Hôm nay chúng ta trực tiếp đi vào kinh văn, khởi giảng từ kinh văn. Thế nhưng giảng kinh văn, đề kinh thì không thể tỉnh lược, vẫn là phải xem đề kinh trước. Đề kinh của quyển kinh này, bổn hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư là đem bổn dịch đời Tống cùng bổn dịch đời Hán hợp lại, chân thật là không chê vào đâu được. Hội tập được rất là hoàn mỹ, đem ý nghĩa của 12 loại bản dịch kinh Vô Lượng Thọ đầy đủ viên mãn hàm nhiếp ở trong đó. Không chỉ riêng 12 loại bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ, thực tế mà nói, tất cả pháp mà Thế Tôn đã nói trong 49 năm đều không rời khỏi đề kinh này. Đề kinh chẳng khác gì cương lĩnh, tất cả đều bao hàm ở trong cương lĩnh này. Thế Tôn nói pháp là như vậy, mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai vì tất cả chúng sanh nói ra vô lượng vô biên pháp môn cũng không rời khỏi đề kinh này. Đề kinh chân thật là tổng cương lĩnh của Phật pháp đại viên mãn. Chúng ta từ trong đề kinh xây dựng tín tâm, từ trong tựa đề này mà thể hội “Tín, Giải, Hành, Chứng” viên mãn.
Đề kinh: “Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh”.
Vì để dễ dàng giới thiệu, chúng ta đem đề kinh phân làm tám đoạn nhỏ.
Đoạn nhỏ thứ nhất là chữ “Phật”.
“Phật” là dịch âm từ tiếng Phạn Ấn Độ. Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào triều nhà Hán, thông qua tiếp đãi của quốc gia, làm cuộc phiên dịch quy mô lớn. Công tác phiên dịch, thực tế mà nói là rất gian nan. Văn tự của Trung Quốc vào thời đó có thể nói là không nhiều, có rất nhiều ý nghĩa trong kinh điển mà văn tự Trung Quốc không có, thế là bất đắc dĩ phải tạo chữ. Vì để phiên dịch kinh Phật nên đã tạo ra rất nhiều chữ mới. Chữ “Phật” này chính là ngay lúc đó tạo ra, vào thời xưa không có chữ này. Phật là người, cho nên bên cạnh chữ này thêm vào một nhân đứng, âm là Phật, nên thành chữ “Phật”, đó là tạo thành một chữ mới. Phật giáo trước khi chưa đến Trung Quốc không có chữ này, đó là văn tự mới tạo. Chúng ta đọc chữ này thành chữ “Phật”, thực tế mà nói là lược xưng của “Phật Đà Da”, người Trung Quốc thích đơn giản, cho nên đem cái âm đuôi tỉnh lược đi, chỉ riêng gọi một chữ “Phật”, ý nghĩa là giác ngộ. Đó là mọi người đều biết. Bên trong bao hàm cả ba ý là “Tự Giác”, “Giác Tha”, “Giác Hạnh viên mãn”. Ba ý này rất là sâu, rất là rộng. Chúng ta học Phật chính là phải học giác ngộ. Giác thì không mê, giác mà không mê thì con người này liền thành Phật.
Chúng ta học Phật cũng đã học được không ít năm, tôi năm 26 tuổi bắt đầu học Phật, tiếp xúc được Phật pháp, năm nay hơn 70 tuổi rồi, có giác ngộ hay không vậy? Không thể nói là không có. Có! Nhưng chỉ là chút ít thôi, hay nói cách khác, đối với thế gian cùng xuất thế gian pháp không quá mê hoặc. Không mê chính là không bị nó xoay chuyển. Lời nói này giảng giải thế nào vậy? Người thông thường sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần sẽ khởi tâm động niệm, sẽ sanh tham sân si mạn; khi xem thấy đẹp, dễ nhìn thì nhìn nhiều một chút, nghe được thì thích nghe, đó chính là mê, mê rồi. Người giác ngộ thì đẹp hay không đẹp đều như nhau, là bình đẳng, tâm thanh tịnh. Vì sao nói đều là giống như nhau? Thành thật mà nói, “Phàm hễ có tướng đều là hư vọng”, đẹp mắt là hư vọng, không đẹp mắt vẫn là hư vọng, cho nên nó là bình đẳng. Tâm không bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, đó chính là giác ngộ.
Người học Phật chúng ta, mỗi giờ mỗi phút phải phản tỉnh, phải kiểm điểm, chính mình chân thật có giác ngộ hay không? Rốt cuộc giác ngộ đến mức độ nào? Chính ở ngay trong cuộc sống thường ngày, sáu căn tiếp xúc trong cảnh giới sáu trần để trắc nghiệm chính mình rốt cuộc có công phu hay không? Nếu như nghe người khác tán thán thì sanh tâm hoan hỉ; nghe người khác hủy báng trong lòng liền khó chịu, vậy thì không thể được, vẫn là một phàm phu thôi, vẫn phải sanh tử luân hồi trong sáu cõi, như vậy sao được chứ? Công phu chính ở tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, không luận là thế pháp hay Phật pháp, đều có thể giữ được rõ ràng, tường tận, thông suốt, thấu đáo, như như bất động, vậy mới gọi là học Phật.
Đồng tu học Phật chúng ta bước vào cửa Phật, bài khóa đầu tiên chính là tiếp xúc “Tam quy y”. Tam quy y chúng ta đã giảng rất rõ ràng, rất tường tận rồi, bạn rốt cuộc có quy hay không? “Quy” chính là quay về, quay đầu. Bạn rốt cuộc có quay đầu hay không? Y là nương tựa, bạn có nương tựa hay không? Nếu chỉ quy y trên hình thức, chỉ làm một nghi thức quy y nhưng trên thực tế không có quay đầu, không có nương tựa, thì quy y như vậy là giả, không phải thật, hữu danh vô thực.
- “Quy y Phật” là Giác mà Không Mê.
- “Quy y Pháp” là Chánh mà Không Tà.
- “Quy y Tăng” là Tịnh mà Không Nhiễm.
Ba điều này chúng ta có làm được hay không? Ba điều này đều ở trên đề kinh, có thể thấy được sự viên mãn của đề kinh này. Sau khi tự giác mới có thể giác tha. Thực tế mà nói, giác tha cũng là việc tương đối không dễ dàng gì. Vì sao chúng ta phải “giác tha” vậy? Giác tha chính là giáo hóa chúng sanh, chính ta chăm chỉ tu hành, tôi không đi giác tha, độ người, tôi độ chính mình thì tốt rồi, tôi hà tất phải đi độ người! Đợi khi tôi thành Phật rồi mới đi độ chúng sanh, có được không? Xin nói với các vị, nếu như các vị có ý niệm này thì tôi xin thành thật nói với các vị, các vị không thể thành được Phật. Vì sao không thể thành được Phật? “Tự giác” phá phiền não chướng, “giác tha” phá sở tri chướng; bạn phá phiền não chướng rồi, bạn mới thành Chánh Giác, cảnh giới này chính là địa vị của A La Hán, Bích Chi Phật, ở trong Viên Giáo gọi là Bồ Tát Thất Tín vị, Viên Giáo là Thất Tín trở xuống, ở trong Biệt Giáo gọi là Bồ Tát Tam Hiền, chưa đăng địa. Đây chính là nói, nếu bạn không phát tâm giúp đỡ người khác thì bạn không thể phá được sở tri chướng. Cho nên, nếu muốn thành Phật, nhất định phải phát tâm tự độ, độ người, toàn tâm toàn lực giúp đỡ người khác học Phật. Chúng ta biết được bao nhiêu thì giúp người khác bấy nhiêu, quyết định không bỏn pháp, công đức lợi ích này liền được thù thắng. Gọi là “Công đức lợi ích” chính là vừa rồi đã nói phá được hai chướng (phiền não chướng và sở tri chướng). Sau khi phá hai chướng rồi thì bạn là Bồ Tát thật, không phải là Bồ Tát giả, là Bồ Tát thật, là Pháp Thân Đại Sĩ mà trên kinh Hoa Nghiêm đã nói, vì sao vậy? Bạn đã siêu việt mười pháp giới, không những siêu việt sáu cõi mà còn siêu việt cả mười pháp giới, bạn đã chứng được pháp giới Nhất Chân, hay nói cách khác, bạn trải qua đời sống của Pháp Thân Đại Sĩ trong pháp giới Nhất Chân, vậy làm sao giống nhau được? Thế nhưng bạn vẫn chưa đạt đến được cảnh giới cao nhất, do đó bạn vẫn phải không ngừng “tự độ, độ người”, cần phải đem vô minh phá hết (vô minh chính là vọng tưởng), đoạn được trong sạch vắng lặng, thì bạn liền giác mãn rồi (mãn này chính là ý nghĩa của viên mãn, là vô minh vọng tưởng đoạn được trong sạch vắng lặng thì gọi là mãn), thành tựu Phật quả cứu cánh viên mãn.
