Home > Khai Thị Phật Học
Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh
Đại Sư Thích Ấn Thuận | Hòa Thượng Thích Pháp Chánh, Việt Dịch


Tựa đề của kinh này, căn cứ vào lời dạy của đức Phật có ba tên gọi: (1) Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức, (2) Mười Hai Thần Tướng Lợi Ích Hữu Tình Kết Nguyện Thần Chú, và (3) Diệt Trừ Tất Cả Nghiệp Chướng. Bản kinh đang lưu hành hiện nay dùng tên gọi thứ nhất làm tựa đề, bởi vì “diệt trừ tất cả nghiệp chướng” tức là lực lượng của công đức bổn nguyện của Như Lai Dược Sư, còn sự lợi ích hữu tình của mười hai thần tướng chỉ là pháp hộ trì công đức của Như Lai Dược Sư, khiến cho hữu tình đạt được sự lợi ích của công đức này. Cho nên dùng “bổn” (gốc) dung nhiếp “mạt” (ngọn), thiết lập đề kinh là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức.

(1) Dược Sư. 

Hiện nay nói đến “dược sư”, thường là chỉ cho những người bào chế thuốc, nhưng thời xưa thì không phải như vậy, hàm nghĩa của “dược sư” và “y sĩ” (thầy thuốc) giống nhau. Nhân vì đức Phật trị liệu tất cả mọi loại bệnh hoạn của tất cả chúng sinh, nên trong Phật pháp thường gọi Ngài là Vô Thượng Y Vương, hoặc Đại Dược Sư. Trong kinh nói: Đối với loài người, sinh lý có ba loại là già, bệnh, chết; tâm lý có ba loại là tham, sân, si. Đức Phật Đại Giác ra đời cứu tế chúng sinh, tức là muốn trừ diệt tất cả mọi loại bệnh hoạn thân tâm của chúng sinh, cho nên tán thán đức Phật là Đại Y Vương, Đại Dược Sư. Chúng ta không thể đem tên gọi “Dược Sư” với ý nghĩa cao quý này mà xem giống như ý nghĩa “người bào chế thuốc” thông thường.

Bệnh là gì? Dược là gì? Bệnh là hiện tượng sinh khởi bởi sự bất điều hòa (của thân tâm). Như kinh nói: “Một đại không điều hòa, sinh ra một trăm lẻ một chứng bệnh.” Thân thể của con người, một bộ phận nào không điều hòa thì sẽ phát sinh ra bệnh, và còn ảnh hưởng đến sự bất điều hòa của toàn thân thể. Tâm không điều hòa cũng giống như vậy. Tâm lý của chúng ta nếu có hiện tượng khác thường, hoặc có phiền não, thì sẽ khiến cho toàn bộ tinh thần cảm thấy bất an. Nói như vậy, bệnh hoạn của thế gian sẽ rất nhiều, từ thân tâm của mỗi chúng sinh mà khuếch đại đến quốc gia, xã hội, nhẫn đến toàn thể thế giới, không đâu là không có đủ thứ bệnh hoạn. Nếu như cha con, vợ chồng, anh em trong một gia đình không hòa thuận, thì gia đình này đang có bệnh, nếu như những phần tử trong một đoàn thể không hòa thuận, thì đoàn thể này đang có bệnh. Nói rộng ra, chánh trị không đi đúng quỹ đạo thì quốc gia có bệnh, nhân loại không hòa thuận với nhau thì thế giới có bệnh. Có bệnh tức là có khổ, cho nên có đủ loại tai nạn, đủ loại thống khổ, đưa đến những sự xung đột, bất hòa mà sản sinh đủ thứ loại bệnh. Nói về phương diện cá nhân, lúc bình thường, chúng ta có thể cho rằng mình không có bệnh, nhưng thật ra, y theo Phật pháp mà nói: “Đời người không có lúc nào không có bệnh”, chẳng qua là vi tế nên chúng ta không biết mà thôi. Đời người xưa nay không thể tách rời khỏi sự bệnh hoạn. Chúng ta đã sinh làm người, nhất định có thân có tâm, có tổ chức sinh lý “ngũ tạng lục phủ[2]”, v.v…, nhưng những nguyên nhân của tổ chức nay thường phát sinh mâu thuẫn, thường ở trong trạng thái bệnh hoạn. Chẳng qua, nếu có thể khiến cho chúng được điều hòa, hoặc đa số thành phần được điều hòa, thì thân thể được gọi là khỏe mạnh. Từ ý nghĩa này mà nhìn, tất cả mọi sự vật trên thế gian, có thống khổ, có tai nạn, tức là không có gì mà không phải bệnh.

