là địa ngục Hô hô, cũng gọi là địa ngục Kêu gào. Ngục tốt đuổi theo ráo riết, tội nhân kêu gào “hô hô” mà chạy. Năm gọi là địa ngục Kêu lớn hay cũng gọi là địa ngục Kêu gào lớn. Do bốn ngọn núi nổi lửa, muốn thoát ra ngoài nhưng không có đường chạy trốn, nên gọi là địa ngục Kêu gào lớn. Sáu gọi là địa ngục Nóng, cũng gọi là Thui nướng. Do lửa cháy, vách sách cận kề, phải ở bên trong chịu nóng. Bảy gọi là địa ngục Nóng nhiều, cũng gọi là Thui nướng lớn. Do lửa nhiều, núi cùng nhau cháy lên, thui nướng tội nhân. Tám gọi là địa ngục Không chọn lựa, cũng gọi là Vô gián. Một lần bị ném vào lửa nóng, vĩnh viễn không bao giờ có được phút giây an lạc. Đã chịu khổ không ngừng, còn chọn lựa gì được! tám địa ngục lớn này ở tại châu Diêm phù đề, có thành lũy chập chùng bao phủ”. Theo luận Tam Pháp Độ nói: “hai địa ngục đầu có người điều khiển. ba địa ngục kế tiếp ít người điều khiển. ba địa ngục theo sau không có người điều khiển. Nhưng tám địa ngục này là chính. Mỗi một địa ngục đều có mười sáu ngục phụ vây quanh. Một mặt có bốn địa ngục phụ. Bốn lần bốn gộp lại, tổng cộng có mười sáu ngục phụ, cộng với địa ngục chính là mười bảy địa ngục. Tám lần mười bảy gộp lại là một trăm ba mươi sáu địa ngục.

Tội nhân ở trong đó chịu đau khổ thảm thương”.

Thứ hai là địa ngục Lạnh, cũng có tám địa ngục: một là địa ngục Át phù đa. Do rét lạnh ghê gớm cắt da thịt, sinh ra nhọt bỏng. Hai gọi là địa ngục Nê lại phù đà. Do gió lạnh hổi, khắp thân mình sinh ra nhọt bỏng. Ba gọi là địa ngục A cha cha. Do môi không mấp máy được, chỉ còn lưỡi uốn éo mà thôi, nên phát ra tiếng này. Bốn gọi là địa ngục A ba ba. Do lưỡi không uốn éo được, chỉ còn môi mấp máy mà thôi, nên phát ra tiếng này. Năm gọi là địa ngục Đằng hắng. Do môi và lưỡi không mấp máy, uốn éo được, chỉ còn hơi phát ra trong cổ họng, nên thành ra âm thanh này. Sáu gọi là địa ngục Uất ba la. Đây là tên hoa sen xanh, loại sen này lá nhỏ. Do màu thịt rách sơ giống sắc của hoa này nở ra theo hướng mặt trời. Bảy gọi là địa ngục Ba đầu ma. Đây là tên hoa sen đỏ. Do màu thịt rách nhiều giống sắc của hoa này nở. Tám gọi là địa ngục Phân đà lợi. Đây là tên hoa sen trắng. Do màu xương bể ra giống sắc của hoa này nở. Hai địa ngục đầu theo hình tướng để đặt tên. Ba địa ngục kế tiếp theo âm thanh để đặt tên. Ba địa ngục sau cùng theo vết thương để đặt tên. Thế nên, luận Câu Xá nói: “Trong tám địa ngục này, chúng sinh bị cơn lạnh cùng cực hành hạ. Do thân thể, âm thanh và vết thương biến đổi khác nhau, nên mới đặt tên các danh từ này”. Theo luận Tam Pháp Độ nói: “Hai địa ngục đầu có thể kêu lên được. bốn địa ngục kế tiếp không thể kêu lên được nữa. ba địa ngục tiếp theo không hề kêu lên. tám địa ngục này ở dưới châu lớn, đụng đáy núi Thiết Vi, có vị trí hướng lên. Trong đó các tội nhân chịu đựng khổ sở vì giá lạnh”.

Thứ ba là địa ngục Phụ. Theo luận Tam Pháp Độ thì cũng có ba loại: một là tại núi non, hai là tại sông nước, ba là tại đồng không. Do chịu nghiệp báo khác nhau, nên phải bị nóng lạnh lẫn lộn. Nếu bàn về tuổi thọ, sẽ có số ngắn dài.

Lại nữa, luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Đức Thế tôn bảo, có địa ngục lớn tên là Tối tăm, ở phía ngoài cửa các quốc độ đều có. Địa ngục này không có mái che. Tội nhân ở bên trong tự đưa tay ra, nhưng mắt vẫn không nhìn thấy. Lại nữa, dù mặt trời mặt trăng có đủ thần lực phát ra tất cả ánh sáng, nhưng cũng không chiếu tỏ được sắc tướng của địa ngục ấy. Khi có chư Phật ra đời, hào quang chiếu diệu khắp nơi. Nhờ ánh hào quang chiếu diệu này, tội nhân mới trông thấy nhau. Ở phía ngoài, giữa hai ngọn núi Thiết Vi, gọi là cõi ngoài, là địa ngục Giá lạnh. Có mười địa ngục khác nhau. Từ địa ngục thứ nhất là Át phù đa đến địa ngục thứ mười là Ba đầu ma. Trong địa ngục Tối tăm ấy, chúng sinh đi ngang, biết suy niệm hướng thiện, có thân hình lớn bằng con thằn lằn.

Trong địa ngục Giá lạnh ở cõi ngoài này, chúng sinh cũng đi ngang, lớn bằng con Át đa. Nhân gió lạnh thổi chạm vào mình, thân hình của chúng sẽ vỡ toang ra giống trái dưa chín. Như đi giữa rừng lau lách bị ngọn lửa lớn đốt cháy, phát ra tiếng nổ chát chát, các chúng sinh ở địa ngục Giá lạnh này cũng thế, bị gió lạnh thổi chạm vào mình, xương vỡ nát tan, phát ra tiếng nổ chát chát. Nhờ âm thanh này, mọi chúng sinh cùng nhận biết ra nhau. Có chúng sinh sinh vào địa ngục Giá lạnh này. Nếu trong địa ngục này có chúng sinh mệnh chung, phần đông sẽ sinh vào địa ngục Tối tăm ấy. Nếu chúng sinh ở các địa ngục khác chết đi, phải sinh vào địa ngục Giá lạnh này, nằm ở phía ngoài, giữa hai ngọn núi Thiết Vi. Giữa hai ngọn núi ấy, chỗ hẹp nhất là tám vạn do tuần. Phía dưới không có đáy. Phía trên không có mái che. Chỗ rộng nhất đo được một ngàn sáu vạn do tuần”.

Thứ tư: PHẦN THỜI LƯỢNG

Theo kinh Khởi Thế nói: “Phật bảo, như lấy hộc của nước Kiều Tát La đem đong mè đầy hai mươi hộc, vun cao không gạt. Có một người đàn ông, đủ một trăm năm liệng bớt 1 hột mè. Lần lượt như thế, đủ một trăm năm lại lấy bớt một hột liệng sang chỗ khác. Đến khi liệng hết hai mươi hộc mè đong vun ấy, nhưng thì lượng của thọ mạng mà ta nói, vẫn chưa hết. Lại nữa, lấy thì lượng này để tính đại khái, thì hai mươi thọ mạng ở địa ngục Át phù đa bằng một thọ mạng ở địa ngục Nê la phù đà. hai mươi thọ mạng ở địa ngục Nê la phù đà bằng một thọ mạng ở địa ngục A hô. hai mươi thọ mạng ở địa ngục A hô bằng một thọ mạng ở địa ngục Hô hô bà. hai mươi thọ mạng ở địa ngục Hô hô bà bằng một thọ mạng ở địa ngục A cha cha. hai mươi thọ mạng ở địa ngục A cha cha bằng một thọ mạng ở địa ngục Tao kiện đề ca. hai mươi thọ mạng ở địa ngục Tao kiện đề ca bằng một thọ mạng ở địa ngục Ưu bát la. hai mươi thọ mạng ở địa ngục Ưu bát la bằng một thọ mạng ở địa ngục Câu mâu đà. hai mươi thọ mạng ở địa ngục Câu mâu đà bằng một thọ mạng ở địa ngục Bôn trà lê ca. hai mươi thọ mạng ở địa ngục Bôn trà lê ca bằng một thọ mạng ở địa ngục Ba đầu ma. hai mươi thọ mạng ở địa ngục Ba đầu ma bằng một trung kiếp”.