Chữ Phật ở chỗ này chính là chỉ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta. Ngài đích thực đã chứng được quả Phật cứu cánh viên mãn. Kinh này là do Ngài nói, chỉ có quả Phật cứu cánh viên mãn mới có năng lực tuyên dương đại pháp cứu cánh viên mãn cho chúng ta. Chúng ta đọc bộ kinh này liền có thể lý giải sâu sắc. Bộ kinh này không những Thích Ca Mâu Ni Phật nói, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai, không một vị Phật nào mà không nói pháp môn này, không một vị Phật nào mà không tán thán Tịnh Độ. Cho nên chữ “Phật thuyết” chỗ này cùng với chữ “Phật thuyết” thông thường trong kinh điển là không như nhau. Trong các kinh khác để chữ “Phật thuyết” chính là Thích Ca Mâu Ni Phật nói, chỗ này để “Phật thuyết” là tất cả chư Phật Như Lai thảy đều nói bộ kinh này. Cảnh giới này không thể nghĩ bàn. Cho nên, ý nghĩa của chữ “Phật” này đặc biệt vô cùng sâu rộng.
Đoạn nhỏ thứ hai là “Thuyết”.
“Thuyết” chính là thuyết pháp. Thời xưa, chữ “Thuyết” cùng chữ “Duyệt” của hỉ duyệt là một chữ, thế nhưng khi đọc thì là hai âm. Chúng ta đọc Luận Ngữ, Luận Ngữ là sách xưa, trong Luận Ngữ học khi vừa mở đầu là “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”. Chữ “duyệt” này trên thực tế là “thuyết”, ở chỗ này phải đọc là “duyệt”, ý nghĩa là duyệt của hỉ duyệt, hay nói cách khác, người ưa thích thì Ngài mới nói, không thích thì không nói. Phật lấy việc độ chúng sanh làm bản nguyện, xem thấy chúng sanh căn cơ chín muồi, có thể tiếp nhận pháp môn này, Ngài rất là hoan hỉ, hoan hỉ không gì bằng. Tình hình này chúng ta bình lặng mà suy nghĩ thì có thể lý giải, Phật muốn giúp đỡ tất cả chúng sanh đều thành Phật, để có thể thành cứu cánh viên mãn Phật, mà trên thực tế tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật. Ý nghĩa của hai chữ “Thành Phật” này chúng ta nhất định phải tường tận, phải thông suốt. Như thế nào thì gọi là “Thành Phật”? Thành Phật có cái gì tốt, không thành Phật thì không như nhau hay sao? Xin nói với các vị, không thành Phật cùng thành Phật khác biệt nhau rất lớn. Không thành Phật bạn có phiền não, bạn có vọng tưởng, bạn có tai nạn, bạn có cái khổ, trên kinh Phật thường nói: “Sanh, Lão, Bệnh, Tử khổ”, ba khổ, tám khổ, bạn không cách gì rời khỏi. Sau khi học Phật, sau khi thành Phật rồi thì những cái khổ này vĩnh viễn thoát ly, hết thảy tất cả khổ của thế xuất thế gian thảy đều xả bỏ, đây chính là chỗ tốt của học Phật. Ngoài ra còn có một cái tốt nữa, chúng ta không thành Phật thì đối với vũ trụ nhân sanh là một mảng mù tịt, không biết được gì, đó là khổ. Sau khi thành Phật thì tận hư không khắp pháp giới, quá khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ không cùng, vị lai vô tận, không có thứ nào là không tường tận, không có thứ nào mà không thông suốt. Sự thông suốt đó không phải là tưởng tượng, không phải là suy đoán.
Mấy năm gần đây thế gian tai nạn rất nhiều, trong nước ngoài nước có rất nhiều sách dự ngôn. Lần này tôi từ Úc châu trở lại, gặp thầy Ngộ Hạnh, thầy nói với tôi, khi đi dạo nhà sách thầy xem thấy có mười mấy loại do người nước ngoài viết, đều dự đoán tương lai có những tai nạn gì. Những dự đoán này có chuẩn hay không? Chưa hề thấy! Vì sao chưa hề thấy? Bởi vì dự ngôn của họ đều là từ trong số học mà suy đoán ra, có lúc tính sai, chỉ cần tính sai một chữ số rất nhỏ thì không chuẩn. Phật nói cho chúng ta nghe thì rất chuẩn, vì sao Ngài nói chuẩn được như vậy? Ngài chính mình thấy được, mắt thấy, tai nghe thì có lý nào mà không chuẩn chứ? Phật ra đời vào 3.000 năm trước, xã hội hiện tại mà 3.000 năm trước Phật đã biết rõ như trong bàn tay, Ngài giảng được rất rõ ràng, rất tường tận. Các vị đồng tu đã đọc qua kinh Lăng Nghiêm, trong kinh Lăng Nghiêm nói tình hình xã hội hiện tại của chúng ta rất tỉ mỉ, nói được không sai, nói thời kỳ Mạt Pháp (chính là chỉ thời đại này của chúng ta, sau 2.500 năm) là “đấu tranh kiên cố”, quốc gia cùng quốc gia đấu tranh, trong xã hội đoàn thể cùng đoàn thể đấu tranh, cá nhân cùng cá nhân đấu tranh, vợ chồng hai người còn cãi nhau, đều vẫn không thể tránh khỏi đấu tranh. Cho nên đấu tranh ngày nay có gì kỳ lạ? Nếu như không có đấu tranh, vậy lời của Phật nói chẳng phải sai rồi sao? Chúng ta xem thấy xã hội này đến đâu cũng gặp hiện tượng đấu tranh. Phật thật là cừ khôi, Ngài xem thấy được rõ ràng như vậy, tường tận như vậy. Ngài lại nói với chúng ta, hiện tại xã hội này “Tà sư nói pháp như cát sông Hằng”, những tà sư này là người thế nào vậy? Là ma tử ma tôn, chuyên môn đến phá họai chánh pháp. Số người này rất nhiều, Phật dùng cát sông Hằng để thí dụ, cũng chính là nói, loại tà sư nói pháp đầy rẫy trong xã hội này.
Ở thời đại này, chúng ta tiếp xúc được chánh pháp là chân thật như trên kinh đã nói: “Vô lượng kiếp đến nay, nhân duyên, phước đức, thiện căn chín muồi’, bạn mới có thể gặp được chánh pháp. Gặp được chánh pháp có thể “tinh tấn, không thoái chuyển” thì ngay trong đời này nhất định thành tựu. Thế nhưng trong số người gặp được chánh pháp, chúng ta xem thấy người thoái tâm quá nhiều. Vì sao họ có thể thoái tâm? Vì thiện căn, phước đức, nhân duyên không đầy đủ. Trong ba điều kiện này, chỉ cần có một điều kiện không đầy đủ thì họ liền thoái tâm. Nếu cả ba điều kiện đều không đầy đủ thì làm gì có chuyện không thoái chuyển chứ? Nhất định bị thoái chuyển. Cho nên chính chúng ta nếu muốn ở trên đạo nghiệp giữ được không thoái chuyển thì bạn phải đặc biệt đề cao cảnh giác. Nếu thiện căn phước đức của chúng ta kém một chút cũng không nên lo, duyên thù thắng thì được.
Chúng ta xem thấy trong chú giải kinh Quán Vô Lượng Thọ của Đại sư Thiện Đạo (chú giải của Ngài cũng gọi là Tứ Thiệp Sớ, được lưu thông rất rộng), chương Thượng Phẩm Thượng Sanh giảng được rất hay. Ngài nói, người niệm Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, bốn cõi, ba bậc, chín phẩm đều là do gặp duyên không như nhau. Câu nói này chúng ta quyết không nên khinh suất xem lướt qua. Duyên là quan trọng, chúng ta gặp duyên không như nhau. Nếu như duyên của chúng ta thù thắng, cho dù thiện căn, phước đức của chúng ta có mỏng một chút cũng đều có thể đạt đến được thượng phẩm thượng sanh. Cách nói của Ngài cùng với cách nói của những người trước Ngài không giống nhau. Về trước, thông thường các đại đức phần nhiều cho rằng thượng tam phẩm vãng sanh đại khái đều là Bồ Tát; trung phẩm vãng sanh phải là A La Hán, Bích Chi Phật; phàm phu vãng sanh chỉ ở hạ phẩm. Cách nói của người xưa là như vậy, Ngài Thiện Đạo không nói như vậy. Ngài Thiện Đạo nói không liên quan với đại tiểu thánh (đại thánh chính là Bồ Tát, tiểu thánh chính là Thanh Văn, Duyên Giác), mà là do duyên không như nhau. Câu nói này chính là nói phàm phu chúng ta đều có thể vãng sanh thượng thượng phẩm. Cái gì gọi là duyên? Đọc kinh mỗi ngày không gián đoạn, niệm Phật mỗi ngày không gián đoạn.
