GIẢI ĐỀ ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHÂN TU CHỨNG LIỄU NGHĨA CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
Nay y vào Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của Thiên Thai Tông để giải thích Đề Kinh. Gồm có các mục: Thích danh, Hiển thể, Minh tông, Biện dụng, Phán giáo tướng.
I. THÍCH DANH (giải thích Danh)
Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh, là tên đầu đề của một bộ Kinh nầy, là cương yếu của mười quyển văn to tát rộng rãi. Như cái áo có cổ, xách cái cổ lên thì bao nhiêu chỉ vải đều ngay ngắn; như lưới có cái giường (cái viền), xách cái giường lên thì các mắt lưới đều trương ra. Yếu nghĩa của toàn Kinh đều thâu hết ở đề, muốn rõ yếu chỉ ở trong Kinh, phải rõ đầu mối chủ yếu của Đề Kinh.
Cái đề nầy, chính là người kết tập Kinh (Tôn Giả A Nan) vâng lời dạy của Đức Phật ở trong 5 đề, tự chọn lấy mười chín chữ trọng yếu hiệp thành một đề. Ba chữ trước (Đại Phật Đảnh), là lấy từ ba chữ đầu tiên trong đề thứ nhất: "Đại Phật Đảnh Tất Đát Đa Bát Đát Ra Vô Thượng Bảo Ấn Thập Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn". Vì Đức Phật thiết lập Giáo Pháp, cố nhiên là y vào ba chữ lớn lao của Nhất Tâm nầy; sự thuyết pháp của Đức Phật cũng làm sáng tỏ Tam Quán của Nhất Tâm đây, mà tu nhân chứng quả không pháp nào chẳng phải là chứng cái lý Tam Đức của Nhất Tâm đây. Cho nên ba chữ Đại Phật Đảnh là nơi y cứ, nơi vẻ vang sáng sủa và nơi quy hướng quý nhất để giảng giải kỹ càng về Hiển giáo, Mật giáo và Viên giáo, là điều tối yếu của một bộ kinh; Vạn hạnh nhân đây mà lập, Phật quả do đây mà thành. Cho nên ở trong cái Đề thứ nhất, riêng lấy ba chữ Đại Phật Đảnh. Tám chữ giữa là lấy từ cái Đề thứ ba: "Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa". Vì Đề nầy là điều tất yếu cho sự tu nhân chứng quả của một bộ Kinh, cho nên lấy hết không lược bỏ. Tám chữ sau cùng (Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm) là lấy từ tám chữ trong cái Đề thứ năm: "Quán Đảnh Chương Cú Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm". Vì cái Đề nầy theo Tông Dụng mà lập danh, đầy đủ cả hai lý Hiển Mật, nay lược Mật (lược Quán Đảnh Chương Cú) còn Hiển, cho nên chỉ lấy tám chữ sau. Đến nơi cái Đề thứ hai: "Cứu Hộ Thân Nhân, Độ Thoát A Nan Cập Thử Hội Trung Tánh Tỷ Kheo Ni Đắc Bồ Đề Tâm Nhập Biến Tri Hải" chỉ y Dụng mà lập, đã hẹp lại gần; ngài A Nan và nàng Ma Đăng Già chắc chắn có thể được nhiếp vào trong các Bồ Tát, Tâm Bồ Đề nhập Biển Biến Tri, cũng có thể nhiếp vào trong Thủ Lăng Nghiêm. Vì Tâm Bồ Đề là năng nhập, Thủ Lăng Nghiêm là sở nhập, năng với sở không hai, cho nên lược hết không lấy. Cái Đề thứ tư: "Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương, Thập Phương Phật Mẫu Đà Ra Ni Chú", tuy đầy đủ cả Thể Tông Dụng và giảng giải kỹ càng cả hai giáo Hiển Mật, nhưng nghĩa đồng với "Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa", bởi vì Hiển và Mật đồng Thể, Dụng của nó cũng nhất như. Cho nên được lấy Hiển nhiếp Mật, lược cái Đề thứ tư đó đi mà không lấy.
Mười chín chữ: "Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm", khác với các Kinh, cho nên gọi là BIỆT ĐỀ. Một chữ KINH, đồng với các Kinh, cho nên gọi là THÔNG ĐỀ. Biệt danh của các Kinh tuy nhiều, nhưng Cổ Đức phán định, không ra ngoài bảy thứ. Nghĩa là Nhơn, Pháp, Dụ, gồm: TAM ĐƠN, TAM SONG, CỤ TÚC NHẤT (đầy đủ cả ba thì một), như sau:
1. ĐƠN NHƠN lập danh, như: Phật thuyết A Di Đà Kinh.