Lại nữa, kinh Na Tiên Tỳ kheo Vấn Phật nói: “Như lửa của thế gian không nóng bằng lửa trong địa ngục. Nếu cầm viên đá cuội bỏ vào trong lửa thế gian đến chiều, viên đá cuội vẫn không tiêu. Nếu mang lấy tảng đá lớn bỏ vào lửa trong địa ngục, tảng đá lớn sẽ lập tức tiêu tan. Thế nhưng có người làm ác, khi chết đọa vào địa ngục mấy vạn năm, người ấy vẫn không chết. Còn như loài mãng xà, giao long lớn nuốt lấy đá lớn thì tiêu. Thế nhưng loài người có thai trong bụng thành con thì lại không tiêu. Điều ấy do nghiệp lực thiện ác khiến cho tiêu và không tiêu cả. Như hành vi thiện ác do con người làm ra, sẽ theo con người như bóng theo hình. Con người khi chết, chỉ mất thân xác, nhưng không mất hành vi đã làm. Giống như ban đêm đốt đèn ngồi viết chữ, đèn tắt nhưng chữ vẫn còn. Có đèn, sau mới có chữ. Cũng thế, hành vi tạo tác hôm nay, đời sau sẽ thành tựu đủ. Lại như ánh lửa cháy phừng phừng trong địa ngục Bát đầu ma, tội nhân đứng cách xa ngọn lửa này một trăm do tuần, lửa đã thui nướng. Nếu đứng cách xa sáu mươi do tuần, hai tai của tội nhân đã điếc, không nghe được gì. Nếu đứng cách xa năm mươi do tuần, hai mắt của tội nhân đã mù, không thấy được gì nữa. Vì Tỳ kheo Cù Ba Lợi đã nuôi ác tâm phỉ báng Xá lợi tử và Mục kiền liên, nên khi thân nát mệnh chung, liền bị đọa vào địa ngục Bát đầu ma này”. Lại như kinh Khởi Thế nói: “Nếu các chúng sinh đứng cách xa vị trí của địa ngục Ba đầu ma một trăm do tuần, liền bị ánh lửa của địa ngục ấy lan đến. Nếu các chúng sinh đứng cách xa năm mươi do tuần, thì liền bị ánh lửa ấy hun đốt, làm cho mù mắt. Nếu các chúng sinh đứng cách xa hai mươi lăm do tuần, thì huyết thịt của bọn họ đều bị cháy nát. Còn như các người xuất gia tu hành Phạm hạnh, do sinh tâm ô trọc không ngay chính, do sinh tâm gây phiền não, do sinh tâm độc ác, do sinh tâm không làm lợi ích, do không có từ tâm, do không có tâm thanh tịnh nên phải chịu lấy tai ương. Thế nên, đối với các người xuất gia tu hành Phạm hạnh, đã tạo nên các nghiệp thiện về thân, khẩu, ý thì thường được hưởng an lạc tự tại. Bấy giờ đức Thế tôn nói kệ rằng: “Những người thế gian khi còn sống, Đầu lưỡi tự nhiên sinh búa rìu. Nghĩa là miệng nói các điều ác, Vẫn là tự hại bản thân thôi.

Người đáng khen thì không chịu khen, Người không đáng khen lại đem khen.

Như thế, gọi là cãi trong miệng, Vì cãi trong miệng nên không vui. Nếu người đánh cờ ăn tiền của, Gọi là cãi nhỏ trong thế gian. Với người tu hành nổi lòng xấu, Như thế là cãi lớn trong miệng.

Sẽ đọa ba mươi sáu muôn kiếp,

Trong địa ngục Nê la phù đa, Năm kiếp trong địa ngục Át phù đà, Rồi đọa vào địa ngục Ba đầu ma. Phỉ báng Thánh nhân nên phải thế, Do nghiệp khẩu ý làm điều ác”.

Thứ năm: PHẦN ĐIỂN CHỦ

Như các kinh Vấn Địa Ngục và Tịnh Độ Tam Muội nói: “Tổng quát, địa ngục có một trăm ba mươi bốn chỗ. Trước tiên, thuật tên và chỗ cư trú của chúa tể địa ngục. Vua Diêm La ngày xưa là quốc vương Tỳ sa cùng với vua Duy Đà Thủy Sinh giao chiến, binh lực yếu hơn, nên lập lời thề cầu nguyện làm chúa tể địa ngục. Có mười sáu vị tướng tá thống lãnh hàng trăm vạn quân sĩ, đầu mọc sừng, hai tai vểnh lên vì giận dữ, cùng lập lời thề, sau này sẽ xin kính giúp nhà vua trừng trị tội nhân ấy. Quốc vương Tỳ Sa chính là vua Diêm La hiện nay. Mười tám vị đại thần là các tiểu vương ngày nay. Trăm vạn quân lính là bọn ngục tốt vậy”. Lại nữa, kinh Trường A hàm nói: “Phía Nam châu Diêm phù đề có núi Kim cương, trong đó có cung điện của vua Diêm La, ngang dọc rộng sáu ngàn do tuần (kinh Vấn Địa Ngục nói, thành trì ở địa ngục ngang dọc rộng ba vạn dặm, do vàng bạc tạo thành). Mỗi ngày đêm, vào lúc canh ba, có vạc đồng tự nhiên xuất hiện trước điện. Nếu vạc đồng chạy vào trong cung, nhà vua đâm ra sợ hãi, bỏ chạy ra ngoài cung. Nếu vạc đồng chạy ra ngoài cung, nhà vua bỏ chạy vào trong cung. Có tên ngục tốt cao lớn bắt nhà vua nằm trên sắt nóng, lấy móc sắt móc miệng, rót đồng chảy vào, từ yết hầu lọt xuống, tất cả đều cháy tan. Xong xuôi, nhà vua lại cùng các thể nữ vui chơi. Các vị đại thần cũng đều được hưởng phước báo như thế”. Kinh Vấn Địa Ngục nói: “mười tám vị tiểu vương cai quản một tám địa ngục là: Một Ca diên trông coi địa ngục, hai Khuất tuân trong coi núi dao, 3. Phất tiến thọ trông coi cát nóng bắn ra.

4. Phân bắn trông coi phân bắn. 5. Ca thế trông coi địa ngục Hắc nhĩ. 6. Khái tra trông coi xe lửa. 7. Thang vị trông coi vạc nước sôi. 8. Thiết ca nhiên trông coi giường sắt. 9. Ác sinh trông coi núi ép. 10. trông coi địa ngục Giá lạnh. 11. Tỳ ca trông coi lột da. 12. Diên đầu trông coi súc sinh. 13. Đề bạc trông coi chiến tranh. 14. Di đại trông coi cối mài. 15. Duyệt đầu trông coi địa ngục Nước. 16. trông coi rào sắt. 17. Danh thân trông coi dòi bọ. 18. Quan thân trông coi đồng sôi”.

Lại nữa, kinh Tịnh Độ Tam Muội nói: “Lại có ba mươi địa ngục, mỗi địa ngục đều có người trông coi. Không cần kể rõ, chỉ ghi tên năm chức quan: 1/ Tiên quan cấm sát sinh. 2/ Thủy quan cấm trộm cướp. 3/ Thiết quan cấm tà dâm. 4/ Thổ quan cấm nói hai lưỡi. 5/ Thiên quan cấm uống rượu”. Kinh Vấn Địa Ngục nói: “Các địa ngục sắp hàng tại bốn phía Đông Tây Nam Bắc của thành vua Diêm La. Tuy có ánh sáng của mặt trời mặt trăng nhưng không chiếu rõ. Riêng địa ngục Hắc nhĩ ánh sáng không chiếu đến. Khi người chết, sinh vào Trung ấm. Trung ấm nghĩa là đã bỏ Tử âm, chưa đến Sinh âm. Các tội nhân ở đấy nương theo Trung ấm đi vào thành Nê lê. Thành Nê lê là chỗ tội nhân cùng nhau tập hợp trước thời gian chịu tội (đời Lương dịch là thành Mật ước hay còn gọi là thành Đóng cửa). Cơn gió tài tình thổi qua, tùy theo nghiệp nặng nhẹ, các người chết thọ lãnh thân hình lớn nhỏ khác nhau. Cơn gió thối thổi qua, tạo thành thân hình thô xấu dành cho tội nhân. Cơn gió thơm thổi qua, tạo thành thân hình nhỏ bé dành cho người có phước đức”.

Thứ sáu: PHẦN VƯƠNG ĐÔ

Như kinh Khởi Thế nói: “Ở phía ngoài hai ngọn núi Thiết Vi thuộc phía Nam châu Diêm phù đề có cung điện của vua Diêm Ma, ngang dọc đều bằng nhau, rộng sáu ngàn do tuần. Có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới gắn lục lạc. Phía ngoài có bảy lớp hàng cây Đa la bao bọc chung quanh. Có nhiều màu sắc rực rỡ đáng xem do bảy loại châu báu tạo thành. Tại bốn phía đều có cửa lớn. Mỗi cửa đều có lầu canh giặc. Đền đài cung điện, vườn tược ao hồ có đủ loại hoa thơm quả ngọt đẹp đẽ. Gió thoảng mùi hương, chim chóc hót ca. Nhà vua vì nghiệp ác phải chịu quả báo không lành, nên vào lúc canh ba của mỗi ngày đêm, tự nhiên có nước đồng nấu sôi đỏ rực hiện ra ở trước mắt. Cung điện của nhà vua liền biến thành sắt xám. Công đức ngũ dục cũng biến mất, không hiện ra. Nhà vua thấy xong, sợ hãi thất thần, lông tóc đều dựng đứng, phải bỏ chạy ra ngoài. Nếu nước đồng sôi hiện ra ở phía ngoài, nhà vua phải bỏ chạy vào cung. Bấy giờ, có ngục tốt canh cửa bắt lấy vua Diêm ma, giơ lên cao, rồi đánh nằm xuống trên mặt đất sắt nóng hổi. Mặt đất ấy phừng phừng rực lên ánh lửa vô cùng mãnh liệt. Sau khi ngục tốt đã đánh nhà vua nằm ngã xuống, bèn lấy kềm sắt banh miệng rộng ra, rót nước đồng sôi vào miệng. Bấy giờ, vua Diêm Ma bị thiêu cháy miệng mồm. Kế đó cháy lưỡi, sau đó cháy cổ họng, rồi cháy cả ruột non ruột già. Lần lượt thiêu cháy tất cả, liền thoát ra ngoài. Bấy giờ, nhà vua ấy suy nghĩ thế này: “Tất cả chúng sinh, do thời tiền kiếp, thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ đều ác và các chúng sinh khác cùng tạo nghiệp ác, đều phải chịu nỗi khổ này. Ta nguyện từ nay, sau khi từ bỏ xác thân này, có lại thân khác, được sinh làm người trên chốn nhân gian. Đối với chánh pháp của Như Lai, phải có lòng tin hiểu. Cạo bỏ tóc râu, mặc áo cà sa, đạt đến tin hiểu chân chính. Từ nhà xuất gia, sau khi đã xuất gia, cầu chứng được đạo. Sinh tử đã hết, Phạm hạnh đã thành. Chuyện cần phải làm, đều đã làm xong. Sẽ không còn thọ sinh lại vào kiếp sau nữa. Khi vừa phát ra những ý nghĩ tốt lành được huân tập đến mức ấy, lập tức cung điện đang ở biến thành thất bảo giống như của chư Thiên. Công đức ngũ dục xuất hiện đầy đủ. Nhờ ba nghiệp thiện, thân tâm của nhà vua ấy liền được an lạc tự tại”.