Vào đầu năm dân quốc, Trung Quốc chúng ta có một đạo tràng niệm Phật Linh Nham Sơn ở Tô Châu, đây là đạo tràng của Ấn Tổ. Đạo tràng này tu Phật thất suốt năm, mỗi ngày đều trì Phật thất, một năm 360 ngày không gián đoạn. Đây gọi là duyên. Bạn thấy, một người bước vào niệm Phật đường niệm Phật, một năm 360 ngày, mỗi ngày đều là Phật thất không gián đoạn, trong lòng nghĩ đến Phật, trong miệng niệm danh hiệu Phật thì sao họ không thành Phật chứ? Đương nhiên thành Phật, duyên thù thắng! Giả như họ niệm danh hiệu Phật được hai ba năm rồi rời khỏi niệm Phật đường, đi đến nơi khác lại chuyển đổi, vậy là thoái tâm rồi; nghe qua người này có cách nói của người này, người kia có cách nói của người kia, họ liền thay đổi chủ ý, bạn thấy, đây chẳng phải là duyên không đồng nhau hay sao? Niệm Phật như vậy, tham Thiền, học Giáo cũng không ngoại lệ. Cho nên duyên của pháp sư nghiên giáo rất thù thắng, tôi đã nghĩ rất nhiều năm rồi, luôn khởi vọng tưởng, đến hiện tại cũng không thể thành sự thật. Tôi nghĩ, nếu thật có chí đồng đạo hợp, chúng ta hướng đến toàn thế giới tuyên dương Phật pháp Đại thừa, phải nên thành lập một đoàn hoằng pháp; pháp sư giảng kinh đều tham gia tổ chức này, bình thường mỗi ngày ở trong nhà nghiên cứu thảo luận, mỗi buổi tối giảng kinh, một năm 360 ngày. Vào thời xưa có Giảng Tự chuyên môn giảng kinh. Thiên Thai, Hiền Thủ đều là Giảng Tự, một năm 360 ngày, mỗi ngày không gián đoạn, miệt mài một bộ kinh không xả bỏ, từng thiên từng thiên lặp lại giảng giải, không ngừng thâm nhập vào thì có lý nào mà không thành công chứ? Từ trong giải môn được định, khai trí tuệ, họ liền thành công. Như thời xưa, Đại sư Thanh Lương ở Ngũ Đài Sơn, Ngài chuyên giảng kinh Hoa Nghiêm. Đại sư Ngài cả đời đã giảng qua 50 bộ. Người sau chúng ta xem thấy truyện ký này thì ngưỡng mộ thật không nói ra lời. Bạn thử nghĩ xem, một người muốn học kinh Hoa Nghiêm, đến dưới tòa của Ngài Thanh Lương để nghe kinh Hoa Nghiêm, nghe 50 bộ thì làm sao họ không có thành tựu chứ? Nhất định thành tựu. Số lượng của kinh Hoa Nghiêm nhiều đến như vậy, một ngày giảng tám giờ đồng hồ. Thế Tôn năm xưa khi còn ở đời đã nói “nhị thời giảng kinh”. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở đời giảng kinh hai thời, chúng ta thường hay xem thấy ở trên kinh. Hai thời là hai thời của Ấn Độ thời xưa. Ngày đêm của Ấn Độ là sáu thời, ngày ba thời, đêm ba thời. Ban ngày gồm sơ nhật phân, trung nhật phân, hậu nhật phân. Ban đêm gồm sơ dạ phân, trung dạ phân, hậu dạ phân. Một ngày là sáu thời, một thời chính là bốn giờ đồng hồ hiện tại của chúng ta, hai thời chính là tám giờ đồng hồ hiện tại. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn ở đời một ngày giảng tám giờ đồng hồ. Mỗi ngày lên lớp tám giờ đồng hồ, trong lòng họ làm gì có vọng tưởng chứ? Không còn vọng tưởng. Đây là nói duyên thù thắng. Cư Sĩ Lâm chúng ta cũng xem là không tệ, mỗi buổi tối giảng kinh hai giờ đồng hồ. Trong 24 giờ đồng hồ, hai giờ đồng hồ tâm địa thanh tịnh nghe kinh nghe pháp, vẫn còn đến 22 giờ khởi vọng tưởng, bạn nói xem, làm sao được chứ? Duyên như vậy thì không được, 22 giờ khởi vọng tưởng thì kém xa, cho nên vì sao ngày nay chúng ta tu hành mà không thể có thành tựu? Vì sao tâm của chúng ta dễ dàng bị dao động? Đạo lý chính ngay chỗ này.
Năm xưa, đại khái khoảng 30 năm trước, tôi ở Đài Trung thân cận với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, vào lúc đó thư viện Từ Quang thành lập một giảng tòa Phật Học Đại Chuyên. Cư sĩ Thái Dinh Hoa của Malaysia là học sinh tốp đầu tiên của giảng tòa đó. Giảng tòa Phật Học Đại Chuyên khóa thứ nhất có bốn học sinh, cho nên tôi rất quen thuộc với họ. Thế gian vô thường! Cư sĩ Thái Dinh Hoa năm trước hay là năm kia đã qua đời rồi. Tôi thấy ông học ở trường học, xem thấy ông học Phật, xem thấy ông tốt nghiệp, xem thấy ông về hưu, xem thấy ông qua đời. Vô thường! Đây đều là đáng để cho chúng ta cảnh tỉnh.
Phật giáo dạy chúng ta phải thành tựu quả Phật cứu cánh viên mãn, không dạy chúng ta làm A La Hán, cũng không dạy chúng ta làm Bồ Tát, căn tánh như vậy đi đâu mà tìm? Thực tế mà nói, căn tánh như vậy không phải không có, mà duyên không có. Cho nên tôi đã nghĩ rất nhiều năm, hy vọng có được một thôn Di Đà để chúng ta cùng tu (đây là duyên), mỗi ngày ở nơi đây niệm Phật không gián đoạn, cũng giống lão pháp sư Đế Nhàn dạy cho người thợ vá nồi phương pháp đó. Phương pháp đó tốt, rất thích hợp với chúng ta ngày nay, niệm mệt rồi thì nghỉ ngơi, nghỉ ngơi khỏe rồi thì niệm tiếp, ngày đêm không gián đoạn.
Ở Úc châu, tôi có một đạo tràng nhỏ, gần đây đang mở Phật thất. Nơi đó có mười mấy đồng tu tham gia. Bên cạnh niệm Phật đường đó hiện tại là nơi đi lại. Tương lai tôi sẽ dời lối đi lại này, khoảng đất này tôi làm một cái chúng nam, một cái chúng nữ ngay bên cạnh niệm Phật đường. Tôi sẽ làm giường ghép liền, niệm mệt rồi thì đến nơi đó nằm nghỉ, nghỉ ngơi khỏe rồi thì mau trở lại niệm Phật đường niệm tiếp. Chỗ của chúng ta nhỏ, đại khái có thể dung nạp được 48 người. Chúng ta cung cấp cái nhân duyên này. Chúng ta chọn lấy phương pháp của Viễn Công Đại sư ở Lô Sơn, 48 người này ghi danh nhận vào, không phải là đến nơi đó dự một kỳ Phật thất hay hai kỳ Phật thất, mà khi đến ghi danh là trọn đời ở trong niệm Phật đường. Viễn Công ở Lô Sơn ngày trước cũng là như vậy, Viễn Công Ngài chính mình cũng không xuống núi, chúng ta cũng ở trong niệm Phật đường này một lòng một dạ cầu vãng sanh thượng thượng phẩm. Cho nên tương lai sau khi tôi làm xong, niệm Phật đường này tôi phải đề là “Niệm Phật Đường Thượng Thượng Phẩm”, không cầu thượng trung phẩm. Chúng ta nhất định phải là Niệm Phật Đường Thượng Thượng Phẩm, chỉ có 48 người chân thật chí đồng đạo hợp. Vì để kiên định tín nguyện, niệm Phật đường này buổi tối giảng kinh. Tôi nghĩ, việc giảng kinh này có thể liên tục giảng từ ba đến năm năm, sau đó thì không cần giảng nữa, vì mọi người thảy đều lý giải, thảy đều tường tận, tất cả gốc nghi đều được nhổ hết. Bạn phải nên biết, 48 người đều thành Phật thì còn gì bằng, 48 vị Phật, không gì sánh được. Duyên thù thắng! Bạn không có được duyên này thì làm sao được? Hiện tại tôi già rồi, phải vào niệm Phật đường rồi, tương lai đoàn hoằng pháp phải để cho pháp sư trẻ tuổi. Tôi khuyến khích cho họ phát tâm đi làm công việc hoằng pháp lợi sanh, tận tâm tận lực mà làm. Sáu mươi tuổi hoặc bảy mươi tuổi thì về hưu. Bảy mươi tuổi về hưu là chế độ thời xưa của Trung Quốc chúng ta. Chúng ta đọc sách xưa có câu: “Thất thập nhi chí sự”, chí sự chính là thoái hưu. Quan viên của Trung Quốc thời xưa, 70 tuổi là tuổi thoái hưu. Vậy thì khi bạn đến 70 tuổi thì bạn có thể thoái hưu, bước vào niệm Phật đường niệm Phật, làm việc cho chính mình. Có hai cái đạo tràng như vậy, “giải hành” đều trọng thì có thể làm cho Phật pháp hưng vượng lên.
