Home > Khai Thị Phật Học
Nhận Định Về Không Gian Và Thời Gian
Minh Đức Thanh Lương


Mục 14 : Lý tương đối của các pháp trong vũ trụ.

Danh hiệu Phật A Di Đà (Vô lượng quang, Vô lượng thọ, Vô lượng công đức) và thế giơi Cực lạc Tây phương cách xa chúng ta hàng vạn ức Phật độ, đã gợi ý cho chúng ta nghĩ tới hai pháp Phương và Thời trong 24 pháp Tâm Sở bất tương ưng hành của Duy thức tông cùng sự liên quan tương đối của vạn pháp trong vũ trụ Vậy ta phải có một nhận xét sao về Không gian và Thời gian ?

* Theo chân lý thì hai pháp này chỉ là những pháp hư giả, chúng không có tự tính riêng biệt. Chúng Vô ngã. Đó là những sản phẩm do con người tạo ra, dựa vào sự xoay vần của trái đất quanh mình nó và quanh mặt trời. Rồi con người lại tạo ra nào là đồng hồ để đo thời gian, nào là thước tấc để đo không gian, với mục đích là cụ thể hoá những gì mơ hồ trong đầu óc. Giả sử trái đất này ngừng quay hay không còn mặt trời nữa, thì ý niệm về không gian và thời gian cũng tiêu tan luôn, đồng thời với ý niệm, nhỏ, to, trên, dưới, trong, ngoài, quá khứ, hiện tại, vị lai, v.v… sẽ sụp đổ tan tành cùng một lúc với toàn thể vũ trụ. Do đó ta thấy không có gì tuyệt đối, thường tồn trong thế tương đối này cả. Cái này phải dựa vào cái kia để tồn tại theo lý Tương tức, Tương nhập, trùng trùng duyên khởi, và Sự Sự nhất thiết vô ngại mà Kinh Hoa Nghiêm đã đề ra. Theo chân lý thì không có một khoảng cách nào tuyệt đối xa hay tuyệt đối gần, cũng không có một quãng thời gian nào tuyệt đối mau hay tuyệt đối chậm cả. Không có một điểm nào trong không gian được coi là cố định, bất di dịch, có thể dùng làm tiêu chuẩn để ấn định vị trí cho các vật thể khác. Chữ “Định tinh” thật là vô nghĩa và phải xoá bỏ trong Tự điển của loài người, bởi vì không có một vật thể nào trong vũ trụ lại chẳng hằng chuyển. Do đó, tìm một thứ gì tuyệt đối độc lập và biệt lập hoàn toàn đối với các vật thể khác thật là uổng công. Toàn thể nhật nguyệt sơn hà trong bầu khí quyển mênh mông đều có những mối tương quan tương duyên chằng chịt với nhau, không thể tách rời nhau ra được. Tất cả đều nằm trong Tương đối mà nhà Bác học Einstein mới khám phá ra cách đây non một thế kỷ.

* Trong Lã Thị Xuân Thu có câu chuyện “Khắc chu cầu kiếm” được Cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trích dịch trong tác phẩm Cổ Học Tinh Hoa nói về một người đi thuyền vô ý đánh rớt thanh gươm ở giữa dòng sông. Anh ta liền đánh dấu vào mạn thuyền, nơi lưới kiếm bị rơi xuống nước và nói rằng : “Ta đanh rơi thanh gươm ở chỗ này đây”. Khi thuyền vừa cập bến, anh vội thuê người lặn xuống sông, nơi đánh dấu ở mạn thuyền để mò, nhưng tìm sao được thanh gươm ngay gần bờ sông ? Thấy vậy, thiên hạ đều cười, chê anh chàng là ngốc. Thiên hạ chê cười vì anh ta đã không biết là con thuyền đã di động và thanh gươm đổi vị trí, tương đối với chỗ thanh gươm bị rơi. Đó là quan niệm của người xưa về nghĩa tương đối của không gian.

* Trong thi văn, người ta cũng thường thấy các văn nhân thi sĩ đề cặp đến hiện tượng “thời gian ngừng trôi”. Thi sĩ Lamartine trong bài thơ “Le Lac” đã để lại những câu bất hủ :

Ô Temps ! Suspends ton vol ! Et vous, Heure propice, suspendez, votre cours !