Chúng ta có bệnh thì cần phải dùng thuốc để trị bệnh. Thuốc men của thế gian, cùng với chánh trị, pháp luật, đều có thể gọi là thuốc. Thế nhưng, trong Phật pháp, thuốc tức là Phật pháp – pháp dược. Chỉ có Phật pháp mới có thể trị liệu tất cả bệnh tật. Vừa rồi, chúng ta nói bệnh có đủ loại khác nhau: thân tâm, gia đình, đoàn thể, quốc gia, thế giới. Hễ là có thể giảm trừ sự khổ đau, khiến cho sự thống khổ biến thành an lạc, đều có thể gọi là “dược” (thuốc)! Nhân đây có thể nói rằng thế gian cái gì cũng là thuốc, chẳng qua chúng ta không biết mà thôi. Nếu như biết được thì sự vật gì cũng có thể trị bệnh. Thuở xưa có một người học nghề thuốc, lúc sắp sửa tốt nghiệp, vị thầy muốn khảo nghiệm xem học lực của người học trò như thế nào bèn bảo ông ta lên núi, hễ thấy thuốc thì hái đem về. Người học trò đi lên núi cả một ngày, rốt cuộc trở về tay không. Vì thầy hỏi ông ta tại sao lại trở về tay không? Người học trò trả lời là tất cả cây cỏ, đất đá trên núi, món nào cũng đều là thuốc. Thuốc quá nhiều, thành thử không biết hái thứ nào! Điều này muốn nói rằng, tất cả sự vật trên thế gian đều là thuốc, đều có thể trị bệnh, vấn đề là người sử dụng thuốc có hiểu rõ tính chất của thuốc hay không? Có biết tùy bệnh mà cho thuốc hay không? Phật pháp là “bất định pháp”, chúng sinh có đủ loại bệnh, đức Phật dùng đủ loại pháp dược để đối trị. Nhân vì Phật pháp là y vào bệnh của chúng sinh mà thi thiết, cho nên chúng sinh có tám vạn bốn ngàn phiền não, đức Phật bèn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Có căn bệnh nào thì dùng loại thuốc đó dể trị liệu, nếu như cố chấp cho rằng đây là “thuốc”, kia không phải là “thuốc”, thì đây là đã xa lìa Phật pháp.

Đối với vấn đề “thuốc” và “bệnh”, như đã nói ở phần trên. Hiện nay bàn đến “dược sư”, tức là người có thể biết được căn bệnh, có thể sử dụng thuốc để trị bệnh. Phật pháp nói có hai loại “dược sư”, một là tiểu dược sư, hai là đại dược sư. Y thuật của tiểu dược sư không được cao minh, mà kho thuốc cũng chỉ có một vài món thuốc, chỉ có thể trị liệu một vài loại bệnh. Còn đại dược sư thì lại khác, trong kho thuốc của ông ta có đầy đủ các loại thuốc, hơn nữa, y thuật lại cao minh, có thể biết rõ bệnh tình, sử dụng thuốc men một cách tinh vi chính xác. Đây là ví dụ cho chư Phật Bồ tát, đầy đủ trí tuệ thâm sâu, nguyện lực vĩ đại, bi hạnh rộng lớn, có đủ loại pháp môn, đủ các loại “diệu dược”, chúng sinh có loại bệnh nào thì sẽ có loại thuốc đó để chữa trị. Đối với các loại bệnh hoạn đủ các triệu chứng kỳ dị quái gỡ đều có thể bào chế trăm ngàn các loại thuốc thích nghi, đều có thể vận dụng tự tại, không hề sai lầm, quyết chắc không phải các “tiểu dược sư” cố chấp một phương một pháp mà có thể so sánh được!

Dược sư trị bệnh có hai phương pháp là “tiêu trị” và “bổn trị.” Tiêu trị là đau đầu trị đầu, đau chân trị chân; bổn trị là cứu xét căn bệnh để tiêu trừ căn bệnh một cách triệt để. Lối điều trị căn bệnh tốt nhất là một mặt bồi dưỡng nguyên khí, một mặt đề phòng những nguyên nhân gây bệnh, cũng tức là điều trị khi căn bệnh chưa phát sinh, đây mới là phương pháp trị liệu thượng đẳng. Trên phương diện tâm lý, chẳng hạn như dạy bảo những tri kiến chính đáng, tin nhân quả, tin Tam bảo; đối với vấn đề khỏe mạnh sinh lý, chỉ dạy việc chú trọng vệ sinh, siêng năng vận động, sinh hoạt điều hòa chừng mực. Thân tâm nếu như dự phòng đúng mức, trên căn bổn sẽ không bị bệnh. Nếu như không chịu dự phòng, đợi đến khi có bệnh thì mới dùng thuốc trị liệu, thì đây chỉ là phương pháp trị liệu hạ đẳng. Sự trị liệu này tuy cần thiết, nhưng rốt cuộc cũng không bằng lối trị liệu (dự phòng) trước. Tục ngữ có nói: “Trị liệu bằng mổ xẻ tuy tốt, nhưng không mổ xẻ thì càng tốt hơn.” Nói đến phương pháp “bổn trị” (trị gốc), tức là bồi dưỡng sự khỏe mạnh của thân tâm, khiến cho lúc bình thường, thân thể được phát triển quân bình, tiêu trừ nguyên nhân của bệnh tật. Trị căn bệnh cho gia đình, trị căn bệnh cho quốc gia cũng giống như vậy. Nếu như để cho bệnh phát sinh rồi mới đi tìm cách trị liệu, thì đã trễ một bước. Các dược sư “thượng đẳng” có thể tiêu trị, bổn trị, vấn đề là tại bổn thân của người bệnh. Nếu như thầy thuốc bảo họ chú trọng vệ sinh, đề phòng nguyên nhân của sự bệnh hoạn, họ lại không chịu nghe lời, kết quả là bị ngã bệnh.