Cho nên giảng đến chỗ này, Phật độ chúng sanh xem thấy chúng sanh duyên đã chín muồi, sanh khởi vô lượng tâm hoan hỉ. Phật làm tăng thượng duyên cho chúng ta, chúng ta phải phát ra cái tâm này. Các vị muốn hỏi: “Chúng tôi làm công đức như thế nào là to lớn nhất?”. Công đức rất có ý nghĩa, rất thù thắng không gì hơn là tổ chức đoàn hoằng pháp, xây “Niệm Phật Đường vãng sanh thượng thượng phẩm”. Công đức này là đệ nhất, vô lượng vô biên.
Đại sư Ngẫu Ích ở trong Di Đà Yếu Giải nói với chúng ta, cũng chính là giảng hai chữ “Phật thuyết” này. Ngài nói: “Phật dĩ độ sanh vi hoài”, cơ duyên chúng sanh thành Phật đã chín muồi. Cách nói này của Ngài, người xưa không có nói qua. Ngài nói ra kiên quyết như vậy, khẳng định như vậy, cơ duyên chúng sanh thành Phật đã chín muồi rồi. “Vi thuyết nan tín chi pháp”, pháp môn Tịnh Độ gọi là pháp khó tin, giúp đỡ những chúng sanh này thành tựu Phật quả cứu cánh viên mãn. Loại hoan hỉ này không cách gì hình dung ra được, cho nên Phật mới nói. Đại sư Ngẫu Ích nói lời này rất là chuẩn xác, chúng ta sau khi đọc được rồi, vui mừng bội phục. Mười phương ba đời tất cả chư Phật Bồ Tát xem thấy người căn tánh chín muồi, không ai mà không tuyên nói pháp môn này. Do đây có thể biết, người căn tánh chưa chín muồi, hay nói cách khác, vẫn chưa đủ tư cách làm Phật, có thể có tư cách làm Bồ Tát thì Phật liền tuyên nói các pháp môn Đại thừa khác; xem thấy chúng sanh này có tư cách làm A La Hán, chứng quả Bích Chi Phật, thì Phật liền nói pháp môn Thanh Văn Duyên giác cho họ nghe. Nếu thấp hơn nữa, xem thấy chúng sanh tình chấp còn quá nặng, tà kiến rất sâu, vẫn không thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, Phật liền giảng tiểu pháp nhân thiên cho họ nghe, khuyên họ đời sau còn có thể được thân người, không đến nỗi đọa vào ba đường ác. Phật đối với tất cả chúng sanh hết lời khuyên bảo, ứng cơ nói pháp, đó là “Phật thuyết”.
Đoạn nhỏ thứ ba là “Đại Thừa”.
Đại thừa là tỷ dụ giống như xe lớn. Vào thời xưa khoa học chưa phát triển, xe lớn nhất của thời xưa là xe ngựa, thông thường xe có bốn con ngựa kéo là xe lớn nhất. Loại xe lớn này có thể ngồi được mười người. Xe nhỏ là xe dê, xe nai do dê kéo, nai kéo. Xe này thì chỉ ngồi được một người. Phật dùng cái này để thí dụ Đại thừa, Tiểu thừa, tỷ dụ giáo học, giúp đỡ bạn thành tựu đạt đến một giai đoạn nào đó; đạt đến mục tiêu gần nhất chính là Tiểu thừa, giúp đỡ bạn thoát khỏi sáu cõi luân hồi, đó là Tiểu thừa; hành trình xa là Đại thừa, giúp đỡ bạn siêu việt mười pháp giới, đó gọi là pháp Đại thừa. Phương tiện giao thông hiện tại không như trước, ngồi phi cơ thì có thể ngồi được mấy trăm người, còn thuyền thì càng không cần phải nói. Dụng ý của nó là thí dụ sự vận chuyển, giúp đỡ chúng sanh từ nơi phiền não sanh tử siêu việt đến bờ bên kia Bồ Đề Niết Bàn, dùng việc này để thí dụ.
Quyển kinh này là pháp Đại thừa, không chỉ là Đại thừa, trong chú giải của đại đức xưa nói với chúng ta, bộ kinh này là Đại thừa ngay trong Đại thừa. Không chỉ là Đại thừa ngay trong pháp Đại thừa, mà còn là Nhất thừa ngay trong pháp Nhất thừa. Pháp Nhất thừa là gì? Pháp Nhất thừa là pháp thành Phật. Thế Tôn vào những năm cuối giảng kinh Pháp Hoa, trong hội Pháp Hoa, Thế Tôn Ngài tuyên bố đến mọi người: “Chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói”. Đó là Thích Ca Mâu Ni Phật chân thật nói rõ bổn hoài của Ngài. Ngài giáo hóa chúng sanh tấm lòng chân thật là bình đẳng, chỉ có pháp Nhất thừa. Pháp Nhất thừa chính là dạy bạn làm Phật. Dạy bạn làm Bồ Tát, làm A La Hán là có lỗi với bạn, nhất định phải dạy bạn làm Phật cứu cánh viên mãn, đều là ở ngay trong một đời này thành tựu Phật quả cứu cánh viên mãn. Vậy thì Phật nói ba thừa, nói hai thừa (ba thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát; hai thừa là Tiểu thừa), nói Đại thừa, đều là Phật phương tiện nói, không phải Ngài chân thật muốn nói. Đại sư Thanh Lương nghe cách nói này của Phật thì Đại sư Ngài có chỗ cảm ngộ. Chúng ta đọc được ở trong Hoa Nghiêm Sớ Sao, Ngài nói “người học ba thừa có nhân không quả”, đây là cùng một ý nghĩa như trên kinh Pháp Hoa đã nói, vì sao vậy? Thành Phật mới là quả, không thành Phật thì không có quả, vì quả đó là giả, không phải thật. Cho nên, người học ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát có nhân, không có quả. Thế nhưng các vị phải nên biết, quyển kinh này là có nhân có quả, không gì bằng.
Kinh có nhân có quả có mấy loại vậy? Ngoài bộ kinh này ra, còn có kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa là có nhân có quả, các kinh khác đều không có, cho nên từ xưa đến nay, các tổ sư đại đức dường như đều công nhận Hoa Nghiêm và Pháp Hoa là Nhất thừa giáo, pháp Nhất Thừa trên cả Đại thừa. Ngoài ra còn có một bộ kinh là kinh Phạm Võng cũng là thuộc về kinh Nhất thừa. Cho nên, các tổ sư đại đức thời xưa ở Trung Quốc công nhận kinh Nhất thừa chỉ có ba quyển. Quyển kinh này là Nhất Thừa ngay trong Nhất Thừa, vì sao vậy? Hoa Nghiêm đến sau cùng “Mười Đại Nguyện Vương Cầu Về Cực Lạc” mới viên mãn thành Phật. Quyển kinh này mỗi câu mỗi chữ đều là nói Phật quả cứu cánh. Hoa Nghiêm quy về là quy về “Vô Lượng Thọ”, cho nên người xưa mới nói “bộ kinh này là Nhất thừa ngay trong Nhất thừa”, là Vô Thượng thừa.
Ngày nay chúng ta có may mắn gặp được kinh điển này, cũng có thể nói là thiện căn, phước đức, nhân duyên trong vô lượng kiếp đã chín muồi. Có một số người gặp được kinh này vẫn không tin tưởng, chúng ta xem thấy thì gật đầu “đúng, đúng! Họ không tin tưởng là phải”. Vì sao là phải vậy? Vì là pháp khó tin đó mà. Nếu vừa tiếp xúc liền tin tưởng, vậy Thích Ca Mâu Ni Phật nói là pháp khó tin thì nói không thông rồi. Nếu thông thường nói mà mọi người đều tin tưởng, vậy có gì khó đâu? Người thông thường khó tin, người thông thường sau khi học rồi thì thoái tâm, chúng ta gật đầu nói “Không sai! Đích thực là y như Phật đã nói”.
Khởi tín niệm Phật là nhân, mỗi niệm làm Phật chính là quả. “Nhân như biển quả, quả tận nguồn nhân”. Cách dạy này chân thật là không thể nghĩ bàn.
Đó là ý nghĩa của Đại thừa. Phật ở trong kinh thường hay nhắc nhở chúng ta, như Hoa Nghiêm đã nói, tất cả các pháp thế xuất thế gian “do tâm biến hiện, do thức hiện ra”. Thức chính là tâm tưởng, cho nên lại nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Mỗi ngày chúng ta tưởng Phật thì quả báo của Phật liền hiện tiền.