Lại nữa, luận Bà sa có câu hỏi: “Các ngục tốt ở địa ngục là số chúng sinh thật sự hay không phải là số chúng sinh thật sự?”. Đáp: “Nếu những ngục tốt dùng khóa sắt trói cột chúng sinh vừa ra đời ở địa ngục, rồi giải đến trước chỗ vua Diêm Ma thì đúng là số chúng sinh thật sự. Nếu những ngục tốt dùng các loại khổ cụ ở địa ngục để làm hại chúng sinh thì không phải là số chúng sinh thật sự”. Dưới châu Thiệm Bộ có địa ngục lớn. Trên châu Thiệm Bộ cũng có địa ngục phụ và địa ngục độc lập. Hoặc ở trong hang, hoặc ở trên núi, hoặc ở giữa đồng không, hoặc ở giữa không trung. Trong ba châu khác, chỉ có địa ngục phụ và địa ngục độc lập, không có địa ngục lớn. Tại sao lại như thế? Đáp: “Bởi vì chỉ có người ở châu Thiệm Bộ làm thiện mạnh mẽ, làm ác cũng mãnh mẽ. Các châu khác đều không như thế”. Có người nói: “Châu Bắc Câu lô cũng không có địa ngục phụ, vì ở đó là nơi đã hưởng được nghiệp quả thuần khiết”.

Hỏi: Các châu khác đều không có địa ngục lớn. Nếu có các chúng sinh ở đấy tạo các nghiệp ác vô gián, mất sạch thiện căn thì phải chịu quả báo dị thục ở chỗ nào?.

Đáp: Thì phải chịu quả báo ấy ở địa ngục lớn ngay tại phía dưới châu Thiệm Bộ”.

Hỏi: Hình dáng của chúng sinh ở địa ngục ra sao?.

Đáp: Hình dáng giống người.

Hỏi: Tiếng nói ra sao?.

Đáp: Khi mới sinh ra đều nói tiếng Thánh. Về sau, do chịu khổ nạn, dù phát ra đủ loại âm thanh thống khổ, nhưng không còn một tiếng nói nào có thể hiểu được. Chỉ có những tiếng búa chặt, kim đâm, tay xé da thịt mà thôi!”.

Thứ bảy: PHẦN NGHIỆP NHÂN

Như kinh Thập Luận nói: “Có năm tội nghịch được xem là ác

nhất. Là năm tội nghịch gì? Ấy là cố tâm giết cha mẹ, A la hán, phá hoại Thanh văn, phá hoại sự hòa thuận của tăng già, cho đến có ác tâm làm thân Phật đổ máu. Những tội này gọi là năm tội nghịch. Nếu có người nào làm một trong năm loại tội nói trên thì không được phép xuất gia, thọ giới cụ túc. Nếu cho phép xuất gia thì phạm tội nặng, cần phải đuổi đi. Nếu đã xuất gia, có đầy đủ các uy nghi pháp phục, thì không được đánh đập, trói giam. Lại có bốn tội lớn, ngang hàng với bốn tội nghịch căn bản. Là bốn tội gì? Ấy là giết Bích Chi Phật, gọi là tội sát sinh căn bản. Dâm dục với A la hán, Tỳ kheo ni, gọi là tội tà dâm căn bản. Nếu có người đem tiền của cúng dường Phật pháp tăng, quản lý tiền của ấy rồi tiêu xài riêng, gọi là tội ăn cắp căn bản. Nếu có người nào kiến chấp đảo điên, phá hoại các Tỳ kheo, ấy là tội phá tăng căn bản. Nếu có người phạm một trong bốn tội căn bản ấy, đều không được cho phép xuất gia theo Phật pháp. Nếu đã xuất gia, thì không được thọ giới cụ túc. Nếu đã lỡ thọ giới cụ túc, phải đuổi đi. Vì đã có đủ uy nghi pháp phục, không nên đánh đập, trói giam, giết chết. Như thế đều gọi là tội căn bản, chứ không phải là tội nghịch. Có trường hợp tội căn bản cũng là tội nghịch. Có trường hợp là tội nghịch, chứ không phải là tội căn bản. Có trường hợp không phải là tội nghịch, cũng không phải là tội căn bản.

Sao gọi là tội nghịch, đồng thời cũng là tội căn bản? Như có người nào xuất gia, đã thọ giới cụ túc, đã thấy được Chân đế, lại đem giết mất. Như thế gọi là tội nghịch, đồng thời cũng là tội căn bản. Đối với hạng người này, xét theo giới luật của ta, cần phải đuổi đi.

Sao gọi là tội căn bản, chứ không phải là tội nghịch? Nếu có người xuất gia theo Chánh pháp của ta, lại cố ý giết hại các chúng sinh vô tội, hoặc dùng thuốc độc, làm cho họ sẩy thai. Như thế, gọi là phạm tội căn bản, chứ không phải là tội nghịch. Nếu có đồ ăn uống, tọa cụ của chư tăng ở bốn phương, đều không đem san sẻ cùng cho hưởng dụng. Nếu có chúng sinh nào đem lòng nghi ngờ Phật pháp tăng, thấy có người xuất gia, thậm chí thấy kẻ khác đọc tụng, lại cản trở làm khó, dù chỉ một câu kệ. Đấy không phải là tội căn bản, cũng không phải là tội ng hịch, chính là tội rất ác, gần với tội nghịch. Như hạng chúng sinh này, nếu không chịu sám hối, chừa bỏ tội căn, thì cuối cùng cũng không thể cho phép xuất gia theo Phật pháp. Nếu đã xuất gia, thọ giới cụ túc, lại không chịu sám hối tội lỗi thì cũng phải đuổi đi. Tại sao thế? Vì không tin chánh pháp, phỉ báng Tam thừa, phá hoại mắt chánh pháp, muốn tắt đèn pháp, cắt đứt hạt giống tam bảo, tổn hại nhân thiên, đã không được lợi ích gì, sẽ còn bị đọa vào đường ác. Hai loại người này, gọi là hủy hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh hiền, sẽ chịu đọa đày thêm nhiều kiếp ở địa ngục. Những loại nghiệp ác như thế gọi là đại trọng tội căn bản. Sao gọi là tội không uy nghi căn bản? Nếu có Tỳ kheo nào cố ý dâm dục, cố ý sát sinh, trộm cắp, cố ý nói dối, nếu phạm bất kỳ mộ tội nào trong bốn tội căn bản này, thì không được phép tham dự vào mọi tăng sự của các Tỳ kheo, không được san sẻ thọ dụng đồ ăn uống, chăn đệm của chư tăng bốn phương. Tuy nhiên, nhà vua, các vị đại thần và tất cả quan lại không nên đánh đập, trói giam, dùng hình phạt, thậm chí giết chết. Như thế, gọi là thể tính tướng của tội căn bản . Sao gọi là tội trọng căn bản? Nếu có người làm nên hành vi như thế, hành vi này là căn bản ác đạo. Do đó, gọi là tội trọng căn bản. Giống như viên đạn sắt, tuy ném giữa không trung, không hề tạm dừng, lại mau mau rơi xuống đất. Cũng thế, đối với năm tội nghịch, bốn tội trọng cấm và hai loại tội chúng sinh hủy hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh hiền, trong mười mộtloại tội này, nếu người nào phạm bất cứ một tội, khi chết đi, sẽ bị đọa vào địa ngục A tỳ”.

Lại như kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Khổ sở ở địa ngục A tỳ nhiều hơn nghìn lần so với bảy địa ngục lớn ở trước. Sống qua một kiếp ở đấy, thân hình lớn năm trăm do tuần. Người nào tạo bốn tội nghịch, lớn bốn trăm do tuần. Người nào tạo hai tội nghịch, lớn hai trăm do tuần. Người nào tạo một tội nghịch, lớn một trăm do tuần. Người tạo năm tội nghịch ấy, khi sắp lâm chung, kêu gào hoảng loạn, cổ họng kéo đàm. Cứ thế chết đi, trung hữu sắc sinh ra, không thấy nghiệp báo của mình. Thân thể lớn bằng đưa trẻ lên tám. Vua Diêm La đốt cháy dây sắt, siết chặt cổ họng, rồi trói hai tay, dốc ngược đầu xuống, kéo ngược chân lên. Trải qua hai ngàn năm phải đi dốc ngược đầu xuống. Tóc tai bị đốt cháy nhiều. Trước hết, đốt cháy đầu, sau đó đốt cháy mình. Chư Thiên ở cõi lục dục ngửi phải mùi hôi trong địa ngục A tỳ ấy xông lên, lập tức tiêu tan. Tại sao thế? Vì tội nhân ở địa ngục A tỳ cực kỳ hôi hám”.