(Thời gian hạ cánh chớ bay ! Giờ Hoàng đạo xin ngừng ngay bước dồn !)

Các chàng si tình đều cảm thấy lòng mình như bị lửa đốt khi phải đợi chờ người yêu, vi mỗi phút đợi chờ dài hơn một thế kỷ ! Trái lại, nếu được gần nhau trong một thời gian, rồi lại phải ly biệt thì thấy thời gian ở bên nhau đi mau quá mỗi khắc, mỗi giây tựa như mọc cánh tung bay !

* Với những người phải chịu cực hình ngồi trên ghế điện chờ chết, hoặc trên đống than hồng, cũng cảm thấy mỗi phút trôi qua là cả một thiên thu bất tận ! Hiển nhiên là các văn nhân thi sĩ cũng như những gã si tình hay phạm nhân phải chịu cực hình đều cảm thấy thời gian chẳng phải là một cái gì tuyệt đối, hoàn toàn độc lập với thế giới chung quanh, mà lại tương đối, tuỳ thuận vào tâm thức của con người trong cuộc. Quan niệm về thời gian tương đối của khoa học ở chỗ, trong thi ca, thời gian tương đối lâu hay mau tuỳ thuộc vào tâm của con người, còn trong thuyết tương đối của Einstein thì Thời gian Tương đối lại là một hiện tượng vật lý có thể kiểm chứng, đo lường được. Ở đây tôi chỉ xin nói sơ lược về thuyết tương đối của Einstein. Thuyết này có hai phần :

1.- Tương đối đặc biệt hay thu hẹp (Relativite Spéciale ou restreime) công bố năm 1905, nói về các vật thể chuyển động đều và chịu ảnh hưởng về hấp lực của các thiên thể khác trong vũ trụ. Thuyết Tương đối đặc biệt hay tu hẹp được tóm tắt trong những đề tài về Tương đối của vận tốc của khoảng cách, của thời gian, và của khối lượng.

a. Tương đối về vận tốc : Một cậu bé chăn trâu đứng ở bên đường nhìn thấy một chiếc xe hơi chạy vụt qua trước mặt cậu rất nhanh. Nhưng lúc ấy một người ngồi trong toa xe lửa chạy với tốc độ nhanh gần bằng xe hơi, lại thấy chiếc xe hơi này chạy quá chậm, gần như bò trên mặt đường tựa một con ốc sên. Nếu xe lửa lại chạy nhanh bằng xe hơi, thì đối với người ngồi trong xe hơi hay người ngồi trong toa xe lửa, đều cảm thấy hai chiếc xe này cùng đứng yên không chuyển động, mà chỉ thấy cây cối, cột điện hay nhà cửa ở ven đường thi nhau chạy ngược chiều mà thôi.

b. Tương đối về thời gian : Một chiếc đồng hồ luôn luôn di chuyển, nghĩa là được mang theo với người đi du lịch, ngồi trên phi cơ, chạy với một nhịp độ khác chiếc đồng hồ ở yên một chỗ dưới đất. Đồng hồ được di chuyển càng mau bao nhiêu thì nhịp độ của chiếc đồng hồ ấy lại càng chậm bấy nhiêu. Một hiện tượng thường xảy ra cho người đi du lịch bằng phi cơ là phải điều chỉnh lại đồng hồ mang theo khi đáp xuống phi trường nước ngoài vì giờ địa phương nơi đến khác với lúc khởi hành. Người ta đã tính được rằng : trên một chiếc xe hơi chạy với tốc độ 90 c/s giờ thì đồng hồ chậm lại một phần nhỏ của một giây đồng hồ trong một ngày. Vì thời gian quá ngắn nên ít người để ý tới, song sự chậm đó thực sự có xảy ra. Nếu được di chuyển trên một hoả tiễn bay với tốc độ 150.000 c/s giờ thì đồng hồ chậm lại 3 giờ 10 phút trong một ngày, và nếu lại được di chuyển nhanh bằng tốc độ của ánh sáng (300.000 c/s giây) thì chiếc đồng hồ này ngưng chạy ! Thực ra thì đó chỉ là một giả thuyết mà thôi, bởi vì trên thực tế không có một vật nào trên trái đất này lại chạy nhanh bằng ánh sáng cả (trừ tư tưởng con người). Nhưng giả thử lại có một loại hoả tiễn chạy nhanh tới 200.000 c/s giây, thì bằng phương pháp trắc viễn để đó nhịp tim, nhịp mạch máu và nhịp phát triển bộ phận trong cơ thể của phi hành gia sẽ thấy các cơ quan này hoạt động với nhịp độ chậm hơn lúc bình thường khi còn ở mặt đất, song phi hành gia ngồi trên hoả tiễn đang bay lại chẳng cảm thấy có sự thay đổi gì khác thường cả, bởi vì các máy móc và lục phủ ngũ tạng của người đó đều hoạt động chậm lại như nhau.