Đức Phật trị bệnh cho chúng sinh cũng có hai phương pháp: tiêu trị và bổn trị. Sau khi quy y Tam bảo, có thể y vào giáo pháp mà tuần tự tu tập, từ trong nguyện hạnh dần dần thể nghiệm. Các loại phiền não, các loại thống khổ tự nhiên sẽ dần dần giảm thiểu cho đến lúc hoàn toàn tiêu diệt, để đạt đến sự thực hiện lý tưởng tối cao. Thế nhưng, người bình thường không thể làm như vậy, không biết tuần tự tiến tu, không biết bảo trì, khuếch sung những điều thiện, không biết giảm trừ những điều xấu, mà lại để cho chúng ngày càng tăng trưởng. Không biết tự điều phục thân tâm, không biết cách xử lý việc gia đình, không biết khéo trị lý quốc gia, làm cho phát sinh vấn đề, vô biên thống khổ! Phật pháp vì muốn cứu trị mọi loại bệnh khổ thân tâm của chúng sinh nên mới có pháp môn “tiêu trị” tiêu tai miễn nạn. (Đối với) người bệnh, họ không tránh khỏi bị quở trách là “lúc bình thường không đốt nhang (tưởng nghĩ đến Phật), đợi đến lúc cần kíp thì mới ôm chân Phật (cầu khẩn).” Thế nhưng, nếu người bệnh thành khẩn hối lỗi, khẩn thiết cầu Tam bảo gia bị, thì cũng không bị mất cơ hội được “tiêu tai tăng phước.” Chỉ sợ họ không biết mình có bệnh, không tìm cầu sự trị liệu thì mới bị chết mà thôi. Cho nên, nếu như có thể thiết thực y giáo phụng hành, khổ nạn không tiêu trừ cũng sẽ tự nhiên được tiêu trừ, phước tuệ không tăng trưởng cũng sẽ tự nhiên được tăng trưởng. Nếu mọi người muốn cầu “miễn nạn diên thọ, tiêu tai chướng”, thì cần phải phụng hành cả hai pháp “tiêu trị” và “bổn trị.”

Y vào phương tiện trị bệnh của đức Phật, còn có thể phân làm hai loại là: (a) chánh trị và (b) kỳ trị. Chánh trị là lối trị liệu thông thường, còn kỳ trị là lối trị liệu đặc biệt. Chất độc là một loại làm tổn hại con người, thế nhưng, đối với một danh y, ngay cả tỳ sương (một loại chất độc cực mạnh) cũng có thể dùng làm thuốc, đây là một loại “kỳ trị.” Thế nhưng, kỳ trị không phải dễ dàng, thường hay phát sinh nguy hiểm, còn lối trị liệu thông thường (chánh trị) thì tương đối thỏa đáng, an toàn, không đến nổi phát sinh dị chứng. Phương pháp trị liệu của đức Phật cũng có “chánh thường đạo” và “biện pháp đặc thù.” Như đức Phật nói “vô ngã”, là pháp “chánh trị” căn bổn, thế nhưng, có những chúng sinh không hiểu rõ, sinh tâm sợ hãi, hoặc là hiểu sai ý của Phật, bèn mạt sát nhân quả, theo ác chống thiện, đức Phật nhân đây, không thể không nói “hữu ngã” để chỉnh đốn sự lầm lạc của họ. Trong việc từ bi tế độ chúng sinh, có rất nhiều loại phương tiện “chánh dụng”, “phản dụng” như vậy. Nói chung, toàn là quán sát chúng sinh mắc loại bệnh nào thì dùng loại thuốc đó để trị liệu. Đường chánh (chánh trị – trị liệu theo lối thông thường) tuy xa nhưng bằng phẳng dễ đi, còn đường tắt (kỳ trị – trị liệu đặc biệt) tuy gần nhưng lại gập ghềnh nguy hiểm. Đối với điều này, người tu học Phật pháp không thể không hiểu rõ trước hết.