Lại nữa, kinh Quán Phật Tam Muội Hải nói: “Phật bảo A Nan, nếu có chúng sinh nào giết cha hại mẹ, nhục mạ người thân, làm những tội ấy, đến lúc mệnh chung, trong khoảng nhấp nháy, nhanh như lực sĩ duỗi tay, sẽ bị rơi tuốt xuống địa ngục A tỳ, vua Diêm La hóa thân, cất cao tiếng dạy bảo: “Hỡi các tội nhân ngu si trong địa ngục! Khi bọn ngươi còn sống trên thế gian, đã bất hiếu với cha mẹ, sai trái, kiêu căng vô đạo, nên ngày nay bọn các ngươi phải sinh vào chỗ gọi là địa ngục A tỳ”. Nói xong lời này, liền biến mất không thấy nữa. Bấy giờ, ngục tốt lại xô đẩy tội nhân đi từ ngăn dưới lên đến ngăn trên, trải qua khắp tám vạn bốn nghìn ngăn, chen chúc nhau đi, đến mép lưới sắt. Trong một ngày đêm, thì đã đi trọn một vòng địa ngục A tỳ. Một ngày một đêm ở đấy, nếu đem so sánh với thời lượng ở châu Diêm phù đề này, đã trải qua sáu mươi Tiểu kiếp. Cứ thế, thọ mệnh ở đây hết một đại kiếp. Người nào làm đủ năm tội nghịch, sẽ chịu tội đủ năm kiếp. Lại có chúng sinh phạm bốn tội trọng cấm, ăn không của cải do tín chủ cúng dường, phỉ báng, tà kiến, không biết nhân quả, bỏ ngang học tập Bát nhã, hủy báng chư Phật mười phương, ăn cắp tiền của của tăng già, dâm dật vô đạo, cưỡng hiếp chị em, bà con của các Tỳ kheo ni đã giữ giới thanh tịnh, không biết xấu hổ xâm phạm tình dục người thân, gây chuyện xấu xa ấy. Quả báo của loài người này, đến khi mệnh chung, sẽ bị gió dao xẻ xác, trong một giây lát, thân như hoa sắt, bay đầy khắp mười tám ngăn. Mỗi một hoa sắt có tám vạn bốn ngàn ngọn lá. Đầu mỗi ngọn lá có thân thể chân tay, bay vào trong mỗi một ngăn. Địa ngục không lớn, thân cũng không nhỏ. Cứ thế, thân xác rơi đầy trong địa ngục lớn. Trải qua tám vạn 4 nghìn đại kiếp, khi địa ngục này hủy diệt, tội nhân lại bị di chuyển vào trong mười tám ngăn ở phương Đông, tiếp tục chịu khổ như trước. Rồi lại trải qua mười tám ngăn ở các phương Tây Nam Bắc của địa ngục A tỳ này. Phỉ báng kinh điển Đại thừa, tạo đủ năm tội ng hịch, phá hoại Tăng kỳ, cưỡng hiếp Tỳ kheo ni, cắt đứt thiện căn. Như loại tội phạm này, tạo đủ các tội ác ấy, thân thể sẽ vung vãi khắp địa ngục A tỳ, chân tay rải rác đầy cả mười tám ngăn. Địa ngục A tỳ này chỉ thiêu đốt các tội nhân ở trong địa ngục này mà thôi. Khi sắp hết kiếp, cửa Đông lập tức mở ra. Thấy ngoài cửa suối chảy róc rách, hoa quả rừng cây đều có đủ, các tội nhân trong này liền kéo nhau từ ngăn dưới chạy lên đến ngăn trên, tay giương bánh xe dao. Bấy giờ, giữa hư không bỗng đổ xuống cơn mưa đạn sắt nóng hổi. Tội nhân lũ lượt chạy đến cửa Đông, vừa chạm ngạch cửa, bọn ngục tốt cầm chĩa sắt đâm bừa vào mắt. Chó sắt xé xác móc tim, bọn tội nhân đau đớn, đứt hơi mà chết. Chết xong, sống lại. Lại thấy cửa Nam mở ra, quang cảnh cũng y như trước, không khác chút nào. Lần lượt, các cửa Tây, cửa Bắc cũng đều xảy ra như thế. Trong khoảng thời gian ấy, đã trải qua nữa kiếp. Tội nhân chết ở địa ngục A tỳ xong, sinh vào địa ngục Giá lạnh. Ở địa ngục Giá lạnh chết xong, lại sinh vào địa ngục Tối tăm. Suốt 8 nghìn vạn năm, hai mắt chẳng thấy được gì, chịu làm thân trăn lớn, uốn éo bụng bò đi. Các Tình đều tối tăm bế tắc, chẳng hiểu được gì, bị trăm ngàn sói chồn lôi kéo ăn thịt. Sau khi chết xong, sinh vào đường súc sinh. Trải qua năm ngàn vạn kiếp phải mang thân chim chóc thú vật, rồi mới được làm người. Điếc mù ấm ớ, cùi hủi ung thư, nghèo nàn đê tiện. Tất cả những hình tướng suy yếu hao gầy đều mang đủ trên thân như đồ trang sức. Chịu thân thế nghèo hèn như thế suốt năm trăm kiếp, sau đó lại còn sinh vào trong đường ngạ quỷ. Trong đường ngạ quỷ, may gặp được các bậc đại Bồ tát thiện tri thức trách cứ giúp rằng: “Vào vô lượng kiếp trước, tiền thân của nhà ngươi đã từng gây nên vô hạn tội lỗi, phỉ báng không tin Phật pháp, bị đọa vào địa ngục A tỳ, chịu đủ mọi điều khổ sở. Hôm nay, nhà ngươi nên mở lòng từ bi. Lúc ấy, bọn ngạ quỷ nghe lời này xong, liền niệm nam mô Phật, ca tụng uy lực vô biên của Phật. Liền đó mệnh chung, sinh vào Trời Tứ thiên vương. Sau khi đã được sinh vào cõi Trời ấy, ăn năn hối lỗi, phát tâm Bồ đề. Chư Phật quang minh, không nỡ bỏ chúng, liền nhiếp thọ giùm cho, như đối với La hầu la, dạy cho tránh xa địa ngục. Khéo tự giữ gìn, như yêu chính tai mắt”. Thế nên, trong kinh Khởi Thế, đức Thế tôn có nói bài kệ rằng:

“Nếu người, thân khẩu ý tạo nghiệp, Tạo xong, đi vào trong đường ác. Như thế, phải sinh vào ngục Sống lại, Kinh hãi đến nỗi lông dựng đứng. Trải qua vô số muôn ngàn kiếp,

Chết xong, giây lát vụt sống dậy, Oán thù nhất nhất đều báo đủ.

Do đó, chúng sinh lại giết nhau. Nếu nổi ác tâm với cha mẹ,

Hoặc Phật, Bồ tát và Thanh văn, Loại này đều đọa ngục Dây đen, Ở đó, chịu khổ hết sức nóng.

Dạy người làm phải, nên làm trái,

Thấy người hướng thiện, quyết phá hoại. Loại này cũng đọa ngục Dây đen. Hai lưỡi, chửi mắng, nói dối nhiều,

Thích làm ba loại ngiệp ác nặng,

Không tu ba loại mầm thiện căn, Bọn ngu si này sẽ bị đọa,

Vào trong địa ngục lớn Cùng ép. Hoặc giết dê ngựa và trâu bò,

Các loại gia súc như gà heo,

Và giết các loại kiến mối khác,

Bọn ấy phải vào ngục Đè ép. Thế gian có nhiều cách khủng bố, Đem ra hành hạ các chúng sinh. Phải đọa vào trong ngục Đá mài, Chịa đựng xay giã, đè mài đau. Vì tật tham dâm ngu giận nặng, Quay về chân lý lại cản ngăn.

Làm sai, phán đúng, bẻ pháp luật.

Kẻ ấy sẽ bị do kiếm đâm. Ỷ thị cường quyền cướp kẻ khác, Già trẻ lớn bé đều bóc lột. Nếu làm những chuyện bức xúc này, Sẽ bị voi sắt giày xéo nát! Nếu thích giết hại các chúng sinh, Chân tay vấy máu, lòng đanh ác. Thường gây những nghiệp dữ như thế, Loại ấy phải đọa ngục Kêu gào. Hành hạ chúng sinh đủ mọi cách, Nên bị đốt ở ngục Kêu gào. Trong đó còn ngục Kêu gào lớn, Ấy bởi nịnh nọt và giảo hoạt.

Do nhiều thứ Kiến che lấp kín,

Do lưới Yêu dày nhận đắm chìm, Gây nên các nghiệp quá hạ cấp, Bọn ấy đọa ngục Kêu gào lớn.

Nếu đến ngục Kêu gào lớn ấy, Thành sắt cháy phừng sợ dựng lông! Trong đó, nhà sắt và phòng sắt, Người nào vào đó đều bị đốt.

Nếu làm những chuyện ở thế gian, Thường gây phiền não đến chúng sinh. Bọn ấy đọa vào địa ngục Nóng, Chịu khổ vì nóng đến vô cùng. Thế gian Sa môn, Bà la môn, Cha mẹ, ông bà, các kỳ lão,

Nếu thường gây khổ, khiến không vui, Bọn ấy đều đọa địa ngục Nóng.

Làm Trời thanh tịnh, không chịu tu, Thường hay xa lánh các người thân. Kẻ thích gây nên những chuyện ấy, Cũng phải đọa vào địa ngục Nóng. Ác với Sa môn, Bà la môn,

Và những người tốt như cha mẹ, Hoặc hại đến các bậc tôn trưởng, Kẻ ấy bị đốt ở ngục Nóng.

Thường tạo các nghiệp ác rất nhiều, Chưa từng nảy lên chút lòng thiện. Kẻ này lọt tuốt xuống A tỳ, Phải chịu vô lượng nỗi khổ não.

Nếu nói chánh pháp là phi pháp, Nói bậy phi pháp là chánh pháp, Lại không làm thêm các việc thiện, Kẻ ấy phải vào ngục A tỳ.

Sống lại, Dây đen là hai ngục,

Cùng ép, hai Kêu gào thành năm.

Thiêu đốt, Thiêu đốt lớn thành bảy. Với ngục A tỳ thành ra tám.

Tám này gọi là tám ngục lớn, Cháy rực, rất khổ, khó chịu nổi. Do người tạo ra các nghiệp ác, Trong đó, ngục nhỏ có mười sáu”.