* Những câu chuyện thần thoại như Lưu, Nguyễn nhập Thiên Thai hay chàng Từ Thức lạc vào Tiên động được sống với nàng Giáng Tiên trong một thời gian mặn nồng hương lửa, sau lại trở về cõi tục để ngao ngán tiếc rằng mình đã là người của thế hệ mấy trăm năm về trước. Hoặc những câu chuyện khoa học giả tưởng trong đó có những người được đưa tới các hành tinh xa lạ, có nhịp độ quay chậm hơn trái đất, sau một thời gian sống thần tiên ở những phương trời xa lạ ấy sẽ thấy mình đã trải qua một thời gian lâu hàng thế kỷ so với đời sống ở trần gian.

c. Tương đối về khoảng cách : Khi một hoả tiễn vọt lên trời, thì người ở dưới đất thấy hoả tiễn ngắn hơn lúc nó còn nằm ở mặt đất. Ngược lại, người ngồi hoả tiễn lại cảm thấy nhà cửa, cây cối và mọi vật ở dưới đất nhỏ bé và ngắn hơn so với lúc bình thường.

d. Tương đối về khối lượng : Theo Khoa học Vật lý cổ truyền thì khối lượng và năng lượng là hai thứ hoàn toàn khác nhau và không bao giờ thay đổi (Loi de conservation de la maitère ét loi de conservation de l’ énergie). Einstein đã bác bỏ hản hai thuyết trên và cho rằng : Khối lượng của một vật thể tăng lên cùng với vận tốc của nó. Sự chuyển động hay vận tốc là một hình thức của năng lượng, và sự gia tăng khối lượng của một vật thể kéo theo sự gia tốc hay năng lượng của vật thể ấy. Einstein đã cô đọng thuyết này trong công thức E = MC² trong đó E (Energie) là Năng lượng ; M (Masse) là Khối lượng của vật thể ; và C (Constant) là hằng số 3 x 105 tức tốc độ của ánh sáng. Công thức này có nghĩa là một vật chuyển động nhanh bao nhiêu thì sức mạnh của nó cũng tăng lên bấy nhiêu, do đó mà một hòn sỏi rơi gần mặt đất không gây ảnh hưởng gì cả, nhưng nếu nó lại rơi từ cửa sổ của một cao ốc chọc trời sẽ bay vun vút xuống và có thể gây tai hại khủng khiếp đối với những gì ở dưới đất, bởi vì sức mạnh (năng lượng) của nó có thể bằng một khối đá lớn giáng xuống từ trên cao. Khi một vật ở nguyên một chỗ thì năng lượng của nó bằng khối lượng của nó E = M. Như vậy theo Einstein, vật chất không còn là một thứ cố định, không thay đổi, như khoa học cổ điển đã quan niệm lỗi thời nữa. Vật chất sinh ra Năng lượng, và Năng lượng sinh ra vật chất. Khối lượng và Năng lượng hỗ tương. Năng lượng có Khối lượng và Khối lượng có Năng lượng. Nói theo lối Phật giáo thì Khối lượng và Năng lượng tương duyên tương sinh, tương tức tương nhập với nhau chứ không biệt lập và độc lập. Các Khoa học gia ngày nay còn cho rằng : Bản thể của vạn hữu không phải là vật chất mà là Năng lượng (tinh thần) và toàn thể vạn hữu chỉ là Năng lượng mà thôi, vì nếu lấy Điện tử làm cơ sở cho vật chất thì nó không còn là vật chất nữa khi nó ở trạng thái tinh thể loãng và ba động, cho nên các tân khoa học gia mới đi tới kết luận : “Vật chất là năng lượng ở thể cô đọng. Và Năng lượng là vật chất ở thể loãng”, hay “Vật chất chỉ là Tinh thần ở trạng thái chậm lụt” (la matière n’est qu’un ralenti de l’. Esprit) bởi vì Điện tử, nền tảng của vật chất, lại không có khối lượng khi nó ở thể loãng. Theo phương trình của Einstein (E = MC²) thì khi người ta biến đổi hoàn toàn một gramme than đá thành năng lượng thì sẽ được một số năng lượng tương đương với 25 triệu kilowatt/giờ điện, đủ sức cung cấp nguồn điện lực cho một tập thể dân cư của một quận sử dụng tuỳ thích trong suốt một năm, hoặc có thể đun sôi 270 triệu lít nước. Còn nếu chỉ đốt cháy một gramme than đá theo lối thường thì nhiệt lượng phát ra chỉ vừa đủ để làm ấm một ly nước lạnh mà thôi. Nhiệt lượng sinh ra do sự đốt cháy là kết quả của sự phản ứng hoá học thông thường. Nếu cân số tro than còn lại và số thán khí bay ra thì ta sẽ thấy khối lượng vẫn bằng một gramme than đá nguyên chất. Phương trình E = MC² giải thích được tại sao mặt trời cùng các tinh tú có thể chói sáng rực rỡ và phát ra nhiệt độ hàng tỷ tỷ năm qua mà vẫn chẳng thấm vào đâu, còn nếu chúng bị đốt cháy theo lối thông thường, thì chúng đã bị tắt, giá lạnh và tiêu tan từ lâu rồi, chứ không thể còn tồn tại cho tới ngày nay nữa.