Trong lịch sử Trung Quốc có ghi chép, cuối đời Tống đầu nhà Nguyên, Triệu Tử Ngang là một nhà văn học, Triệu Mạnh Phủ chữ viết rất đẹp, hiện tại thiệp chữ của ông đến đâu cũng có thể xem thấy. Ông giỏi về vẽ ngựa, ưa thích vẽ ngựa. Vẽ ngựa thì nhất định phải thường đi quan sát hình thái động tác của ngựa, trong lòng mỗi ngày đều nghĩ đến ngựa. Có một hôm ông ngủ trưa, nằm mộng cũng nghĩ đến ngựa, đó thật là tập trung toàn bộ tinh thần nghĩ đến ngựa. Thời gian ngủ tương đối dài, vợ ông đến gọi ông dậy, lúc đó đều có ngủ mùng, khi vừa kéo mùng ra thì thấy trên gường là một con ngựa. Bà vợ thất kinh hồn vía la lên, ông liền tỉnh dậy, hỏi bà: “Vì sao bà la vậy?”. Bà nói: “Vừa rồi tôi nhìn thấy một con ngựa nằm trên giường”. Trong lòng nghĩ đến ngựa nên biến thành ngựa, nghĩ Phật thì không biến thành Phật được hay sao? Chân thật có đạo lý. Cho nên các vị đồng tu phải nên ghi nhớ, nghĩ đến Bồ Tát thì bạn liền biến thành Bồ Tát, nghĩ đến quỷ thì biến thành quỷ, nghĩ đến địa ngục thì biến thành địa ngục, nghĩ thứ gì thì biến thành thứ đó. Phật quá rõ ràng đối với chân tướng sự thật và đạo lý này, nên dạy chúng ta tưởng Phật, “nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai, quyết định thấy Phật”. Một ngày từ sớm đến tối vì sao không nghĩ đến Phật mà khởi vọng tưởng khác? Vậy là sai rồi. Từ ngay chỗ này chúng ta liền chân thật cảm nhận, một Niệm Phật Đường đúng pháp rất là cần thiết, một Niệm Phật Đường chân chính đúng pháp quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Niệm Phật Đường chính là trường tuyển Phật, đến nơi đó chính là để làm Phật. Đây là nói “Đại thừa” ý nghĩa của Nhất Phật Thừa.
Đoạn nhỏ thứ tư là “Vô Lượng Thọ”.
“Vô Lượng Thọ” tiếng Phạn gọi là A Di Đà, A Di Đà dịch ra là Vô Lượng Thọ, ý nghĩa này cũng là trên kinh Di Đà Phật đã nói, đem A Di Đà dịch thành Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ. Kỳ thật, bổn ý của tiếng Phạn, “A” chính là Vô, dịch thành ý của Trung Quốc là Vô; “Di Đà” dịch là Lượng, bổn ý chính là Vô Lượng. Cái gì là Vô Lượng? Tất cả đều Vô Lượng, không có thứ nào không Vô Lượng. Chúng ta nói hơi thô thiển một chút, Trí Tuệ Vô Lượng, Đức Năng Vô Lượng, Tài Nghệ Vô Lượng, Phước Báo Cũng Vô Lượng, Tài Bảo Cũng Vô Lượng (ngày nay mọi người đều muốn phát tài), không có thứ nào không Vô Lượng. Đó là nói thô, còn nói vi tế là một lỗ chân lông vô lượng, một bụi trần cũng vô lượng. Tất cả chư Phật Như Lai ở trên đầu sợi tóc giảng kinh nói pháp, đoạn tóc không có phình to, Chư Phật Bồ Tát cũng không có thu nhỏ, đây hoàn toàn là cảnh giới sự lý vô ngại, sự sự vô ngại của kinh Hoa Nghiêm. Không một pháp nào không là vô lượng, bất cứ một pháp nào cũng đều là toàn thể tận hư không khắp pháp giới. Ý nghĩa này đều ở trên kinh Hoa Nghiêm. Quyển kinh này là thu nhỏ của Hoa Nghiêm, là tinh hoa của Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm đã nói “Lục Tướng Thập Huyền”, quyển kinh này cũng là “Lục Tướng Thập Huyền”, hơn nữa mỗi câu mỗi chữ trong đây đều là viên mãn đầy đủ “Lục Tướng Thập Huyền”, người xưa gọi là Hoa Nghiêm quyển trung là có đạo lý, không phải không có đạo lý. Cho nên Vô Lượng thì không dễ nói, Thế Tôn nêu ra hai loại là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang để đại biểu tất cả đều Vô Lượng. “Quang” là ánh sáng chiếu khắp, ánh sáng của Phật chiếu khắp tận hư không khắp pháp giới, thế nên hiện tại chúng ta gọi là không gian. Quang Minh là đại biểu không gian, Thọ Mạng là đại biểu thời gian. Quá khứ, hiện tại, vị lai, khi hợp thời không lại chính là toàn thể vũ trụ, vạn sự vạn vật trong đó, không có thứ nào sót lọt. Phật dùng hai ý này để giải thích Vô Lượng, lược nói cũng rất viên mãn. Vậy chúng ta tỉ mỉ nghĩ lại thử xem, người hiện tại nói Thời Không, Phật nói Quang Thọ, ý nghĩa Quang Thọ tốt hơn Thời Không. Trong Quang Thọ có linh khí, Thời Không hoàn toàn biến thành vật chất, không có linh tánh. Trong Quang Thọ có linh tánh trong đó, còn viên mãn hơn rất nhiều so với hai chữ Thời Không. Trong đức năng vô lượng, người xưa nhắc nhở chúng ta, thực tế ra mà nói, trong tất cả vô lượng thì “Thọ” là chiếm địa vị thứ nhất. Việc này chúng ta có thể lý giải, nếu như tất cả vô lượng bạn đều có được, mà không có thọ mạng thì vẫn không phải là một mảng không hay sao? Thọ dụng gì bạn cũng không có được. Cho nên, trong tất cả vô lượng, thọ mạng là thứ nhất, do đó liền dùng Vô Lượng Thọ để giải thích A Di Đà. Giáo chủ của thế giới Tây Phương Cực Lạc là một vị đạo sư vĩ đại, đức hiệu của Ngài được gọi là “A Di Đà Phật”, hiện rõ ra vị Phật này. Nguyện hạnh của Ngài từ nhân địa mãi cho đến thành tựu được quả vị, sau khi thành tựu sự nghiệp mà Ngài đã triển khai mở rộng, giúp đỡ tất cả chúng sanh tận hư không khắp pháp giới đều ở ngay trong một đời viên mãn thành Phật. Việc này không thể nghĩ bàn. Đó là hiện rõ ra chân thật vô lượng của vô lượng. Chúng ta phải tỉ mỉ đi thể hội mới có thể được một hai phần, thọ dụng của chúng ta là vô cùng vô tận. Thọ dụng biểu hiện ở chỗ nào vậy? Biểu hiện ở ngay Tín Nguyện Hạnh của bạn, tin sâu không nghi, tuyệt đối không bị dao động; thiết nguyện, nguyện lực kiên cường, không có bất cứ thứ gì có thể mê hoặc, Tín Nguyện Hạnh của bạn thành tựu rồi.
Đoạn nhỏ thứ năm là “Trang Nghiêm”.
“Trang Nghiêm”, dùng lời hiện tại của chúng ta mà nói là tốt đẹp, tốt đẹp đến cùng tột. Bổn kinh chúng ta đọc đến “Nhất hướng chuyên chí, trang nghiêm Diệu Độ”. Diệu Độ là chỉ gì vậy? Người thông thường nghe rồi liền nghĩ, đây nhất định là chỉ thế giới Tây Phương Cực Lạc. Bạn chỉ nói đúng một nửa, còn một nửa ở đâu vậy? Hoàn cảnh cư trú hiện tại của chúng ta chính là Diệu Độ, khi vừa chuyển đổi cảnh giới của bạn thì nơi này chính là Diệu Độ. Tuy không phải là Diệu Độ chân thật, nhưng gần giống Diệu Độ. Đại sư Thiên Thai nói Lục tức, Tương tợ tức, Phần chứng tức, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là Diệu Độ cứu cánh.
“Nhất hướng chuyên chí”, câu này là có thể trang nghiêm. Chỉ cần bạn có thể làm đến được “nhất hướng chuyên chí”, thì cõi hiện tại của chúng ta liền biến thành tương tợ Tịnh Độ, liền biến thành Diệu Độ, “Cảnh tùy tâm chuyển”. Nếu các vị có thể thể hội được ý này thì các vị liền có thể tưởng tượng ra được. Vào thời đại Đông Tấn, Đại sư Viễn Công ở Lô Sơn Giang Tây xây dựng Niệm Phật đường Đông Lâm, ngay lúc họ ở nơi đó niệm Phật tu hành thì nơi đó của họ chính là Diệu Độ. Vì sao vậy? Mỗi một người bước vào đều là “nhất hướng chuyên chí”.
Quyển kinh này của chúng ta dạy phương pháp tu hành. Cương lĩnh tu hành là “phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật”. Hoàn cảnh của họ ở chính là Diệu Độ, chính là Tịnh Độ, chân thật là đại đức xưa đã nói “Tâm tịnh thời cõi nước tịnh”. Đạo tràng này người người đều là tâm thanh tịnh, người người đều là nhớ Phật, niệm Phật thì đạo tràng của họ làm sao mà không biến thành Tịnh Độ chứ? Trang nghiêm thù thắng trùng trùng, nghìn trùng tướng lạ tự nhiên hiện tiền. Cảm ứng không thể nghĩ bàn!
