Bảy năm trước lúc tôi đang giảng Kinh Di Đà ở nhà ban trưởng Lý Thủy Cẩm, ban Kim Cương ở đường Nam Kinh, lúc đó có vị thính chúng rất thành khẩn họï Dương tên Khuyến, hơn ba mươi tuổi, cô ta rất giỏi làm ăn, đã từng kết hôn, do vì hai vợ chồng trẻ cá tính không hợp nên chia tay nhau. Nhưng cô Khuyến này là người rất biết giữ đạo của người phụ nữ, cho nên sau khi hai ông bà già chồng qua đời, mặc dù đã ly hôn với chồng, cô Khuyến vào tiết Thanh Minh hàng năm, vẫn về nhà mình ở Lộc Cảng sắm sửa những đồ bánh lễ, rượu, đồ tế v.v… đi đến mộ của cha mẹ chồng cúng bái.
Bảy năm trước, cô Khuyến còn là tín đồ Phật giáo sơ cơ, đến tiết Thanh Minh vẫn về cố hương, sắm sửa rất nhiều đồ, rồi cùng đứa cháu gái và mấy đứa bé hàng xóm đến cái mả hoang đó cúng vái cha mẹ chồng có duyên mà không nợ, cô ta đang phủ phục lạy và nhớ lại ngày trước, bỗng nhiên nghe đứa cháu gái mười tuổi đứng bên mộ bia kêu lên: “Cô ơi! Hôm nay cô đi cúng mộ cúng sai rồi, chúng ta là họ Dương, còn cái mộ này họ Hứa, không đúng rồi. Cô à! Chúng ta về nhà đi, về sau không cần phải lại đây cúng bái mộ họ Hứa này nữa”. Do vì con bé này nhìn thấy họ ở bia đá trên mộ, không biết nội tình. Tôi hỏi cô Khuyến: “Cô có giải thích cho nó không?”. Cô Khuyến nói: “Đối với con nít làm sao nói những chuyện quá khứ như thế này! Tôi liền chia bánh trái cho đám mục đồng, thôn nữ, mang rượu, thức ăn, đồ tế về chia cho mấy đứa nhỏ đi theo ăn, tôi thì đi vội về Đài Trung”.
Sau khi cô Khuyến về Đài Trung 12 giờ đêm đó, người em trai ở Lộc Cảng đột nhiên vội vã đến, rất lo lắng hỏi rằng: “Chị à, chị hôm nay dẫn cháu đi đến mộ, có làm cái gì không đúng không? Tại sao ăn cơm tối xong, em đang viết bài, bỗng nhiên cháu nó kêu to đau đớn lên, cứ nói: “Ba ơi! Má ơi! Có rất nhiều quỷ từ ngoài cửa sổ vào, đều vươn dài tay ra muốn bắt con đi, họ mắng con hay xía vô chuyện người ta, biểu người ta sau này đừng đi cúng bái nữa, ba má ơi, con sợ quá!”. Em trai cô lại nói: “Chẳng những như thế mà lại còn phát sốt cao nữa! Cho nên cả nhà kêu em nhanh chóng đến hỏi chị, hôm nay ra mả, rốt cuộc là chuyện như thế nào?”. Cô Khuyến liền đem việc ở mả nói với em trai. Cô ta nói: “Có lẽ là những hồn quỷ bị nói là không phải nhà họ của mình đó, chị sáng ngày mai nhờ các vị liên hữu đi tụng kinh siêu độ là được rồi”.
Qua sáng hôm sau, cô Khuyến liền đến nhà ban trưởng nói với Lý Thủy Cẩm rằng: “Hôm qua cúng mộ, đứa cháu gái không biết nên nói những lời có lỗi với người chết, tối hôm qua liền đến gây chuyện, làm cho thằng em tôi ngay đêm hôm đến nói với tôi. Hôm nay đến đây thỉnh cầu ban trưởng nghĩ cách dùm”. Ban trưởng Lý Thủy Cẩm thật từ bi liền cùng phó ban trưởng Lâm Ngọc Kính, luôn cả cô Khuyến, ba người đi đến Lộc Cảng tụng một quyển kinh Di Đà, hai mươi mốt biến chú vãng sanh và chú đại bi, Tâm kinh v.v… cho con bé, tiêu tai giải nạn cho nó, và cho nó uống nước chú đại bi, lại bảo cả nhà niệm A Di Đà Phật nhiều vào. Thật là không thể nghĩ bàn, nhiệt độ của con bé hạ dần, bình an vô sự như thường. Cô Khuyến từ đó cảm thấy Phật pháp vô biên, càng phát tín tâm sâu chắc, tinh tấn hơn gấp bội.
Tháng 2 năm ngoái, lúc liên xã mở cuộc họp nhỏ, cô Khuyến đứng dậy xin hỏi sư phụ Bính Công. Cô nói: “Con trước kia chưa tin Phật, trong nhà có cúng một tượng Vương Gia Công, em gái con cũng làm một miếng kim bài nặng 3 tiền đeo trên ngực của tượng thần. Bây giờ con đã là đệ tử Tam Bảo, con muốn thỉnh tượng Vương Gia Công đó đưa đến miếu thần và lấy miếng kim bài đó ra đem đi bán, rồi lấy số tiền bán được khắc một tượng Địa Tạng Bồ Tát, em gái con đã đồng ý. Xin hỏi sư phụ có được hay không?”. Sư phụ đáp rằng: “Được! Nhưng tượng Địa Tạng Bồ Tát này phải viết rõ là Vương Gia Công cúng hiến, bởi vì miếng kim bài của em gái cô đã dâng cho Vương Gia Công rồi, kim bài là vật sở hữu thuộc về Vương Gia Công. Nếu làm như lời ta nói thì không có lỗi”. Do đây có thể thấy, cô Khuyến bây giờ đã là một tín đồ Phật giáo chánh tín vậy.