“Dược sư”, vốn là tên gọi chung cho tất cả chư Phật, bởi vì chư Phật đều có thể khéo trị liệu tất cả các căn bệnh của chúng sinh. Chư Phật xem xét các loại bệnh tình của chúng sinh, có thể thi thiết vận dụng các loại pháp dược – tám vạn bốn ngàn pháp môn tức là tám vạn bốn ngàn pháp dược. Nếu như phân biệt khái quát, thì có pháp dược cho trời người, pháp được cho Thanh văn, cùng pháp dược cho Bồ tát, v.v… Ước định ý nghĩa này, tất cả chư Phật đều là “Vô thượng y vương”, đều là “Đại dược sư”, chẳng qua, đức Như Lai của Tịnh độ Đông phương, đặc biệt xem trọng vấn đề “tiêu tai miễn nạn”, đặc biệt xem trọng vấn đề chữa trị “thân bệnh” cho chúng sinh, cho nên đặc biệt gọi tên ngài là Dược Sư. Chỉ có đức Phật là vị Dược sư cứu cánh vô thượng, nhưng các đệ tử của Phật, y vào Phật pháp tu học, hoặc giảng thuyết để lợi lạc, hóa độ hữu tình, ít nhiều cũng đã học tập “pháp dược” của đức Phật, ít nhiều cũng có thể trị liệu bịnh khổ của chúng sinh, cho nên cũng có thể gọi là “Dược sư.”

(2) Lưu Ly Quang.

Lưu Ly Quang cũng là một tên gọi của đức Phật phương Đông. Trong đây nói đến “lưu ly”, không phải là loại lưu ly của “đèn lưu ly”, “ngói lưu ly”, v.v…, mà là lược dịch tiếng Phạn “bích lưu ly”, là một loại báu vật, màu sắc giống như bầu trời màu xanh lơ hoàn toàn không một áng mây. Lại giống như màu nước biển trong vắt hoàn toàn không vẫn đục. Thể chất cứng rắn, giống như đá kim cương, là một loại trân bảo rất hiếm có. Đây là dùng sự rực rỡ sáng sạch để ví dụ cho Phật đức, cho nên Phật Dược Sư ở phương Đông, cũng được gọi là Lưu Ly Quang.

“Lưu ly bảo”, hoặc được dịch là “viễn sơn bảo” (báu ở núi xa). Y theo Phật giáo mà nói, thế giới này của chúng ta, ở chính giữa là núi Tu Di, chung quanh núi là bốn bộ châu. Bốn sườn của núi Tu Di là do các chất báu làm thành. Sườn núi đối diện với Nam Thiệm Bộ Châu là do chất lưu ly bảo tạo thành. Ánh sáng của sườn núi phản chiếu lên không trung nên bầu trời trở thành màu xanh lơ, cho nên “lưu ly” dịch nghĩa là “viễn sơn bảo.” Hiện nay các nhà khoa học đối với lý do tại sao bầu trời có màu xanh lơ, dĩ nhiên là có sự giải thích của riêng họ. Nhưng Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ cho nên sử dụng kiến thức của người Ấn Độ vào thời bấy giờ, giải thích là do ánh sáng của lưu ly bảo chiếu lên không trung mà phản ánh thành màu xanh.

Chư Phật và Bồ tát đều y vào đức hạnh mà thiết lập danh hiệu. Thế nhưng Phật đức cao vời, không có ngôn từ nào có thể diễn tả đầy đủ, cho nên chỉ có thể từ một đặc tính của Phật đức (tự lợi lợi tha), hoặc dùng ví dụ để miễn cưỡng diễn tả. Chẳng hạn như Tu Di Sơn Vương Phật, là dùng sơn vương (núi vua) nguy nga cao vút để so sánh với sự vĩ đại cao vời của Phật đức; hoặc như Chiên Đàn Hương Phật, là nhân vì mùi hương (tiếng tốt) của Phật đức truyền xa (mọi người đều nghe biết), cho nên dùng (ví dụ) Chiên Đàn Hương để lập danh; lại như Lôi Âm Vương Phật, là hình dung pháp âm của Phật chấn động khắp nơi, giống như tiếng sấm trên không trung chấn động lòng người. Danh hiệu của Phật, hoặc dùng đức tính, hoặc dùng ví dụ để an lập. Ở đây, Lưu Ly Quang cũng là dùng sự so sánh để tán thán đức tính của Phật. Hàm nghĩa của Lưu Ly Quang, hiện nay nói lược hai điểm:

(a) Y vào tâm cảnh chúng sinh mà nói: 