2. ĐƠN PHÁP lập danh, như: Niết Bàn Kinh.
3. ĐƠN DỤ lập danh, như: Bảo Tích Kinh.
4. NHƠN PHÁP lập danh, như: Văn Thù Bát Nhã Kinh.
5. NHƠN DỤ lập danh, như: Như Lai Sư Tử Hống Kinh.
6. PHÁP DỤ lập danh, như: Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
7. NHƠN PHÁP DỤ lập danh, như: Đại Phương Quảng Đại Phương Tiện Nhất Thừa Thắng Man Sư Tử Hống Kinh.
Ngoài bảy cách đó ra, có khi còn lấy XỨ để lập danh, như: Tượng Đầu Tinh Xá Kinh, Lăng Già Kinh, v.v... Cũng có khi lấy NHƠN SỐ lập danh, như: Thiên Phật Danh Kinh. Có khi lấy SỐ PHÁP lập danh, như: Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Tứ Đế Kinh, Ngũ Uẩn Kinh, Lục Độ Kinh, v.v... Kinh Lăng Nghiêm nầy thì lấy NHƠN PHÁP lập danh, lược kiêm nơi DỤ (có kiêm một phần DỤ).
NHƠN thì có NHÂN NHƠN, QUẢ NHƠN: Như Lai là Quả Nhơn, Chư Bồ Tát là Nhân Nhơn. PHÁP thì có: TÁNH PHÁP, TU PHÁP, và GIÁO PHÁP, LÝ PHÁP, HẠNH PHÁP, QUẢ PHÁP. Đại Phật Đảnh là Tánh Pháp; Tu Chứng là Tu Pháp; Mật Nhân là Lý Pháp; Liễu Nghĩa là Giáo Pháp; Vạn Hạnh là Hạnh Pháp; Thủ Lăng Nghiêm là Quả Pháp.
Vả lại, lấy Phật Đảnh để dụ cho Tạng Tánh. Cho nên biết Kinh nầy lấy Nhơn và Pháp lập danh, lược kiêm nơi DỤ.
II. HIỂN THỂ
THỂ nghĩa là Lý Thể. Kinh nầy giảng giải về Lý Thể, chính là giảng giải về Như Lai Tạng Tánh. Kinh dạy rằng: "Hết thảy nhân quả, hết thảy thế giới vi trần, nhân nơi tâm mà thành Thể". Lại dạy: "Các tướng huyễn hóa, chính ngay nơi chỗ nó sanh ra, tùy ở đó mà diệt tận, tánh của nó thật là Diệu Giác Minh Thể". Căn cứ vào lời dạy đây có thể biết, Như Lai Tạng Tánh chẳng những là Lý Thể mà Kinh nầy đã giảng giải kỹ càng, cũng là Bản Thể của tất cả các pháp (tức tất cả sắc tâm sự vật), là Phật tánh mà tất cả mọi người vốn đầy đủ. Đức Phật thuyết Kinh nầy là cho thấy rõ Lý Thể đó, chủ ý ở chỗ là giúp cho con người tự ngộ tự chứng. Hạng lợi căn nhờ đây mà cuồng tâm liền hết; cuồng tâm hết thì Bồ Đề chính ngay đó; Điên đảo Không sanh thì đó là Như Lai, là Chơn Tam Ma Địa (Chánh Định). Những người độn căn, cũng có thể tiệm tu tiệm chứng (lần lượt tu lần lượt chứng), cho đến rốt ráo thành Phật.
III. MINH TÔNG
Trước đã cho thấy rõ Thể, là ước về Pháp Thân; giờ đây cho thấy rõ Tông, tức chú trọng Bát Nhã. Bát Nhã có ba:
1. Thật Tướng Bát Nhã, tức Pháp Thân.
2. Quán Chiếu Bát Nhã, tức Thật Trí.
3. Văn Tự Bát Nhã, tức Quyền Trí (phương tiện trí).
Tôn chỉ của Kinh nầy thuộc Thật Trí, do Thật Trí chẳng phân biệt, nên tương ưng với Lý Thể chẳng sanh diệt, thì gọi là Như Lai. Nếu chỉ tùy phần tương ưng, gọi là Bồ Tát. Các người tu hành mà không biết hai thứ căn bản, tu tập lầm loạn, riêng thành thiên ma ngoại đạo, ấy là hoàn toàn không tương ưng. Hàng Thanh Văn Duyên Giác là tương tợ tương ưng; do trở lại với tánh trong sáng diệt vọng, dùng tâm không sanh diệt làm cái gốc tu nhân, viên thành quả địa tu chứng, mới gọi là cứu cánh tương ưng (tương ưng rốt ráo). Cho nên tôn chỉ của Kinh nầy là dùng tâm bất sanh diệt làm cái gốc tu nhân.