Lại nói đến “cõi Cực Lạc kia công đức vô lượng, đầy đủ trang nghiêm”. Câu nói này hiển nhiên là tán thán thế giới Tây Phương Cực Lạc. Vì sao vậy? Mười phương bao gồm tất cả cõi nước, những chúng sanh trong đó niệm Phật vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, mỗi người đều là tâm thanh tịnh, mỗi người đều là nhớ Phật, niệm Phật. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là một đạo tràng lớn, chúng ta liền có thể nghĩ đến vì sao tất cả Chư Phật đều tán thán? Ở trên kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán A Di Đà Phật là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Thích Ca Mâu Ni Phật một mình tán thán là đại biểu hết thảy tất cả chư Phật đều tán thán như vậy. Không có một vị Phật nào mà không tán thán A Di Đà Phật là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Dựa vào đâu để tán thán? Dựa vào thế giới của Ngài, tất cả những người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc không có một người nào là tâm địa ô nhiễm, mỗi mỗi đều là tâm thanh tịnh. Việc này là ở trong mười phương tất cả cõi nước chư Phật không tìm ra được.
Mười phương cõi Phật đương nhiên rất là trang nghiêm, rất là thanh tịnh, trong đó vẫn còn một số ít người khởi vọng tưởng. Thế giới Ta Bà này của chúng ta, chúng sanh phiền não chiếm đa số, có thể nói là ngay trong một vạn người thì có chín ngàn chín trăm chín mươi chín người đều đang khởi vọng tưởng. Sai biệt lớn đến như vậy là uế độ. Có những thế giới mà những chúng sanh ở đó có được phân nửa là tâm địa thanh tịnh, tâm không thanh tịnh cũng có phân nửa, vậy chúng ta xem ra chính là Tịnh Độ. Vẫn có thế giới tâm địa thanh tịnh, lấy phần trăm mà so thì chiếm đa số (80% 90%), vẫn còn 10% 20 %, chúng sanh tâm địa không thanh tịnh, làm gì giống như thế giới Tây Phương Cực Lạc 100% thanh tịnh, không có người nào không thanh tịnh. Vì sao vậy? Tâm không thanh tịnh thì không thể sanh Tịnh Độ. Việc này các vị đồng tu phải ghi nhớ, không phải nói “tôi niệm Phật thì quyết định sanh Tịnh Độ”, không thể có việc đó! Cho dù một ngày bạn niệm mười vạn danh Phật hiệu, mà trong lòng vọng tưởng không ngừng, người xưa nói “đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công!”. Quả nhiên tâm địa thanh tịnh, một ngày niệm mười danh hiệu, hai mươi danh hiệu cũng được. Bạn thấy người xưa đề xướng “pháp mười niệm”. Tôi dạy cho các vị đồng tu pháp mười niệm còn đơn giản hơn, một lần niệm mười câu “A Di Đà Phật”, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật… liên tục niệm mười danh hiệu. Niệm mười danh hiệu thời gian rất ngắn, ngay trong thời gian ngắn ngủi này, một vọng niệm cũng không thể xen lọt vào thì cái niệm này gọi là “tịnh niệm”, không xen tạp. Khi niệm nhiều thì sẽ khởi vọng tưởng, trong mười câu niệm không khởi vọng tưởng, đó chính là tịnh niệm. Mỗi ngày niệm chín lần, không thiếu một ngày nào, đó gọi là “liên tục”, phù hợp với trên kinh đã nói “tịnh niệm tương tục”. Có rất nhiều đồng tu dùng phương pháp tôi dạy, đến nói với tôi là rất có hiệu quả. Hy vọng một ngày niệm chín lần là ít nhất, số lần càng nhiều đương nhiên sẽ càng tốt. Dùng phương pháp này dễ dàng nhiếp tâm.
Sự thù thắng của Tây Phương Cực Lạc ở ngay chỗ này. Cũng chính là A Di Đà Phật tiếp dẫn người, dùng lời hiện tại này của chúng ta mà nói, thế giới A Di Đà Phật rất hoan nghênh mọi người di dân đến bên đó định cư, thế nhưng điều kiện để di dân là tâm phải thanh tịnh. Dùng phương pháp gì để đạt đến tâm thanh tịnh đều được cả, niệm Phật cũng được, tham Thiền cũng được, học Giáo cũng được, trì chú cũng được. Bạn xem, phía sau ba bậc vãng sanh của chúng ta, thượng trung hạ ba phẩm là nói người niệm Phật, phía sau còn có một đoạn nói người tu học các pháp môn Đại thừa khác, chỉ cần tu đến tâm địa thanh tịnh, phát nguyện vãng sanh, tất cả đều có thể đi. A Di Đà Phật mở rộng cửa này, Ngài tuyệt nhiên không có nói “ngươi không niệm A Di Đà Phật thì ta không có rước ngươi”, không hề có đạo lý này. Chỉ cần tâm địa thanh tịnh, tùy tiện tu một pháp môn nào thảy đều được cả, đều có thể vãng sanh.
Tôi đã từng diễn giảng trong luận đàn ở Úc châu. Đại chúng trong luận đàn tổng cộng có 14 đoàn thể tôn giáo, có Phật giáo, Đạo giáo, Ki Tô giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo, tất cả đều có. Tôi liền nói với họ, không luận các vị tu học một tôn giáo nào, chỉ cần tu đến tâm thanh tịnh, phát nguyện vãng sanh thì A Di Đà Phật thảy đều tiếp dẫn bạn. Pháp của chúng ta là pháp bình đẳng, không có kỳ thị chủng tộc, không thể nói bạn tin theo Giê Su giáo thì A Di Đà Phật không hoan nghênh, không có đạo lý này. A Di Đà Phật rất là hoan nghênh, không luận là bạn tu pháp môn nào, không luận bạn tín ngưỡng tôn giáo nào, chỉ cần tu được tâm thanh tịnh, phát nguyện cầu vãng sanh, A Di Đà Phật đều sẽ đến tiếp dẫn. Pháp môn này rất tuyệt vời, không có bài xích, huống hồ chúng ta tu học tông phái khác nhau, vậy mới gọi là thật trang nghiêm. Cho nên, thế giới Tây Phương Cực Lạc trang nghiêm thù thắng không gì bằng.
“Đại Thừa”, “Vô Lượng Thọ”, “Trang Nghiêm” mà phía trước đã nói đều là tánh đức của chúng ta, là đức năng tự tánh vốn đủ, là quả báo mà chúng ta mong cầu. Mục đích chúng ta học Phật ở đâu? Mục đích chính là phải đạt được là “Đại Thừa, Vô Lượng Thọ, Trang Nghiêm”. Hiện tại bạn muốn hỏi, phải làm thế nào mới có thể đạt được? Đề kinh phía sau là đưa ra phương pháp cho chúng ta. Các vị phải nên biết, phía trước đã nói qua, chúng ta thật muốn ở ngay trong một đời này đạt được, vậy chúng ta muốn hỏi, “Vô Lượng Thọ” có thể được hay không? Có thể được, ngay một đời này của chúng ta là Vô Lượng Thọ. Thế nào là Vô Lượng Thọ? Ngay một đời này quyết định không chết? Chết rồi còn có thể gọi là trường thọ hay sao? Quyết định không chết. Các vị phải biết, thù thắng nhất của Tịnh Tông là không chết. Nếu như bạn tu được tốt, ở ngay trong cuộc sống thường ngày phải ghi nhớ, phải chân thật sám hối để tiêu nghiệp chướng. Nếu không tiêu trừ nghiệp chướng thì đó chính là chướng ngại. Nghiệp chướng, chướng là chướng ngại, cái gì là chướng ngại? Bạn có phiền não là chướng ngại, bạn có lo lắng là chướng ngại, bạn có vướng bận là chướng ngại, bạn có bệnh khổ là chướng ngại. Tiêu trừ chướng ngại chính là tiêu nghiệp chướng, phải đem những thứ này thảy đều buông bỏ. Trong hai thời, sáu thời, mỗi giờ mỗi phút giữ gìn tâm thanh tịnh của chính mình.
Đoạn nhỏ thứ sáu là “Thanh Tịnh”
Thanh tịnh chính là không có ô nhiễm, bình đẳng chính là không có phân biệt. Có phân biệt thì không có bình đẳng, có tốt xấu thì bị ô nhiễm. Bạn thấy cái này thì ưa thích, cái kia thì chán ghét là bạn đã bị ô nhiễm rồi, thì bạn nhất định có chướng ngại. Vì sao chúng ta xem thấy có một số người niệm Phật vãng sanh không bị bệnh, biết được lúc nào thì đi, dường như đã có hẹn với Phật rồi vậy, ngày hôm nào, mấy giờ chúng ta gặp mặt, Ngài đến đón ta, đã hẹn xong rồi, không bị bệnh, đứng mà đi, ngồi mà đi, rất tự tại.
Ngày trước tôi ở Đài Loan, Lão Hòa thượng Đạo Nguyên nói cho chúng tôi nghe một câu chuyện vãng sanh, đây là thật. Tên của họ tôi không còn nhớ được. Có một người niệm Phật khi vãng sanh, nói với mọi người: “Các vị đã từng thấy qua hoặc là nghe nói qua ngồi mà vãng sanh, có nghe nói qua chưa?”. Mọi người nói: “Có, có nghe nói và cũng có thấy qua”. “Đứng mà vãng sanh thì sao?”. “Cũng có nghe nói qua, cũng có thấy qua”. Ông liền búng người một cái, đầu chúc xuống, chân hướng lên trên, hỏi: “Như vậy vãng sanh các vị có nghe nói qua chưa?”. Mọi người nói chưa có, thì ông liền vãng sanh. Bạn xem thấy đẹp làm sao, rất tự tại! Vì sao ông có thể làm được? Bạn phải nên biết, tâm của ông thanh tịnh, không có chút ô nhiễm, ông được tự tại, ngay trong cuộc sống thường ngày được tự tại, vãng sanh cũng tự tại, không có thứ nào không tự tại. Các vị phải nên biết, ông ấy sống mà ra đi, đi đến bên đó không chết, ông ấy không chết, cái thân này không cần nữa thì đổi cái thân của Phật, làm gì có chuyện chết? Một chút đau khổ cũng không có, an vui, tự tại, rõ ràng, tường tận, đổi một thân thể mới thù thắng hơn rất nhiều so với thân thể hiện tại này.