Bổn kinh lấy Tịnh độ phương Đông là thế giới Tịnh Lưu Ly, đức Phật tên là Lưu Ly Quang Như Lai, phụ giúp đức Phật tuyên dương chánh pháp là hai vị Bồ tát Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu. Phần trên đã nói qua, Lưu ly bảo tức là viễn sơn bảo, Lưu ly quang là do ánh sáng của viễn sơn bảo ánh hiện lên không trung, hơn nữa, hai vị Bồ tát này dùng tên để ví dụ cho đức tính, đương nhiên giống như Nhật, Nguyệt du hành trên bầu trời, chiếu sáng tất cả. Chúng sinh – nhân loại, trong quá trình sinh tử luân hồi, đều có khuynh hướng và mong mỏi hướng thượng, hướng quang minh. Đức Phật tùy thuận thích ứng với tâm cảnh của chúng sinh, cho nên cũng dùng bầu trời trong sáng và mặt trời mặt trăng (Nhật Nguyệt) để tượng trưng đức tính của Như Lai. Sự hướng thượng, hướng quang minh là niềm hy vọng căn bổn chung của toàn thể nhân loại. Các tôn giáo đa thần sùng bái Mặt trời, Mặt trăng; Thượng đế của đạo Ky Tô, tuy nói là vô hình vô ảnh, nhưng thấy Thượng đế cũng vẫn là ánh sáng rực rỡ. Lại như tôn giáo Ấn Độ sùng bái chư Thiên, ý nghĩa của Thiên (tiếng Phạn là Deva) cũng là quang minh. Cho nên sự ngưỡng vọng của nhân loại đối với ánh sáng mặt trời mặt trăng, hoặc bầu trời trong sáng, cũng chỉ là biểu hiện sự mong cầu quang minh và thanh tịnh của nội tâm. Bổn tính của nhân loại là hướng về quang minh, chẳng qua, như những người tri thức ấu trĩ (bán khai), tin vào các thần (Mặt trời, Mặt trăng), tin vào quỷ, mà không thể tự giác ý nghĩa chân thực của sự ngưỡng vọng quang minh – là quy hướng về đức Phật, dẫn phát sự thực hiện sự minh tịnh của Phật tánh. Cho nên pháp môn Dược Sư là dùng quang minh của bầu trời xanh và mặt trời mặt trăng để biểu trưng công đức của chư Phật Bồ tát, hiển thị cảnh giới lý tưởng tối cao của nhân loại.

Quang minh trên thế gian không gì hơn là Nhật quang và Nguyệt quang. Hai loại quang minh này đều là thanh tịnh, tượng trưng cho hy vọng và hạnh phúc, thế nhưng ít nhiều có sự khác biệt. Nhật quang thì ấm áp, có nhiều sức nóng. Tất cả mọi vật, dưới ánh sáng mặt trời, đều có thể phát triển một cách rõ rệt. Đây ví dụ cho ánh sáng trí tuệ, có thể cung cấp sức nóng (nhiệt lực) cho thế gian, có thể phá thủng sự ngu muội, chiếu soi tất cả, thông đạt chân tướng của pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Còn nguyệt quang thì mát mẽ, an ninh, tĩnh lặng, ánh trăng trong đêm tối, phát ra ánh sáng mát mẽ, dẫn đạo nhân sinh đi trên con đường chân chánh, tránh khỏi sự nguy hiểm, có đầy đủ ý nghĩa “đại từ đại bi tế độ.” Nhật quang đem đến cho loài người nhiệt lực, ánh sáng, hạnh phúc và hy vọng, nguyệt quang đem đến cho loài người cảnh giới mát mẽ, an ninh, và tĩnh lặng. Ánh sáng và sức nóng có thể kích phát chúng ta phấn chấn hướng thượng, nhưng mát mẽ và tĩnh lặng có thể đào luyện “tính linh” của chúng ta, đạt đến tự tại và an định. Cả hai đều là đối tượng cần thiết cua nhân sinh.

Trong thế giới hiện nay, mọi người đều có ý nguyện hướng về quang minh, nhân sinh cần phải có quang minh của nhân sinh, xã hội cần phải có quang minh của xã hội. Trung Quốc thời xưa có bốn chữ “Quang thiên hóa nhật”, là hình dung một xã hội quang minh. Hiện nay, Trung Hoa Dân Quốc dùng dấu hiệu “Bầu trời xanh, mặt trời trắng, đất màu hồng”, là tượng trưng quốc gia dân tộc (Trung Hoa) sẽ được sinh sống trong quang minh hạnh phúc, dưới sự tự do bình đẳng của “bầu trời xanh, mặt trời trắng” (Hán: thanh thiên bạch nhật). Vào đời Đường, hoàng đế Võ Tắc Thiên, có hoài vọng là đem tư tưởng Phật giáo vào chánh trị, bà ấy muốn chánh trị vận hành theo chánh pháp, để mọi người có được một cuộc sống hạnh phúc an lạc, cho nên đặc biệt tạo ra chữ (曌) làm danh hiệu riêng cho mình, chữ (曌) đọc là chiếu, có ý nghĩa là “nhật nguyệt lâm không” (mặt trời mặt trăng trên không).