Thứ tám: PHẦN GIỚI ÚC

Như kinh Khởi Thế nói rằng: “Phật bảo các Tỳ kheo, có ba vị Thiên sứ tại thế gian. Là ba vị nào? Một là Thiên sứ già, hai là Thiên sứ bệnh, ba là Thiên sứ chết. Có người phóng túng, làm ba nghiệp ác. Khi thân nát mệnh chung, sinh vào địa ngục. Các ngục tốt đúng lúc tiến tới, áp giải chúng sinh ấy đến trước vua Diêm La, bạch rằng: “Thưa đại vương, chúng sinh này trước đây ở trên thế gian, phóng túng hung hăng, không làm tốt ba nghiệp. Hôm nay sinh xuống nơi đây, chỉ xin đại vương khéo léo dạy bảo giùm cho”. Nhà vua hỏi tội nhân: “Trước đây, khi nhà ngươi còn ở trên thế gian, có vị Thiên sứ thứ nhất đã từng khéo léo chỉ bảo, trách cứ nhà ngươi. Há nhà ngươi đã không thấy xuất hiện chăng?”. Tội nhân đáp: “Thưa đại Thiên, thật tình tôi đã không thấy. Nhà vua lại bảo rằng: “Nhà ngươi há lại không thấy, phàm được làm người, hoặc đàn bà, hoặc đàn ông, khi tướng già xuất hiện thì răng long tóc bạc, da dẻ nhăn nheo, đồi mồi trổ khắp, nhìn giống rắc mè. Vai xệ lưng còng, bước đi khập khiểng. Chân không tự chủ, xiêu vẹo ngã nghiêng. Cổ họng da thòng, hai bên xệ xuống, chẳng khác yếm bò. Môi miệng khô queo, họng lưỡi nóng rát. Thân thể ốm o, sức lực suy nhược. Thở ra hổn hển, giống như kéo cưa. Bước tới muốn ngã, nhờ gậy chống đi. Sức trẻ tiêu tan, khí huyết cạn kiệt. Gầy gò lê lết, bước trên đường đời. Cử chỉ nặng nề, không còn dáng trẻ. Thậm chí thân tâm, thường xuyên run sợ. Nhà ngươi có thấy chăng? Tội nhân đáp rằng: “Thưa đại thiên, tôi thấy thật rồi”. Bấy giờ, nhà vua mới bảo rằng: “Nhà ngươi ngu si, không có trí tuệ. Trước đây đã thấy được tướng mạo của Thiên sứ già, tại sao không chịu suy nghĩ rằng, nay ta có đủ tướng già như thế, nhưng chưa lìa bỏ được. Ta nên làm việc thiện khiến cho ta mãi mãi được lợi ích, an lạc?”. Tội nhân ấy lại trả lời rằng: “Thưa đại Thiên, tôi thật tình đã không suy nghĩ như thế, nên đã đem tâm phóng túng để làm điều càn rỡ”. Nhà vua lại bảo rằng: “Nhà ngươi là kẻ ngu si, không tu tập nghiệp thiện, phải chịu đủ tội phóng túng. Quả báo khổ sở này chẳng do ai tạo ra, chính là do tự nghiệp của nhà ngươi, nên hôm nay phải tụ họp lại để gánh chịu lấy quả báo”.

Bấy giờ, vua Diêm La lại đưa ra lời trách cứ thứ hai rằng: “Các người há không thấy Thiên sứ thứ hai xuất hiện trên thế gian chăng? Tội nhân đáp: “Thưa đại Thiên, tôi thật tình không thấy”. Nhà vua lại bảo rằng: “Há nhà ngươi chẳng thấy, khi còn làm người trên thế gian, như làm thân đàn bà, như làm thân đàn ông, tứ đại đang hòa hợp, bỗng nhiên lệch sai. Bệnh dữ chiếm xâm, triền miên khốn đốn. Hoặc nằm trên chõng con giường lớn, phóng uế dơ dáy. Lăn lóc trong đó, không được yên ổn. Nằm ngồi ngủ nghỉ, cậy người đỡ nâng. Lau rửa giữ gìn, cho ăn cho uống, đều phải nhờ người. Nhà ngươi thấy chăng? Người ấy đáp rằng: “Thưa đại Thiên, tôi đã thấy thật”. Nhà vua lại bảo rằng: “Hỡi kẻ ngu si, nếu nhà ngươi thấy thật như thế, tại sao không chịu suy nghĩ rằng, hôm nay chính ta cũng có tướng bệnh như thế, nhưng chưa lìa bỏ được. Ta nên làm việc thiện, khiến cho mai sau mãi mãi được lợi ích lớn, an vui lớn?”. Người ấy đáp rằng: “Không! Tôi thật tình đã không suy nghĩ như thế. Do lòng lười biếng, nên đã làm chuyện phóng túng càn rỡ”. Nhà vua bảo rằng: “Hỡi kẻ ngu si, vì nhà ngươi đã lười biếng không làm việc thiện, nên phải chịu quả báo xấu xa này. Chẳng do ai tạo ra, nên phải gánh chịu lấy quá báo”.

Bấy giờ, vua Diêm La lại đưa ra lời trách cứ thứ ba rằng: “Nhà ngươi thật ngu si. Ngày trước, khi còn làm người, nhà ngươi há không thấy Thiên sứ thứ ba xuất hiện trên thế gian chăng?”. Người ấy trả lời: “Thưa đại Thiên, tôi thật tình đã không trông thấy”. Nhà vua lại bảo rằng: “Khi nhà ngươi còn làm người trên thế gian, há lại không thấy như làm thân đàn bà, như làm thân đàn ông, tùy số chết đi, đem đặt lên giường, lấy áo nhiều màu đậy che lại. Khiêng khỏi xóm làng, giăng màn che lọng, đủ thứ trang nghiêm. Thân quyến vây quanh, giơ tay xõa tóc. Đầu lấm tro bụi, hết sức đau thương. Kêu gào khóc lóc, cất tiếng gọi to. Đấm bụng đớn đau, nghẹn lời tức tưởi. Nhà ngươi đều đã thấy chăng?”. Người ấy trả lời: “Thưa đại Thiên, tôi đã thấy thật”. Bấy giờ, nhà vua bảo rằng: “Hỡi kẻ ngu si, trước đây nhà ngươi đã thấy được như thế, tại sao chẳng suy nghĩ rằng, ta cũng phải chết, chưa thể thoát ly. Nay nên làm thiện, giúp cho ta mãi mãi có được lợi ích lớn lao?”. Người ấy đáp rằng: “Thưa đại Thiên, tôi thật tình đã không suy nghĩ như thế. Tại sao? Vì lòng phóng túng ngông cuồng”. Bấy giờ, nhà vua bảo rằng: “Nhà ngươi đã phóng túng, không làm việc thiện, tự tạo nên nghiệp ác này, chẳng phải do ai gây ra. Quả báo này, nhà ngươi phải tự mình gánh chịu”. Sau khi vua Diêm La đã đem ba vị Thiên sứ ra trách cứ tội nhân xong, liền ra lệnh dắt đi. Bấy giờ, bọn ngục tốt lập tức bắt tội nhân, túm lấy hai chân hai tay, dốc ngược đầu xuống, giơ hai chân lên, ném vào trong các địa ngục”.

Thuật rằng:

Than ôi! Lấp dòng nước chảy, chưa bằng bít kín đầu nguồn, giở ấm nước sôi, chưa bằng dập tắt bếp lửa. Tại sao? Nguồn phát ra nước, nguồn chưa bít kín thì nước không khô, lửa khiến nước sôi, bếp chưa dập thì nước há nguội? Thế nên, có bạn bít đầu nguồn, chẳng lấp dòng, nước đã tự cạn, có khách dập bếp lửa, không giở ấm, nước nóng tự nguội. Giống thế mà bàn, cũng biết rõ được: chỉ chán quả báo, chưa bằng cắt đứt nghiệp nhân, chỉ sợ khổ đau, há bằng răn đe việc ác? Nhân sinh ra quả, nhân chưa cắt đứt thì quả vẫn không cùng, ác tạo ra khổ, ác chưa chịu phạt thì khổ há hết? Thế nên, khiến kẻ học cắt đứt nghiệp nhân, không đợi chán, quả cũng cao tay, bậc tôn đức răn đe việc ác, chẳng cần sợ, khổ cũng xa chạy.

Hết thảy các bậc quân tử, nên chép lại để răn đe mình!

Tụng rằng:

“Sinh ra rồi lại chết đi,

Mặt trời khuất bóng, trăng thì lên ngôi. Gió lay cành yếu rã rời,

Xôn xao nhân thế sóng nhồi nổi trôi.

Ngu si lạc mất đường rồi,

Chìm vào vực thẳm là nơi tủi sầu. Sa chân xuống địa ngục sâu,

Rắc đầy chông nhọn ở lâu muôn đời. Sáu đường luân chuyển tơi bời, Chỉ vì ba nghiệp khúc nôi chưa tường.

Giữa dòng, ai cứu mà mong,

Thảm thương chỉ biết riêng lòng xót xa. Ngắm xem vạn tượng bao la,

Chẳng qua cũng chỉ mù lòa dối nhau.

Biển trần vui sướng chi đâu,

Thuyền từ Bát nhã nguyện cầu bước lên”.

DUYÊN CẢM ỨNG

Trích dẫn sơ lược bảy chuyện linh nghiệm: 1. Cư sĩ Triệu Thái đời Tấn. 2. Sa môn Chi Pháp Hành đời Tấn. 3. Cư sĩ Thạch Trường Hòa đời Ngụy. 4. Quỷ ở Hàm Cốc đời Hán. 5. Tiếng khóc ở huyện Lô Giang. 6. Vạc nước sơi ở nước Thổ Phồn. 7. Liêu Trí Cảm làm phán quan ở địa ngục đời Đường.