Trên kinh nói rất rõ ràng, người thế giới Tây Phương Cực Lạc “thân thanh khiết, thể không hoại”. Thân thể đó là tùy tâm sở cầu, biến hóa không cùng tận, như Thế Tôn đã nói ở trên kinh là “ngàn trăm ức hóa thân”. Thích Ca Mâu Ni Phật ngàn trăm ức hóa thân, người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho dù là Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sanh cũng đều có năng lực như Thích Ca Mâu Ni Phật vậy, “ngàn trăm ức hóa thân”, bạn mới có thể đồng thời cúng dường vô lượng vô biên chư Phật, đồng thời nghe được vô lượng vô biên Chư Phật giảng kinh nói pháp, bạn nói xem, tự tại dường bao.
Ngày nay chúng ta học rất khổ cực, một hai bộ kinh học cả đời cũng không có cách gì học thông. Thế nhưng đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, ở nơi đó học một giờ, chúng ta ở nơi đây học mười vạn năm cũng không học được. Đó là thật, không phải là giả. Bạn phải nên biết, một giờ đồng hồ, bạn nghe mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai giảng kinh nói pháp, vậy còn gì bằng. Cho nên, muốn khai đại trí tuệ, muốn khai trí tuệ cứu cánh viên mãn mà không vãng sanh thì làm sao được? Không cầu vãng sanh thì không thể được! Không vãng sanh, muốn dựa vào tu hành của chính mình thì bạn phải tu đến đoạn “kiến tư phiền não”, ra khỏi ba cõi, sau đó phá tiếp “trần sa vô minh”, vượt mười pháp giới, rất gian nan, rất khổ sở, rất không dễ dàng. Trên thời gian mà nói, chân thật là phải vô lượng kiếp còn chưa chắc có thể thành tựu. Cho dù siêu việt mười pháp giới, chứng được Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, từ Viên Sơ Trụ lại chứng được Phật quả viên mãn, việc này ở trên kinh Phật nói còn phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp. Làm gì bằng đến thế giới Tây Phương Cực Lạc! Đến nơi đó thì liền chứng được, đó là chân thật, không phải là giả.
Có một số đồng tu nghe đến lời nói này của tôi thì hoài nghi. Họ nói, Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh không có cách nói này, hạ hạ phẩm vãng sanh phải 12 kiếp mới hoa khai kiến Phật. Không sai! Trên Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh là có cách nói này, thế nhưng bạn phải nên biết vì sao Phật phải nói lời nói này. Chúng ta học Phật phải nương vào một bộ kinh nào? Chỗ chúng ta nương vào nhất định là kinh Vô Lượng Thọ, trong kinh Vô Lượng Thọ có phẩm thứ sáu, 48 nguyện. Bốn mươi tám nguyện là A Di Đà Phật chính mình nói. Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu Tịnh Độ cho chúng ta, trong Tịnh Độ ba kinh, nếu như có một câu trái với 48 nguyện thì chúng ta không thể tin tưởng. Bạn xem, mở quyển kinh ra, mỗi câu mỗi chữ đều tương ưng với 48 nguyện. Thế nhưng Thế Tôn vì sao nói ra pháp này? Cách nói này chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa, vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, nếu như không luận gia trì bổn nguyện Di Đà, bạn vãng sanh hạ hạ phẩm thì phải tu mười hai kiếp mới hoa khai kiến Phật, là ý như vậy. Trong ý này có mật nghĩa. Mật nghĩa là nói rõ cái gì? Nói rõ thế giới Tây Phương thù thắng không gì bằng, bạn ở thế giới phương khác là lấy cảnh giới này mà nói. Hạ hạ phẩm vãng sanh, đó là phàm phu, một phẩm phiền não cũng chưa đoạn, cho nên đới nghiệp vãng sanh, phiền não chưa đoạn thì phải mười hai kiếp mới hoa khai kiến Phật. Hoa khai kiến Phật là địa vị thế nào? Trong Thiền tông nói đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, địa vị Viên Giáo Sơ Trụ. Việc này chúng ta liền hiểu rõ, nếu như không phải ở thế giới Tây Phương, một phàm phu muốn thoát khỏi sáu cõi, muốn siêu việt mười pháp giới chứng được Viên Giáo Sơ Trụ, trên kinh Hoa Nghiêm đã nói, phải trải qua vô lượng kiếp. Vì sao thời gian dài đến như vậy? Vì thời gian thoái chuyển quá nhiều, tiến thì ít, lùi thì nhiều, nó có thoái duyên. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không có thoái duyên, chỉ có tiến bộ, cho nên 12 kiếp liền thành công. Mười hai kiếp so với vô lượng kiếp, thời gian đã rút ngắn được rất nhiều, quá nhiều, nói rõ thù thắng của thế giới Tây Phương. Phật nói lời này là ý như vậy. Thế nhưng tình hình thực tế không phải như vậy. Tình hình thực tế, bạn xem, 48 nguyện đã nói, đó là căn cứ bậc nhất của Tịnh tông, không phải bậc thứ hai, A Di Đà Phật nói với chúng ta, người sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, vậy còn gì bằng! Bồ Tát A Duy Việt Trí là gì? Trong chú giải của cổ đức nói với chúng ta, địa vị thấp nhất là Thất Địa Viên Giáo, địa vị cao nhất là Đẳng Giác Bồ Tát, hay nói cách khác, vừa sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, ngôi vị của bạn chính là vị thứ từ Thất Địa trở lên đến Đẳng Giác. Thật là khiếp người! Cho nên gọi là pháp khó tin. Ai khó tin vậy? Mười phương Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát nghe rồi đều không tin tưởng. Bạn xem, họ tu hành khổ cực đến như vậy, quả báo có được nhỏ xíu; việc của bạn làm không đáng để nêu ra, thật gọi là một bước lên trời, lập tức liền lên đến Thất Địa. Họ nghe rồi không thể tin phục. Không tin phục thì cũng không được gì! Vì sao bạn có thể lên đến được quả vị cao như vậy? Nhờ gia trì bổn nguyện của A Di Đà Phật, cho nên pháp môn này gọi là pháp môn nhị lực. Chúng ta chính mình chỉ cần đầy đủ Tín Nguyện Hạnh, thâm tín, thiết nguyện, lão thật niệm Phật, chúng ta chuẩn bị điều kiện này; 48 nguyện A Di Đà Phật gia trì chúng ta, đây là tha lực. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc có phẩm vị cao như vậy, thành tựu thù thắng không thể nghĩ bàn như vậy, đến nơi đâu mà tìm? Bạn đi tra Đại Tạng kinh, tra khắp Đại Tạng kinh cũng không có cách nói này, chỉ có kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, chúng ta phải tin tưởng. Thời xưa tu học pháp môn này, người vãng sanh chúng ta không được thấy qua, vì vậy không cần nói. Từ lúc chúng ta học Phật, tiếp xúc với pháp môn này, chúng ta xem thấy người y theo pháp môn này mà tu hành, chân thật có người đứng mà ra đi, có người ngồi mà đi, chính mắt chúng ta xem thấy, chính tai nghe được, vậy có thể giả được hay sao?
Khi chúng tôi ở Đài Loan, dường như là vào năm dân quốc thứ 58, tôi giảng kinh ở miền Nam Đài Loan, có một vị cư sĩ nói với tôi, tướng quân Lương Đài Nam có một người vợ già niệm Phật được ba năm thì đứng vãng sanh. Khi bà ra đi là đứng mà đi, không hề có bệnh. Bà cụ này tâm địa rất hiền lương, bình thường ngay trong cuộc sống thường ngày, đích thực là không tranh với người, không mong cầu với đời, hoàn cảnh gia đình cũng có thể tạm qua ngày, con cháu rất hiếu thuận, cho nên bà buông bỏ vạn duyên để học Phật. Lúc đầu bà không hiểu được Phật là gì, khi nhìn thấy tượng thần thì cũng xem như Phật để bái lạy, Bồ Tát, Thổ Địa, Thành Hoàng cũng là Bồ Tát. Bà không phân biệt thần và Phật, bái lạy khắp nơi. Ba năm trước đó, con trai bà cưới vợ, cô dâu hiểu được chút ít Phật pháp, khuyên mẹ chồng không nên đi bái lạy nhiều nơi, mà chuyên ở nhà lạy A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật. Bà mẹ chồng này rất có thiện căn, liền tiếp nhận lời khuyên bảo của con dâu, không đi lạy thần nữa, mà chuyên niệm A Di Đà Phật. Bà niệm được ba năm. Hôm vãng sanh là buổi tối, khi ăn cơm tối, bà nói với người trong nhà của bà: “Các con cứ ăn cơm trước đi, không nên đợi mẹ. Mẹ phải đi tắm rửa”. Con trai và dâu rất hiếu thuận, vẫn ở đó đợi bà. Bà thật đã có đi tắm, thế nhưng đi tắm rất lâu mà không thấy ra, người nhà mới vào trong xem thử, thấy bà có tắm qua. Ở trong nhà có một Phật đường nhỏ, bà mặc áo tràng rất chỉnh tề, trên tay đang cầm xâu chuỗi niệm Phật. Người nhà gọi, không thấy bà trả lời; bước lại gần xem thì thấy bà đã vãng sanh rồi, đứng mà vãng sanh. Đây là việc cách nay không lâu, bây giờ đến miền Nam Đài Loan, khi nhắc đến chuyện này, có rất nhiều người biết. Việc này sao là giả được!