Do đây, có thể thấy được sự khát khao của bà ấy đối với một viễn cảnh quang minh hạnh phúc.

Phần trên chỉ là khuynh hướng quang minh của những người bình thường, thế nhưng, chỉ có Phật pháp mới có thể chân thật dẫn đạo chúng ta đạt đến mục tiêu rốt ráo, khiến cho chúng ta đạt đến quang minh rốt ráo của đời người (nhân sinh). Cho nên, chỉ khi nào mọi người đều cùng nhau bước đi trên con đường lớn (Hán: đại đạo) của Phật pháp, thì mới có thể hoàn thành sự viên mãn cứu cánh của đời người, mới có thể khiến cho chúng ta đạt đến cảnh giới quang minh vĩnh cửu, quang minh vô hạn.

(b) Ước định cảnh giới chứng đắc của đức Phật mà nói.

Cảnh giới chứng đắc của đức Phật, vốn không thể dùng tâm để suy ngẫm, dùng miệng để luận bàn (Hán: tâm tư khẩu nghị), bình đẳng bình đẳng, không có sự sai biệt, xa lìa tất cả cảnh tướng. Ước định từ “sự xa lìa vô minh che chướng để đạt đến sự chứng ngộ của Phật” mà nói, gọi cảnh giới tự chứng của đức Phật là pháp giới thanh tịnh tối cao, giống như hư không thanh tịnh, gọi là “tất cánh không”, hoặc gọi là “không tánh”, đều là từ sự hiện chứng “chân tánh” mà nói. Lưu Ly Quang tức là cảnh giới tự chứng của đức Phật. “Như như trí” khế hợp “như như lý”, trong “nhất pháp giới” bình đẳng, hiển phát vô biên quang minh (công đức thanh tịnh), rực rỡ trong sạch, bình đẳng vô sai biệt (không phải là một tổ hợp hỗn độn tạp nhạp), cho nên dùng Lưu Ly Quang ví dụ cảnh giới tự chứng của chư Phật. Cảnh giới viên mãn của Phật quả, thực tại bất khả tư nghì, bất khả ngôn thuyết, cho nên trong Kinh thường dùng “nhân đức” của Bồ tát để diễn tả “quả đức” của Như Lai. Như đức Phật Tỳ Lô Giá Na (có nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu), dùng hai vị Đại sĩ Văn Thù và Phổ Hiền để biểu trưng Đại trí và Đại hạnh của đức Phật. Hoặc dùng bốn vị Đại bồ tát để biểu trưng: bi (Quán Âm), trí (Văn Thù), hạnh (Phổ Hiền), nguyện (Địa Tạng). Bổn kinh dùng hai vị Bồ tát Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu để biểu trưng Đại trí tuệ (Nhật Quang) và Đại từ bi (Nguyệt Quang) của đức Phật Dược Sư, giống như ánh sáng mặt trời mặt trăng chiếu khắp thế gian, cứu độ tất cả. Vô lượng vô biên công đức của đức Như Lai Dược Sư được biểu hiện một cách đầy đủ bởi đức tính của hai vị Bồ tát này. Nhân đây, đức Phật Dược Sư còn có tên là Lưu Ly Quang, cõi nước của ngài là thế giới Tịnh Lưu Ly, Bồ tát (thị giả) là Nhật Nguyệt Quang Biến Chiếu là đầy đủ ý nghĩa thâm sâu này.

Thế giới Tịnh Lưu Ly ở phương Đông biểu thị đức Phật hiện chứng pháp giới thanh tịnh, Lưu Ly Quang biểu thị đức tính của Vô thượng Bồ đề khế chứng pháp giới. Lại nữa, Lưu Ly Quang (bầu trời xanh) là bổn thể, Nhật Nguyệt vận hành trên bầu trời xanh, phóng ra ánh sáng, có thể nói là từ Lưu Ly Quang phát khởi diệu dụng. Người Trung Quốc xưa nay xem trọng mặt trời, ít biết thưởng thức mặt trăng, cho nên xem trọng sự ấm áp, nhiệt lực, quang minh, hy vọng, nên nói “Quang thiên hóa nhật”, v.v… Thế nhưng, người Ấn Độ lại đặc biệt có nhiều hứng thú đối với mặt trăng. Ấn Độ (India) có thể giải thích là “mặt trăng”; tư tưởng văn hóa Ấn Độ (trong đó có Phật giáo), đều đặc biệt xem trọng đức tính của sự an ninh, tĩnh lặng, mát mẽ. Những năm gần đây, cục diện thế giới càng lúc càng khẩn trương, trào lưu văn hóa càng lúc càng sôi động, đức tính an ninh, tĩnh lặng, mát mẽ của nhân sinh càng lúc càng suy thoái. Xưa nay, động và tĩnh, nhiệt liệt và an tĩnh, ánh sáng rực rỡ và ánh sáng le lói, ấm áp và mát mẽ, cần phải điều hòa và quân bình với nhau. Những điều này đối với sự phát triển của nhân sinh, đối với sự an định của thế giới đều là vô cùng cần thiết. Chúng ta học Phật, từ phàm phu đạt đến bậc thánh – cảnh giới của Phật, cần phải phát huy đức tính của cả hai mặt này. Để đối trị sự kiêu cuồng, hỗn loạn của loài người, thì cần phải xem trọng sự mát mẽ và tĩnh lặng. Đức Như Lai Lưu Ly Quang đã biểu hiện đầy đủ cả hai phương diện này, cho nên ngài là một đấng cứu tế trị liệu tất cả khổ nạn bệnh hoạn của thế gian.