Công thức E = MC² đưa tới việc chế tạo ra nguồn năng lượng nguyên tử. Để hình dung mức độ nguyên tử năng to lớn đến bậc nào, ta có những tài liệu sau : nếu phá hết một kilogramme Uranium, thì năng lượng hoặc nhiệt lượng của 1kg uranium gấp 3 triệu lần nhiệt lượng của 1kg than đá đốt cháy theo lối bình thường. Sự biến đổi vật chất ra năng lượng được ứng dụng vào việc chế tạo ra Pile hay bom nguyên tử. Cách 40 năm sau khi công thức Einstein ra đời, hoàn cầu có dịp được kiểm chứng bằng thực nghiệm của khoa học, và toàn thể nhân loại thời đó đều bàng hoàng xúc động khi phải trả giá đắt cho cuộc thí nghiệm của hai trái bom nguyên tử ném xuống tàn sát hơn 35 vạn nhân mạng tại hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Vậy mà bom hạch tâm ngày nay với sức tàn phá của hàng triệu tấn thuốc nổ T.N.T, so với bom nguyên tử đầu tiên thời xưa còn mạnh gấp hàng ngàn vạn lần !

* Einstein lại còn đưa ra thuyết Không gian bốn chiều để đánh đổ quan niệm lỗi thời về Không gian ba chiều (rộng, dài và cao). Theo ông thì Không gian liên tục và thay đổi cùng với Thời gian trôi qua. Ông cho rằng : thuyết Không gian ba chiều không đủ để diễn tả Thực tại, mà còn cần phải thêm chiều thứ tư nữa là Thời gian mới đo được chính xác bởi vì quả đất không ngừng quay. Không những trái đất xoay quanh trục của nó mỗi ngày 40.000 cây số, và xoay quanh quỹ đạo mặt trời mỗi giây đồng hồ 30 cây số, mà nó còn bị lôi cuốn vào cơn lốc xoay tít của tất cả mọi vật thể khác trong vũ trụ nữa. Muốn ấn định vị trí một phi cơ đang bay cần phải biết rõ phi cơ ấy ở kinh tuyến nào, vĩ tuyến nào, độ cao nào, và ở thời điểm nào nữa. Do đó để diễn tả vị trí của một vật thế đang di động (mà vật thể nào lại chẳng di động hoặc bị di động ?), ta phải dùng đến quan niệm Không gian và Thời gian (Espace Temps), nghĩa là Không gian và Thời gian là một, tương tức, tương nhập luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thành một thể duy nhất bất khả phân.