Ngoài ra còn có một người, khi tôi ở Cựu Kim Sơn nước Mỹ, có một cụ bà ngồi mà vãng sanh. Ở Mỹ đời sống rất vất vả, cả hai vợ chồng đều phải đi làm, đều đến công sở, chỉ dựa vào một người kiếm tiền thì không nuôi được cả nhà. Nếu như có con thì phần nhiều là mời mẹ của mình đến để trông nom trẻ. Họ không mời ba của họ, mà mời mẹ của họ đến nấu cơm, trông con cho họ, cho nên người già ở Mỹ cũng tương đối vất vả. Bà là một người niệm Phật. Khi con trai, con dâu đi làm, cháu nội đi học, bà một mình ở nhà niệm Phật nên rất thanh tịnh, không ai quấy nhiễu bà. Không biết đã niệm được bao nhiêu năm, không rõ lắm. Ngày mà ba ra đi, không biết là bà đã ra đi lúc nào, chỉ biết là vào buổi tối, đến sáng sớm người trong nhà phát hiện bà cụ sáng hôm nay chưa thức dậy. Bình thường bà thức dậy nấu cơm sáng, nhưng sáng sớm hôm nay bà không thức dậy nấu cơm. Khi mọi người thức dậy, thấy nhà bếp không có người nấu cơm, thế là liền cho rằng bà cụ hôm nay dậy trễ (“vì sao mà ngủ trưa đến như vậy?”), đến mở cửa phòng của bà. Sau khi mở cửa ra, thấy bà cụ đang xếp chân ngồi kiết già ở trên giường. Khi xem kỹ mới biết bà đã đi rồi, không biết được đã đi vào lúc nào. Việc hiếm thấy là bà cụ này vẫn còn có di chúc, di chúc để ngay trước mặt. Không chỉ có di chúc, mà hiếu phục của con trai, con dâu, cháu nội, không biết bà đã may nó từ lúc nào, đều là chính mình bà làm, từng phần từng phần để ở ngay trước gường. Bà đã biết trước giờ đi, nên bà đã chuẩn bị từ sớm. Bạn xem, hiếu phục của con cháu bà đều đã may xong. Người niệm Phật ngồi mà đi, đều là những việc gần đây nhất, không phải là quá xa xôi, chúng ta chính mắt nhìn thấy, chính tai nghe được. Cho nên, chỉ cần tâm thanh tịnh thì chúng ta có thể làm được. Tại vì sao đem những việc thế gian không liên quan, những việc vụn vặt xen tạp để ở trong lòng chứ? Nhất định phải học thanh tịnh. Thanh tịnh có cái tốt đến như vậy, chân thật biết được quá khứ, hiện tại, vị lai, tiền đồ là một mảng sáng lạn. Cho nên, thế gian cho dù là việc gì, nghe được cũng tốt, thấy được cũng tốt, tất cả đều không nên để ở trong lòng; thấy như không thấy, nghe như không nghe, mỗi giờ mỗi phúc gìn giữ tâm thanh tịnh của bạn. Người ta có thể làm được thì chúng ta cũng có thể làm được. Làm không được là do tâm vẫn không thanh tịnh, khi sắp ra đi, vẫn còn việc chưa giao phó xong, bạn nói xem có đáng lo hay không? Vậy thì sao được! Tất cả buông bỏ, không phải dính mắc một thứ gì, như vậy mới được. Lúc nào thì buông bỏ? Phải buông bỏ ngay bây giờ, then chốt là không nên để phiền não trong tâm.
Đoạn nhỏ thứ bảy là “Bình Đẳng Giác”.
Tâm bình đẳng, tâm giác ngộ. Bình đẳng chính là chân tâm, bình đẳng chính là chân tánh, bình đẳng chính là chân như, bình đẳng chính là pháp môn không hai (vì hai là không bình đẳng). Hiện tại chúng ta phải nỗ lực học tập. Cách học tập phải như thế nào? Đem quan niệm của chúng ta chuyển đổi lại, biết được vạn pháp quy về một (một chính là bình đẳng, hai thì không bình đẳng), “vạn pháp nhất như”. Như trong kinh văn: “Như thị ngã văn”, vì sao trong kinh Phật, chữ đầu tiên thì dùng “Như”? Vạn pháp nhất như, đó là nói chân thật (khi đến kinh văn thì chúng ta sẽ giảng kỹ hơn). Cho nên phải tu tâm bình đẳng, luyện tập không phân biệt, trong lòng nhất định không có phân biệt. Vậy thì ở ngay trong cuộc sống thường ngày có nên phân biệt hay không? Phải phân biệt. Phân biệt này là bởi vì họ phân biệt, chúng ta đối với họ; họ chấp trước, chúng ta đối phó với họ; họ nói đây là Phật đường, chúng ta cũng gọi là Phật đường. Đây là họ phân biệt, không phải ta phân biệt. Trong lòng chúng ta không có Phật đường, chúng ta không có tâm phân biệt này, không có cái ý niệm này. Họ nói tướng như thế này gọi là người, ta liền gọi là người. Tùy chúng sanh phân biệt mà phân biệt, tùy chúng sanh chấp trước mà chấp trước, trong tâm chính mình đích thực là không có phân biệt, không có chấp trước. Đây là phương pháp giúp chúng ta tu Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác.
Các vị phải nên biết, có phân biệt, có chấp trước là phàm phu, không còn cách nào, ngay trong một đời này không thể giải quyết vấn đề. Sáu cõi từ đâu mà ra? Do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Nếu như không có chấp trước thì không có sáu đường; bạn còn có vọng tưởng, còn có phân biệt, nhưng không có chấp trước thì không có sáu đường; nếu còn có vọng tưởng, không có phân biệt, chấp trước thì bạn liền siêu việt mười pháp giới. Mười pháp giới là do vọng tưởng, phân biệt biến hiện ra. Siêu việt mười pháp giới thì bạn liền bước vào pháp giới Nhất Chân. Trong pháp giới Nhất Chân vẫn còn vọng tưởng, nhưng vọng tưởng đó rất mỏng nên không có chướng ngại, thế nhưng vẫn phải đoạn dứt. Vọng tưởng chính là vô minh, trong kinh Hoa Nghiêm nói “41 phẩm vô minh”, tất cả đoạn tận rồi thì viên mãn thành Phật. Đó là Phật nói rõ cho chúng ta, sáu cõi, mười pháp giới là do đâu mà ra. Đó là giả. Năng biến vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là giả, cảnh giới sở biến làm gì là thật được! Sáu cõi, mười pháp giới đều là không thật, “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Nếu bạn đem những thứ này để ở trong lòng thì sai rồi. Chúng ta muốn khi vãng sanh tự tại, đẹp mắt thì chúng ta phải buông bỏ những thứ này, chân thật làm đến được Thanh tịnh Bình đẳng Giác.
Quyển kinh này thù thắng nhất là bình đẳng phổ biến giác ngộ tất cả chúng sanh, hay nói cách khác, chính là dạy tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật. Pháp môn này còn gì hơn được sao? Bao gồm tất cả pháp môn đều không có cách nói này. Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, trời, người làm sao có thể bình đẳng thành Phật? Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta bình đẳng thành Phật. Kinh này gọi là kinh bình đẳng, pháp này gọi là pháp bình đẳng, việc học này gọi là học bình đẳng, còn gì bằng chứ? Bình Đẳng Giác cũng là biệt hiệu của A Di Đà Phật, cũng là chánh giác của tất cả chư Phật. Chỉ cần thành Phật thì gọi là Bình Đẳng Giác. Phật và Phật bình đẳng, Bồ Tát cùng Bồ Tát không bình đẳng, Phật Phật đạo đồng. Vì sao vậy? Vì vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều đoạn hết, cho nên hiện ra tướng bình đẳng.
Đoạn nhỏ sau cùng là chữ “Kinh”.
Chữ kinh này thường hay nói, nên chúng ta ngay chỗ này cũng tỉnh lược đi.
Đề kinh này giảng nói với các vị chỉ đến chỗ này thôi. Thời gian đã hết rồi, chúng ta niệm Phật hồi hướng.
A Di Đà Phật!