1. Triệu Thái đời nhà Tấn: tự là Văn Hòa, người Bối Khâu thuộc huyện Thanh Hà. Ông nội từng làm thái thú ở Kinh Triệu. Thái đậu hiếu liêm ở quận nhà, được mời làm quan tại địa phương, nhưng không nhận chức. Chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, có tiếng tăm khắp xóm làng. Đến già mới ra làm quan, mất khi đang giữ chức trung tán đại phu. Năm Thái được ba mươi lăm tuổi, bỗng nhiên lên cơn đau tim một lát rồi qua đời. Người nhà đem xác đặt xuống đất, tim còn nóng hẩm không nguội. Tay chân giở lên còn mềm mại, nên người nhà quàn xác lại suốt mười hôm. Bỗng nhiên, trong cổ họng phát ra tiếng rào rào như mưa, được một lúc thì sống lại. Thái kể rằng, khi mới chết, mơ màng thấy có một người đến kề cận dưới tim. Lại có hai người khác cưỡi ngựa vàng và hai kẻ tùy tùng đến xốc nách Thái đưa đi thẳng về hướng Đông. Không biết bao nhiêu dặm, đến một tòa thành lớn, cao chót vót, sắc xanh đen như thiếc. Bọn họ đưa Thái vào cửa thành, qua thêm hai lớp cửa dày nữa. Có chừng vài nghìn gian nhà ngói. Người nam nữ lớn nhỏ, cũng khoảng mấy nghìn người đang đứng xếp hàng. Đề lại mặc áo đen, độ năm, sáu người, đọc rõ tên họ rồi nói: “Phải đem tội trạng trình lên nhà vua”. Tên Thái nằm vào thứ hai mươi. Giây lát, bọn họ đưa Thái và mấy nghìn người nam nữ cùng tiến lên phía trước. Nhà vua ngồi quay mặt về hướng Tây, nhìn sơ qua sổ bộ xong, lại bảo Thái đi vào trong cửa màu đen ở phía Nam. Một vị mặc áo đỏ ngồi trong tòa nhà lớn, theo thứ tự gọi tên, hỏi việc làm lúc sống, gây nên tội gì, tạo được việc thiện nào. Dặn dò các người phải nói thật. Ở đây thường xuyên phái sứ giả của sáu bộ lên nhân gian ghi chép đầy đủ việc thiện ác. Không thể nói dối hão huyền. Thái khai cha anh đều làm quan, ăn lộc hai ngàn thạch. Riêng mình từ nhỏ ở nhà tu học mà hoi, không làm việc gì khác, cũng không làm việc ác. Liền phái Thái làm sứ giả giám sát bên thủy quan. Thái đem hơn hai ngàn người mang cát đắp bờ sông, đêm ngày coi sóc siêng năng khó nhọc. Sau chuyển qua làm đô đốc thủy quan, coi sóc việc hình ngục. Cấp cho Thái người ngựa theo hầu, đi giám sát các địa ngục. Những địa ngục đi qua, các khổ hình đều khác biệt. Hoặc lấy kim đâm lưỡi, máu chảy đầy mình. Hoặc bới đầu lộ tóc, chân không trần truồng, cùng dắt nhau đi. Có người cầm hèo, từ sau đốc thúc. Giường sắt, cột đồng đốt cháy, đỏ suốt trong ngoài. Bắt buộc đám người này ngồi lên giường sắt, ôm lấy cột đồng. Lập tức bị cháy nát tan, rồi bỗng sống lại. Hoặc vạc lớn lò nóng, nấu nướng tội nhân. Đầu thân rời rã, lăn lộn theo nước sôi sùng sục. Có quỷ sứ cầm chĩa đứng sát một bên. Khoảng ba, bốn trăm người đứng riêng một chỗ, chờ phiên vào vạc, ôm nhau khóc lóc thảm thương. Hoặc cây kiếm cao lớn, không biết đến đâu. Mắt, cành, chồi lá đều làm bằng kiếm. Mọi người chê nhau, tự vịn trèo lên. Chưa hết hân hoan thì đầu thân đã bị cắt lìa, từng ly từng tí. Thái thấy ông nội, cha và hai em ở trong địa ngục này. Mọi người gặp nhau, cùng khóc lóc não ruột. Thái vừa ra khỏi cửa ngục, thấy có hai người mang văn thư đến, nói với cai ngục rằng, có ba người được gia đình lên chùa lập đàn, treo phướn thắp nhang, cầu giải tội giùm cho. Nên đưa họ ra nhà phước. Giây lát, thấy ba người từ địa ngục bước ra, ăn mặc áo quần tươm tất ngay ngắn trên mình, đi đến một cửa phía Nam gọi là đại sảnh Khai quang, có ba lớp cửa son chói lọi rực rỡ. Ba người lập tức bước vào trong, Thái cũng vào theo. Trước là điện lớn, trang hoàng đủ thứ châu báu, chiếu diệu hoa mắt, trần thiết Thiền sàng bằng vàng ngọc. Thái thấy được một vị thần nhân, dáng dấp hùng vĩ, hết sức phi thường, ngồi trên bảo tọa ấy. Hai bên có rất nhiều Sa môn đứng hầu. Vua Diêm La bước đến, cung kính hành lễ. Thái hỏi: “Đây là vị nào mà vua Diêm La cung kính đến thế?”. Đề lại đáp: “Đây là đức Thế tôn, vị đạo sư cứu độ chúng sinh”. Một lát, Ngài bảo mọi người trong địa ngục bước ra nghe kinh. Bấy giờ, có khoảng 1 trăm vạn chín ngàn người đều được ra khỏi địa ngục, đến thành Trăm dặm này. Tại đây, đông đảo mọi người đều được ngồi xuống để nghe thuyết pháp. Tuy hạnh kiểm còn chỗ thiếu sót, nhưng cũng đều được siêu độ cả. Thế nên, trong bảy ngày khai kinh này, mọi người tùy theo nghiệp nhân nặng nhẹ ít nhiều đã tạo ra, lần lượt đều được giải thoát. Trong khi Thái còn chưa ra khỏi nơi đây, đã thấy có hơn hàng ngàn người bay lên trời. Rời khỏi thành này, lại thấy một thành khác rộng hơn hai trăm dặm, gọi là thành Chịu biến hình. Sau khi tội nhân đã bị xét hỏi, xử trí ở địa ngục xong xuôi, phải vào thành này để chịu quả báo biến đổi hình dạng. Thái vào thành này, thấy hơn mấy ngàn gian nhà ngói cao lớn đều có phòng ốc. Chính giữa là ngôi nhà ngói lớn, có lan can tô vẽ rực rỡ, gồm mấy trăm phòng. Đề lại tra cứu văn thư, nói rằng: “Kẻ sát sinh phải làm phù du, sáng sinh chiều chết. Kẻ trộm cướp phải làm heo dê, bị người mổ xẻ. Kẻ dâm dật phải làm le cò, vịt trời, hươu nai. Kẻ hai lưỡi hại người phải làm chim cắt, cú mèo. Kẻ giựt nợ phải làm la lừa, lạc đà, trâu ngựa”. Thái độ chừng đã xử lý xong xuôi, bèn trở về thủy quan. Chủ sự bảo: “Ông vốn con nhà quý tộc, vì tội gì phải vào đây?”. Thái đáp: “Ông cha, anh em đều làm quan, ăn lộc hai ngàn thạch. Tôi đã từng tuyển ra làm quan, nhưng từ chối không đi. Ở nhà đọc sách, tu thân, không tiêm nhiễm thói xấu xa”. Chủ sự bảo: “Ông vô tội nên được phái làm đô đốc thủy quan. Nếu không, thì cũng đã chịu số phận như các tội nhân khác ở địa ngục rồi”. Thái hỏi chủ sự: “Người ta phải làm gì, lúc chết mới được hưởng quả báo an lạc?”. Chủ sự nói: “Chỉ có những đệ tử thờ phụng Phật pháp, giữ gìn giới luật, mới được quả báo an lạc, không bị trách phạt mà thôi”. Thái lại hỏi: “Những tội lỗi gây ra trước khi thờ phụng Phật pháp, liệu có được trừ đi sau khi đã thờ phụng chăng?”. Đáp rằng: “Đều trừ được cả”. Nói xong, chủ sự mở hộp khóa vàng, tra xét lại tuổi tác của Thái, thấy còn sống thêm được ba mươi năm nữa, bèn khiến Thái trở về. Khi từ biệt, chủ sự căn dặn: “Ông đã thấy được quả báo ở địa ngục phân minh như thế, nên nói lại cho mọi người trên thê gian đều biết, để họ làm thiện. Thiện ác theo người như hình với bóng. Há chẳng nên cẩn thận?”. Bấy giờ, bà con thân thích nội ngoại đến thăm Thái khoảng năm mươi, sáu mươi người, đều nghe lời Thái kể. Thái cũng chép lại để trao cho mọi người cùng xem. Ấy là ngày 13 tháng 7, dưới niên hiệu Thái Khang thứ năm đời nhà Tấn. Thái liền mời nhiều tăng sĩ đến lập đàn lớn cầu phúc cho ông nội, cha mẹ và hai em. Thái còn cho con cháu sửa mình, học tập Phật pháp. Khuyên nhủ phải siêng năng. Người đương thời nghe tin Thái đã chết rồi sống lại, được thấy rõ nhiều chuyện họa phúc, liền rủ nhau đến thăm hỏi. Có các ông Thái trung đại phu Tôn Phong ở Vũ Thành, quan nội hầu Hách Bá Bình ở Thường Sơn, cả nhóm đông hơn mười người, cùng đến nhà Thái, hỏi rõ mọi chuyện trước sau. Mọi người đều sợ hãi, cùng xin phát tâm thờ phụng Phật pháp.