Không gian 4 chiều là hình của Không gian 3 chiều di động từng sát na. Thế giới mà ta đang sống là một khoảng bao la, vô giới hạn, trong đó mọi hiện tượng tâm vật và sinh lý đều diễn ra đồng thời ở trên hai bình diện Không gian và Thời gian, không thể tách rời hai phần đó ra được. Có Không gian là có Thời gian và ngược lại. Nếu vì một lý do gì mà Thời gian ngừng trôi theo như nguyện vọng của những chàng trai si tình như Thi sĩ Lamartine, hay một vật thể nào trong vũ trụ lại đóng vai trò Định tính, đứng yên một chỗ, không bị di động trong cơn bão lốc đang xoay tít của toàn thể, thì bao nhiêu tinh tú, sơn hà, nhật nguyệt của vũ trụ đều bị ảnh hưởng tức khắc, theo lý “Trùng trùng duyên khởi”. Theo Einstein thì không có một điểm nào trong Không gian lại cố định cả. Toàn thể vũ trụ đều ở trong Không, Thời gian 4 chiều, mật thiết liên đới với nhau. Sự cách trở được diễn ra đồng thời trên cả hai mặt Phương và Thời chứ không phải chỉ thuần ở trên mặt Không gian hoặc Thời gian mà thôi. Ánh sáng là một hình thức năng lượng nên nó cũng có khối lượng (E = M). Khi ánh sáng xuyên qua những khối vật thể lớn thì nó bị hút bởi các vật thể ấy và đi theo một đường cong thay vì đường thẳng, bởi vì không gian ở đây cong hơn ở những nơi có vật thể tương đối bé. Sự có mặt của một vật thể trong vũ trụ làm cho Không gian bao quanh nó bị cong lại, vì vậy mà không thể có được đường thẳng tuỵêt đối theo kiểu Toán học cổ điển. Einstein cho rằng đường thẳng chỉ có ở những đoạn ngắn, còn ở quãng xa nó trở thành cong chứ không thẳng nữa, và những đường thẳng song song đều gặp nhau ở tâm điểm của trái đất. Cũng theo Einstein chỉ có thời gian địa phương chứ không có thời gian phổ quát, vì vậy mà ý niệm về “bây giờ” chỉ được áp dụng cho “ở đây” mà thôi, chứ không thể áp dụng cho một nơi xa xôi nào khác.

Tóm lại, theo thuyết của Einstein thì Không gian và Thời gian không được coi là hai thực thể cố định tuyệt đối độc lập và vô cùng tận. Hai thứ đó đều không có thực, cũng chẳng thực không. Nếu tách rời ra thì không có Không gian và Thời gian có tự tính riêng biệt, mà chỉ khi nào chúng phối hợp với nhau chặt chẽ thành một khối duy nhất mới diễn tả được thực tại. Trên thực tế thì Không gian chỉ là cái dùng để chỉ khoảng cách giữa hai vật thể, và Thời gian chỉ là cái dùng để chỉ sự liên hệ trước sau giữa các biến cố trong trời đất. Sự hiện diện của các vật thể và các biến cố kéo theo sự có mặt của Không gian và Thời gian. Không gian chỉ là một (Sự) trong những số lượng biến đổi (Vô ngã), và Thời gian chỉ là một (Sự) trong tương đối (Vô thường). Thế giới của Không gian và Thời gian chẳng qua chỉ là một ngục tù mà chúng ta khó lòng thoát ra khỏi, bởi vì chúng ta luôn luôn bị trói buộc trong vòng nhân duyên. Khi nào con người chưa tìm được một thế giới không bị hạn cuộc bởi không gian và thời gian như thế giới Cực lạc Tây phương của Phật A Di Đà (Vô lượng Thọ, Vô lượng Quang, Vô lượng Công đức) thì con người vẫn là một sinh vật khổ đau.

Ta nhận thấy : bằng đường lối quan sát các hiện tượng khoa học ở đầu thế kỷ XX đã khám phá ra được chân lý Tương đối trên mặt Không gian và Thời gian và cho nhân loại nhận thấy rõ thuyết Khối lượng và Năng lượng (E = M) hay vật chất và Tinh thần hoặc Tâm cảnh Nhất như.