(3) Như Lai.

Dược Sư Lưu Ly Quang là tên riêng của một vị Phật, còn Như Lai là tên gọi chung của chư Phật. Phàm là chứng đắc Phật quả Vô thượng, đều có thể gọi chung là Như Lai. Tiếng Phạn Tathāgata có ba nghĩa: Như Lai, Như Giải và Như Thuyết.

– Như Lai: Như, có nghĩa là như vậy, không có sự sai khác. Bồ tát khi đạt đến công hạnh viên mãn, dùng trí tuệ tối cao, thể chứng chân lý cứu cánh, chân lý này tức là “như.” Chư Phật là từ sự khế hợp với chân như bình đẳng bất nhị này mà đến, cho nên gọi là Như Lai.

– Như Giải: Đức Phật có trí tuệ vô thượng, đối với tất cả pháp tướng thế gian xuất thế gian, không pháp nào mà không thông đạt chính xác, tuyệt nhiên không có sự điên đảo sai lầm, vì hiểu rõ thực tướng của các pháp cho nên gọi là Như Giải.

– Như Thuyết: Đức Phật không những thấy hiểu chính xác, mà khi thuyết pháp, ngài cũng giảng nói như thực, cần phải nói thế nào thì ngài nói như thế ấy, “có”, như thực nói có, “không”, như thực nói không, nói đúng với những gì đáng nói, cho nên trong kinh xưng tán đức Phật là bậc “nói thực”, “nói đúng”, “không nói dối”, “không nói khác.”

Như Lai, Như Giải, Như Thuyết đều là công đức của đức Phật, nhưng người phiên dịch vì không thể dịch ba nghĩa cùng một lúc nên phải dịch chung là Như Lai.

(4) Bổn Nguyện Công Đức.

Nguyện là “lòng mong cầu” (Hán: nguyện dục), “bổn nguyện”, tức là những đại nguyện mà Bồ tát tuyên thệ khi phát Bồ đề tâm. Tu học Phật pháp, trước tiên cần phải phát nguyện. Có thể nói phát nguyện là căn bổn cho sự tu hành thành Phật. Bồ tát lúc tu nhân, phát nguyện có thông (nguyện) và biệt (nguyện). Như nguyện thành Phật đạo, nguyện độ chúng sinh, và Tứ hoằng thệ nguyện (Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, v.v…), gọi là thông nguyện. Còn như đức Phật A Di Đà phát Bốn mươi tám nguyện, đức Phật Dược Sư phát Mười hai đại nguyện, đây là biệt nguyện. Mọi người chớ nên hiểu lầm, cho rằng phát nhiều nguyện thì công đức lớn, phát ít nguyện thì công đức nhỏ. Nên biết, nguyện lực của chư Phật là bình đẳng bình đẳng. Nguyện là động lực khiến cho phàm phu tiến hướng đến Phật quả, nếu không có nguyện thì sẽ không thành tựu được gì cả. Không chỉ tu học pháp môn Đại thừa, mà ngay cả tu học pháp môn Tiểu thừa, nếu không có nguyện cũng không thể thành tựu. Cho nên tu học Bồ tát, trước tiên cần phải lập định chí nguyện, sau đó từ nguyện khởi hạnh, y vào hạnh mà chứng đắc. Phật A Di Đà và Phật Dược Sư lúc còn là Bồ tát tu nhân, đã phát thệ nguyện rộng lớn, đến lúc tu hành đạt được mục đích, thì nguyện cũng được thành tựu viên mãn. Tựa đề của kinh chỉ nêu “Bổn Nguyện Công Đức”, nhưng trong kinh lại nói đến hạnh nguyện rộng lớn, đủ thấy “hạnh” là tâm yếu của việc thực tiển chí nguyện. Chúng ta mỗi ngày phát nguyện, thế nhưng, phần lớn đều chỉ phát nguyện mà không chịu thực hành, cho nên không thể thực hiện mục đích học

Phật là tự lợi và lợi tha.