2. Sa môn Chi Pháp Hành là người đầu đời nhà Tấn: Mắc bệnh một tuần chết đi, ba hôm sau sống lại, kể rằng khi chết có người dẫn đi. Thấy có mấy chỗ giống công sở, không chịu tiêp nhận. Giây lát bỗng có bánh xe sắt, trên đó tua tủa móng sắt, từ phía Tây chạy lại, không có người điều khiển, nhưng chạy nhanh như gió. Một đề lại hô: “Tội nhân hãy đứng vào trước bánh xe!”. Hành kinh hoàng, ân hận đã không tinh tiến tu trì. Nay phải chịu nạn dưới bánh xe này chăng? Đề lại vừa nói xong, lại bảo: “Đạo nhân có thể ra khỏi nơi đây”. Liền đó, Hành thấy trên trời có lỗ hổng, bất giác mình đã bay lên rồi lấy đầu chui vào. Hai tay vén hai bên, nhìn quanh bốn phía, thấy các cung điện bằng thất bảo và các người trên trời. Hành cố sức nhảy nhót, nhưng không thể lên được. Mệt mỏi quá, đành phải trở về. Người dắt Hành đi mỉm cười, bảo rằng: “Bị mắc vật gì mà không thể lên được?”. Bèn đem Hành đem giao cho thuyền quan. Thuyền quan chèo thuyền, sai Hành cầm lái. Hành nói: “Tôi không biết cầm lái”. “Cứ gắng đi!”. Hằng mấy trăm chiếc thuyền đều chèo theo sau thuyền của Hành. Vì Hành không biết cầm lái, nên thuyền chạy đâm lên bãi cát. Bọn chức sắc xô đẩy Hành, nói: “Nhà ngươi dẫn đường mà lại đi lạc, theo luật phải chém đầu!”. Rồi dẫn Hành lên bờ, đánh trống sửa soạn chém đầu Hành. Bỗng nhiên có hai con rồng ngũ sắc hiện ra, đẩy thuyền xuống nước trở lại. Chức sắc bèn tha tội, chở Hành đi về phía Bắc khoảng ba mươi dặm, thấy hai bên bờ có chừng mấy vạn vạn nóc nhà, bảo rằng đó là nhà của dân lưu lạc. Hành lén trốn lên bờ. Trong làng thả chó xông ra suýt cắn phải. Hành vô cùng sợ hãi, nhìn về phía Tây Bắc có ngôi giảng đường, trên có rất nhiều tăng sĩ. Nghe có tiếng tụng kinh, Hành chạy một mạch lên đó. Giảng đường có mười hai bậc cửa, Hành mới bước lên bậc thứ nhất, đã thấy tiên sư Pháp Trụ ngồi trên Thiền sàng. Thấy Hành, ngài bảo: “Chính là đệ tử của ta. Tại sao lại đến đây?”. Rồi ngài bước lại đầu bậc thềm, lấy khăn tay đánh vào mặt Hành và bảo: “Đừng bước đến!”. Hành rất muốn bước đến, bèn cất chân lên. Ngài Pháp Trụ lại xô đẩy bảo xuống, đến ba lần Hành mới chịu dừng lại. Thấy trên mặt đất có một miệng giếng sâu chừng ba, bốn trượng. Tường thành liền lạc, không có vết gạch xây nên. Trong bụng Hành bảo đây là giếng tự nhiên của trời. Bên giếng có người bảo rằng: “Nếu không tự nhiên sao gọi là giếng?”. Nhân thấy ngài Pháp Trụ cứ nhìn theo Hành, người ấy bảo Hành nên quay về lại, chó không cắn nhà ngươi nữa đâu. Đi đến bờ sông lại không thấy chiếc thuyền đã chở đến trước đây, Hành khát quá muốn uống nước, liền rơi xuống sông. Nhờ thế, được sống lại. Sau đó, Hành xuất gia, giữ giới ăn chay. Đêm ngày chuyên tâm suy nghĩ, cố gắng trở thành vị Sa môn rất có đạo hạnh. Tỳ kheo Pháp Kiều vốn là đệ tử của Pháp Hành vậy.

3. Thạch Trường Hòa là cao nhân của nước Triệu: Năm lên 19 tuổi, mắc bệnh một tháng rồi chết. Nhà nghèo, không thể lo việc tẩm liệm đúng ngày giờ được. Qua bốn hôm sau, sống lại kể rằng khi mới chết, đi về phía Đông Nam, thấy hai người sửa đường ở trước mặt Hòa năm mươi bước. Hòa đi nhanh chậm thì hai người kia cũng sửa đường nhanh chậm theo một khoảng cách chừng năm mươi bước. Hai bên đường, gai góc mọc um tùm như vuốt chim diều dâu. Hòa thấy rất nhiều người đi trong gai góc. Thân thể bị tổn thương rách nát, đất dính máu me bê bết. Mọi người thấy Hòa được đi trên đường bằng phẳng, đều thở than: “Một mình con Phật được đi trên đường lớn!”. Đến phía trước, có một dãy nhà lầu lợp ngói rộng mấy nghìn gian. Có một ngôi nhà rất cao, trên có một người, hình dáng mặt mày to lớn, mặc áo màu đen bốn vạt, ngồi nhìn ra cửa, Hòa vái chào. Người trên gác bảo: “Hôm nay, ông Thạch mới đến đây, cách biệt nhau đã hai mươi năm rồi nhỉ!”. Bấy giờ, trong trí Hòa liền nhớ ra buổi chia tay năm ấy. Bạn thân quen của Hòa chỉ có Mã Mục và Mạnh Thừa, mà vợ chồng Mạnh Thừa chết cũng đã lâu rồi. Người trên gác hỏi: “Ông còn nhớ Mạnh Thừa không? “. Trường Hòa đáp: “Còn nhớ”. Người trên gác nói: “Lúc còn sống, Mạnh Thừa không tinh tiến tu hành, nay thường phải lo quét dọn cho ta. Còn vợ Mạnh Thừa, nhờ tinh tiến hơn nên sống rất an lạc”. Rồi đưa tay chỉ vào một gian phòng ở phía Tây Nam và nói: “Vợ Mạnh Thừa ở chỗ đó”. Vợ Mạnh Thừa mở cửa sổ, thấy Hòa, chào hỏi rất ân cần, lại hỏi thăm tin tức tất cả gia đình được bình an không. Rồi nói tiếp: “Khi nào ông Thạch về, xin qua cho gặp mặt để nhờ chuyển thư giùm”. Giây lát, thấy Mạnh Thừa cầm chổi, xách sọt rác từ căn gác phía Tây đi lại, cũng hỏi thăm tin nhà. Người trên gác nói: “Nghe rồng cá cho hay, ông rất tinh tiến. Vậy ông tu hành phép gì?”. Trường Hòa đáp rằng: “Không ăn cá thịt, rượu cũng không ghé môi. Thường tụng kinh Phật, cứu giúp những người đau ốm”. Người trên gác nói: “Quả là lời đồn không sai”. Nói chuyện hồi lâu, người trên gác hỏi viên chủ quản văn thư rằng: “Xem lại hồ sơ của ông Thạch, đừng để sai sót”. Viên chủ quản xem lại xong, trả lời: “Mạng sống còn hơn ba mươi năm”. Người trên gác hỏi rằng: “Ông muốn về lại không?”. Hòa trả lời: “Muốn về”. Bèn ra lệnh cho chủ quản lấy xe ngựa giao cho hai người thuộc hạ đưa Hòa về. Trường Hòa bái từ, lên xe trở về. Trên đường về, phía trước đều có nhà công quán, thuộc lại, đồ ăn uống chuẩn bị sẵn sàng. Bỗng nhiên về đến nhà, Hòa chán cái xác đã hôi, không muốn nhập vào, cứ đứng chần chừ trên đầu. Thình lình, thấy em gái đã mất, từ phía sau xô ngã vào trên mặt xác chết. Nhờ thế, Hòa được sống lại. Bấy giờ, tăng sĩ Chi Pháp Sơn vốn còn do dự, chưa chịu xuất gia, nghe Hòa thuật lại mọi chuyên, liền quyết chí xuất gia cầu đạo. Pháp Sơn là người thời Hàm Hòa vậy. (Ba chuyện trên đây rút từ Minh Tường Ký).

4. Hán Vũ Đế du hành sang phương Đông: chưa ra khỏi cửa hàm Cốc, có một con vật cản đường. Thân hình cao mấy chục trượng, giống như trâu. Mắt xanh, tròng trắng, bốn chân lún trong đất, vùng vẫy nhưng không xê dịch được. Trăm quan đều hoảng kinh. Đông Phương Sóc bèn xin đem rượu tưới lên mình nó, tưới được vài chục đấu liền tiêu tan mất. Nhà vua hỏi nguyên nhân, Đông Phương Sóc tâu rằng: “Con vật này do khí ưu uất sinh ra. Ở đấy, ngày trước chắc là ngục thất của nhà Tần. Nếu không, chắc là chỗ tội nhân bị lưu đày tụ họp lại. Than ôi! Rượu là để giải sầu, nên có thể làm cho khí ưu uất ấy tiêu tan được”. Nhà vua phán rằng: “Ôi! Đúng là nhà bác học!”.

5. Trên địa bàn hai huyện Hoán và Thông Dương ở Lô Giang: có hai loại “xanh nhỏ” và “xanh lớn” sắc đen, sống trong vùng núi non. Thường nghe có tiếng khóc nhiều đến mấy chục người nam nữ, lớn bé, như mới phát tang. Người quanh vùng đều kinh hoàng, đi qua đó phải bỏ chạy, nhưng chẳng hề thấy ai cả. Chỗ nào có tiếng khóc ấy, chắc chắn sẽ có đám ma. Nếu tiếng khóc nhiều thì nhà lớn chết, tiếng khóc ít thì nhà nhỏ chết. (2 chuyện trên đây rút ra từ Sưu Thần Truyện Ký).