IV. BIỆN DỤNG
DỤNG: có chia ra Tông Dụng và Dụng Dụng. Nếu dùng tâm không sanh diệt làm gốc tu nhân, đấy là Tông; thì sự đoạn HOẶC chứng CHƠN, viên mãn Bồ Đề, trở về Vô Sở Đắc là Dụng. Kinh nầy dạy, do ba lớp lần lượt tu Quán, trải qua ngôi vị tiến lên, từ Thập Trú trở về trước, Dụng ở tại tự hành (chính mình tu hành cho mình, tự lợi); từ Hạnh Vị trở đi, lần lượt phát lợi sanh Diệu Dụng. Như: Đệ Tứ Hạnh "Chủng loại xuất sanh, cùng tột thời vị lai". Đệ Lục Hạnh: "Thì trong sự đồng nhau hiển hiện ra nhiều sự khác nhau, ở nơi mỗi sự khác nhau đó, thảy đều thấy đồng nhau". Đệ Thất Hạnh: "Hiện sự vật, hiện cảnh giới, chẳng có cái gì ngại nhau". Đệ Thập Hạnh: "Đấy là các Bồ Tát đầy đủ Thần thông, hoàn thành Phật sự rồi, bấy giờ bản thân các Ngài tinh sạch hoàn toàn, đã xa lìa các hoạn nạn từ kiếp nào để lại". Thập Hạnh còn vậy, huống gì Thập Hối Hướng, Thập Địa? Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: Bồ Tát hàng Sơ Địa đủ khả năng phân thân ở khắp một trăm cõi Phật (tức 100 cái Tam Thiên Đại Thiên thế giới) để làm Phật sự. Từ Đệ Nhị Địa trở lên, Địa sau luôn vượt thắng Địa trước gấp mười lần. Cho đến khi đạt tới bậc Diệu Giác rốt ráo (Phật địa), thì Bồ Tát từ Thập Hồi Hướng, Thập Địa, đến Diệu Giác đều gọi là Tông Dụng (Diệu Dụng của toàn thể Chơn Tâm Trí Giác). Sau khi thành Phật, từ nơi Thể (Toàn Giác) khởi Dụng, rộng lợi quần sanh là Dụng; mỗi hội thuyết pháp, quý Ngài đều khiến cho người nghe chuyển mê thành Ngộ, chuyển phàm vào Thánh, đấy là Dụng Dụng.
Kinh nầy gộp cả Tứ Khoa Thất Đại đều Tạng Tánh, Ngài A Nan và Đại Chúng, kiến giải mở lớn trọn vẹn: "Ngộ được thế gian, bao nhiêu sự vật, đều là Bồ Đề, đều là Nguyên Tâm Diệu Minh". Lại, sau khi Bồ Tát Văn Thù thuyết Kệ Viên Thông thì cả Đại Chúng trong Pháp hội xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn tịnh, đều là Dụng Dụng. Mà trong Dụng Dụng có Hiển có Mật. Đại Chúng trong Pháp hội đắc Pháp nhãn tịnh, là Hiển Dụng; Đức Phật thuyết Thần Chú: "Chỉ định Bồ Tát Văn Thù đem Thần Chú đến chỗ A Nan mắc nạn để cứu hộ, dắt A Nan và nàng Ma Đăng Già trở về chỗ Phật". Đấy là Mật Dụng.
V. PHÁN GIÁO TƯỚNG
Cổ Đức bảo rằng: "Giảng giải kỹ càng về Lý để giáo hóa tha nhơn, gọi đó là GIÁO". Nay gọi rằng: Phương tiện lợi sanh của Phật, khéo tùy nghi giáo hóa người khác, gọi đó là GIÁO. Trí Giả Đại Sư triều nhà Tùy tu Pháp Hoa Tam Muội, thâm nhập Thiền Định, đích thân thấy một hội Linh Sơn rõ ràng còn đó chưa tan. Sau khi xuất Định Ngài thuyết pháp biện tài vô ngại, đem các thời thuyết giáo trong suốt một đời của Đức Phật phán làm Năm Thời Tám Giáo.