Công đức, không phải chỉ là làm những “công quả” ở trong chùa chiền. “Công”, là công lực, như thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, lạy Phật, ngồi thiền, v.v…, tất cả đều cần phải một phen nỗ lực. “Đức”, là đắc (được), tu hành mà đạt được thành tích, làm một phần được một phần, thì gọi là công đức. Y vào bổn nguyện mà thực tiển, thì công đức được thành tựu, gọi là “bổn nguyện công đức.”

(5) Kinh.

Kinh, tiếng Phạn là tu đa la (sutra), vốn có nghĩa là sợi dây dùng để “giữ gìn không cho rời rạc.” Lúc đức Phật còn tại thế, ngài tùy cơ thuyết pháp, kinh điển lưu hành hiện nay là, (sau khi đức Phật diệt độ), do đệ tử của đức Phật tập thành. Các loại pháp môn được quán xuyến lại với nhau một cách có tổ chức, giống như các đóa hoa rời rạc được xâu lại với nhau thành vòng hoa thì sẽ không bị lạc mất. Kinh cũng giống như vậy, khi đức Phật còn tại thế, ngài tùy địa phương mà thuyết pháp, nếu không biên tập lại thì khó mà bảo tồn được lâu dài. Pháp mà đức Phật giảng thuyết là chân lý và đức hạnh cứu cánh, có thể cung cấp cho chúng ta sự học tập lâu dài, sự theo đuổi lâu dài, cho nên kinh cũng bao hàm ý nghĩa “pháp tắc thường hằng.” Đức Phật giảng nói gọi là kinh, còn đệ tử Phật luận thuật (những lời Phật dạy) thì không gọi là kinh, mà gọi là luận. Đây là biểu thị sự tôn kính đức Phật. Như Trung Quốc thời cổ, những sách vở có giá trị như Thư, Thi, Dịch cũng được gọi là kinh.

Phần trên, đối với tựa đề của kinh phân ra để giải thích, hiện nay đem tựa đề tổng hợp trở lại. “Kinh”, là tên gọi chung của tất cả kinh điển Phật giáo, là “giáo”, là “pháp năng thuyên”. “Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức”, là “lý hành quả”, là “pháp sở thuyên.” Trong sở thuyên, “Bổn Nguyện Công Đức” là ước định hạnh nguyện của nhân địa mà nói, “Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai” là ước định quả đức mà nói. Trong phần quả đức, Như Lai là tên gọi chung của tất cả Phật, Dược Sư Lưu Ly Quang là tên gọi riêng của đức Phật giáo chủ của cõi Tịnh độ Đông phương. Trong phần tên gọi riêng, Dược Sư ví dụ cho Đại từ bi, Lưu Ly Quang nêu lên Đại trí tuệ của đức Phật. Trong tựa đề của kinh có đủ: nhân, quả, bi, trí. Phần kinh văn phía dưới tức là sự khai thị đầy đủ của bi, trí, nhân, quả, v.v…

Trích từ: Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Giảng Ký


Từ Ngữ Phật Học Trong: Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh

Kinh Sách Liên Quan

 
1.    Dược Sư Kinh Sám, Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, Việt Dịch
2.    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Giảng Ký, Đại Sư Thích Ấn Thuận | Hòa Thượng Thích Pháp Chánh, Việt Dịch
3.    Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích, Hòa Thượng Thích Tuyên Hóa | Ban Phiên Dịch Vạn Phật Thánh Thành, Việt Dịch
4.    Kinh Dược Sư, Hòa Thượng Thích Tuệ Nhuận, Việt Dịch
5.    Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang | Hòa Thượng Thích Huyền Dung, Việt Dịch
6.    Kinh Thần Chú Bát Cát Tường, Khuyết Danh | Thích Nguyên Lộc, Việt Dịch
7.    Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký, Đại Lão Hòa Thượng Thích Diễn Bồi | Sa Môn Thích Trí Minh, Việt Dịch
8.    Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Giảng Ký, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
9.    Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký, Cư Sĩ Lưu Thừa Phù | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
10.    Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Diệu Âm, Việt Dịch
11.    Phật Thuyết Đương Lai Biến Kinh Giảng Ký, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
12.    Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Tam Tạng Cương Lương Da Xá Gốc Người Tây Vực | Cư Sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Việt Dịch
13.    Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Ký, Lão cư sĩ Từ Tỉnh Dân | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
14.    Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm Giảng Ký, Pháp Sư Thích Khoan Nghiêm Ghi | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
15.    Trực Giải Kinh Dược Sư, Tỳ Kheo Linh Diệu, Tông Thiên Thai | Thích Thọ Phước, Việt Dịch
16.    Vãng Sanh Tịnh Ðộ Luận Giảng Ký, Đại Sư Thích Ấn Thuận | Hòa Thượng Thích Nhất Chân, Việt Dịch