6. Sách Tây Quốc Hành của Vương Huyền Sách nói rằng: “Về phía Tây Nam nước Thổ Phồn có suối phun nước nóng. Từ mặt đất như bắn lên, cao năm, sáu thước, rất nóng, luộc thịt chín liền. Hơi nóng bốc lên trời như sương mù. Một bô lão người Thổ Phồn nói rằng, mười năm trước, nước bắn lên cao hơn mười trượng rồi mới tung tóe chung quanh. Có một người cưỡi ngựa rượt bắn nai, sa chân rơi thẳng xuống suối. Từ đó đến nay, nước không còn bắn vọt lên cao nữa. Trong suối thường thấy xương người văng lên. Nếu lấy nỉ dày trải lên mặt suối, giây lát sẽ bị rã nát. Có người bảo đó là Vạc nước sôi. Về phía Tây Bắc của suối này khoảng sáu mươi, bảy mươi dặm, lại có một suối khác, sức nóng cũng tương đương với suối này. Nước thường bắn vọt mạnh lên, có tiếng ầm ầm như sấm nổ. Các suối nước ấm nho nhỏ, thỉnh thoảng cũng có. Nay nhiều chỗ ở Trung Quốc này cũng có suối nước ấm, chỉ riêng suối này là Vạc nước sôi. Bởi thế, đức Thế tôn có nói trong phần hạ văn của Luật Tứ Phần rằng, về phía Bắc thành Vương Xá có nước nóng từ địa ngục phun lên. Khi mới phun thì rất nóng. Về sau, chảy đến chỗ xa liền hơn nguội, do bị các dòng nước khác hòa chung vào, nên mới nguội đi. (Chuyện trên đây rút từ Tây Quốc Truyện).

7. Liễu Trí Cảm là người Hà Đông vào đời nhà Đường: Đầu niên hiệu Trinh Quan, làm tri huyện Trường Cử. Một đêm, đột ngột chết mất. Sáng hôm sau sống lại, kể rằng, lúc đầu bị quan quân cõi âm bắt đem tới vua Diêm La. Sứ giả đưa vào tham kiến xong, nhà vua bảo Trí Cảm: “Nay thiếu một chức quan, làm phiền ông giúp cho”. Trí Cảm từ chối vì còn cha mẹ già và còn phước đức được sống thêm, chưa đến số chết. Nhà vua sai xem lại sổ sách thấy đúng như thế, liền bảo rằng: “Số ông chưa đáng chết. Cứ tạm thời làm phán quan”. Trí Cảm bằng lòng, liền tạ ơn. Tạ ơn xong, đề lại dẫn xuống phòng làm việc. Có năm vị phán quan ngồi kề nhau và Cảm là người thứ sáu. Trưởng quan ngồi giữa sảnh đường. Cả ba gian đều bày giường sập. Công việc rất bề bộn. Đầu phía Tây không có phán quan, đề lại dẫn Cảm đến ngồi vào chỗ ấy. Bọn đề lại mang sổ sách giấy tờ đến giao cho xem xét, đặt lên bàn xong, bèn xuống đứng chờ dưới thềm. Trí Cảm hỏi ham tình hình, trả lời rằng: “Thói ác lấn lướt công lý!”. Rồi cũng chỉ đề cập quanh co đến những chuyện có liên quan với công vụ. Trí Cảm đọc qua văn thứ, đại khái cũng giống như việc trên nhân gian, bèn cầm bút phê vào. Một lát, cơm nước được mang đến, các phán quan đều ngồi vào ăn, Trí Cảm cũng ngồi vào bàn. Các phán quan bảo rằng: “Ông là phán quan tạm thời, không nên ăn những thức ăn này”. Cảm nghe lời không dám ăn. Chiều tối, đề lại đến đưa Trí Cảm về nhà. Tỉnh ra thì trời vừa sáng. Từ khi về nhà đến chiều tối, đề lại đến đón đi, đến đó thì trời vừa sáng, mới biết ngày đêm ở hai cõi âm dương trái ngược nhau. Từ đây, đêm phán xét công việc ở cõi âm, ngày làm công việc của huyện, đều đặn như thế. Hơn một năm làm việc ở âm phủ, bữa nọ, nhân vào nhà xí, gặp một người đàn bà khoảng ba mươi tuổi tại phía Tây phòng. Dung nhan đoan chính, áo quần đẹp đẽ, đang đứng lau nước mắt. Trí Cảm hỏi là ai. Đáp rằng: “Tôi là vợ của tham quân coi kho lương ở Hưng Châu, bị bắt đến đây. Vừa mới xa cách chồng con, nên sinh đau buồn”. Trí Cảm đem chuyện hỏi đề lại. Đề lại trả lời: “Quan bắt đến là vì có chuyện muốn xét hỏi. Cốt để đối chứng với công việc của chồng mà thôi”. Nhân đó, Trí Cảm nói với người đàn bà ấy rằng: “Cảm tôi là tri huyện ở Trường Cử, nếu bị xét hỏi xin phu nhân hãy khai báo tự nhiên, đừng để liên lụy, chết chung với quan coi kho thì thật là vô ích”. Người đàn bà ấy nói: “Thật tình tôi cũng không muốn chết, chỉ sợ quan trên ép bức mà thôi”. Cảm nói: “Xin phu nhân đừng để vạ lây. Cũng đừng lo sợ bị bức ép”. Người đàn bà ấy hứa sẽ xin nghe lời. Trí Cảm về lại huyện, liền hỏi: “Vợ quan coi lương có bị bệnh gì không?”. Viên coi lương trả lời: “Vợ tôi còn nhỏ tuổi, chẳng có bệnh gì cả”. Trí Cảm đem chuyện gặp mặt kể cho viên coi lương nghe, tả rõ hình dáng, y phục và khuyên nên làm phúc. Viên coi lương chạy về nhà, thấy vợ đang ngồi bên khung cửi dệt vải, chẳng có bệnh gì, nên cũng không tin vào lời của Cảm nhiều. 10 ngày sau, vợ của viên coi lương bị bệnh chết đột ngột. Bấy giờ, viên coi lương mới sợ hãi, bèn làm phước và cúng vái cho vợ. Lại nữa, có hai vị quan ở Hưng Châu trúng kỳ khảo hạch, được chọn về kinh, bảo Trí Cảm rằng: “Ngài làm phán quan ở âm tuy, xin hỏi giùm bọn tôi được chọn về kinh làm chức gì”. Trí Cảm xuống dưới, đưa tên họ ấy hỏi viên lục sự. Lục sự bảo: “Sổ bộ đều niêm phong và để trong hòm đá. Muốn xem xét, phải mất hai ngày nữa, mới báo cáo lại được”. Sau đó, lục sự báo cáo cho Trí Cảm biết rõ chức danh vừa được bổ trong năm nay. Trí Cảm thông báo cho hai người ấy. Hai người lên kinh, được tuyển vào bộ lại. So với dự báo của Cảm đều không giống, các quan ở châu huyện được tin, báo lại cho Cảm hay. Sau đó, Cảm hỏi lại viên lục sự. Lục sự bảo: “Đã kiểm tra lại. Đều đúng không sai”. Sau khi hai người ấy được tuyển mộ vào bộ lại, nhân viên thẩm tra lại, cho ra khỏi bộ lại, nhận chức mới đúng như đã ghi chép ở sổ bộ dưới âm ty. Từ đó, mọi người đều rất tin tưởng. Trong sổ bộ ở âm ty, mỗi lần Trí Cảm thấy bà con quen biết của mình có chức phận hay ngày tháng chết đi, liền báo cho hay để làm phúc. Nhờ thế, phần nhiều được qua khỏi. Trí Cảm tạm làm phán quan ba năm, đề lại lên cho hay rằng: “Đã có quan tư hộ họ Lý ở Long Châu chính thức thay thế ông rồi, không cần phải xuống làm phán quan nữa”. Trí Cảm lên châu, báo cáo với thứ sử họ Lý. Thứ sử Lý Long Phụng sai người sang Long Châu thẩm tra, thì viên tư hộ họ Lý đã mất. Hỏi ngày tháng, đúng là ngày đề lại mang tin đến cho hay. Từ đó bèn cắt đứt mọi chuyện dưới âm ty. Quan châu sai Trí Cảm giải tù lên kinh, đến địa phận Phụng Châu, bốn tên tù đều bỏ trốn. Trí Cảm lo sợ vì bắt lại chưa được. Đang đêm nằm nghỉ ở nhà trạm, bỗng thấy đề lại cũ đến bảo rằng: “Tù đều bắt được cả rồi. Một tên chết, ba tên còn sống, đang ở trong hang phía Tây núi Nam Sơn, cả ba đều bị trói lại. Xin ông đừng lo!”. Nói xong từ biệt ra đi. Trí Cảm liền xin dân binh đem vào hang phía Tây núi Nam Sơn, quả nhiên gặp bốn tên tù nhân. Bọn tù biết không thể chạy thoát, xông ra chống cự. Trí Cảm tiến lên đánh, giết một tên, ba tên còn lại đều đưa tay chịu trói, đúng như lời đã báo.

Hiện tại, Trí Cảm đang làm quan tư pháp tại Từ Châu ở phương Nam. Quan lộc khanh Liễu Hanh đem kể cho nghe chuyện này. Khi Hanh làm thứ sử Ngang Châu, có gặp Trí Cảm và đã đích thân hỏi rõ đầu đuôi. Tuy nhiên, ngự sử Bùi Đồng Tiết cũng nói rằng có gặp mấy người đều kể cho nghe như thế cả. (Chuyện trên đây rút ra từ Minh Báo Ký).



Từ Ngữ Phật Học Trong: Lục Đạo