Bằng đường lối thực nghiệm tâm linh, các Thiền sư trong đạo Phật đã nhận thấy rõ Chân lý Tương đối cách đây trên 2500 năm. Theo đạo Phật thì quan niệm Không gian và Thời gian là hai “Sự” khác biệt hẳn nhau hoàn toàn không đúng, và với lý “Sự sự vô ngại” Pháp giới thì Không gian và Thời gian không còn là hai “Sự” biệt lập và độc lập với nhau mà chúng hoà hợp với nhau như nước với sữa để trở thành một “Sự” duy nhất Không - Thời gian trên mặt danh từ cũng như trên mặt thực dụng.

* Một phương pháp của đạo Phật để đạt tới thực tại tuyệt đối là loại trừ những cảm giác chủ quan do lục căn, lục thức của cá nhân tiếp xúc với lục trần, có tính cách “biến kế sở chấp” tính và phân biệt tính đã ghép vào thực tại tuyệt đối. Duy thức học Phật giáo chủ trương dùng phương pháp “Thu thúc lục căn” để đạt tới Thực tại tối hậu, nghĩa là ngăn không để cho lục căn lục trần tiếp xúc với nhau. Nếu ta nhắm mắt, bịt tai lại, không nhìn, không nghe sự vật diễn biến chung quanh, ta vẫn còn thấy có một ý niệm về thời gian diễn biến bên trong, trôi đi không ngừng như một dòng suối âm thầm chảy. Ý niệm đó cho ta cái cảm giác miên tục của dòng sinh mệnh không chia cắt thời gian thành quá khứ, hiện tại và vị lai. Ý niệm này có tính cách trực giác, không qua trung gian của một giác quan nào cả. Đồng thời lại có một ý niệm thứ hai xuất hiện : đó là ý niệm về Không gian. Những gì mà ta trông thấy quanh mình đều không phải là thực tại tuyệt đối ở ngay chính thời gian mà chúng được quan sát, vì thực ra đó chỉ là bóng ma của những vật ấy trong quá khứ mà thôi.

Thí dụ như ánh sáng mặt trời mà ta nhìn thấy lúc này chỉ là thứ ánh sáng ở vào 8 phút đã trôi qua, vì ánh sáng phải mất 8 phút để đi từ mặt trời tới trái đất. Sự kiện trên cũng đúng với những vật ở quanh ta. Ở đây khoảng cách về thời gian trước sau tuy ngắn ngủi, song không vì thế mà ta có thể phủ nhận được nó. Sự cách trở như vậy đã xảy ra ở cả hai mặt Không gian và Thời gian, chứ không chỉ thuần tuý diễn ra ở một phương diện nào mà thôi. Nói cách khác thì chúng ta nhìn ngoại vật không chỉ riêng về mặt Không gian mà còn cả về mặt thời gian trong quá khứ nữa. Do đó, không gian và thời gian, dưới con mắt của nhà Duy Thức học rõ ràng có tính cách tương tức, tương nhập, không hề cách biệt, độc lập và xa rời nhau.

* Toàn thể Pháp giới, Hư không giới đều bị không gian và Thời gian bao vây, khó thoát.

Mặt khác toàn thể vũ trụ và Pháp thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, cảm ứng điều hoà, nhịp nhàng như tuân thủ một nhịp điệu huyền vi của một trái tim khổng lồ. Trái tim ấy là A lại da thức của toàn thể Pháp giới mà mặt trời là vật tượng trưng (hay là Phật A Di Đà được nhân cách hoá), là nơi phát nguyên của động lực sinh thành, theo luật “trùng trùng duyên khởi” và “tương tức tương nhập” có diệu dụng ứng hiện ra muôn ngàn hiện tượng dung thông vô ngại, sinh sinh hoá hoá, từ vô thuỷ đến vô chung, góp phần vào mục tiêu đưa toàn thể thế giới tới đích “Chân, Thiện, Mỹ” - nguyên động lực ấy là cái “Thiên Địa chi Tâm” hay cái Tâm diệu dụng của người giác ngộ dự phần đóng góp vào cứu cánh tròn đầy của vũ trụ.

* Thể tính của Không gian và Thời gian vốn Vô vi, bất sinh bất diệt, bất khứ bất lai, nên Không gian và Thời gian chính là Chân như, là Như Lai, hay cái Thể Chân Không Diệu Hữu của muôn vật, Không gian và Thời gian kết hợp lại tạo ra thế giới vạn hữu là đại vũ trụ, con người là một tiểu vũ trụ nằm trong cái khối đại vũ trụ ấy, cho nên khi hành giả quán chiếu tự tâm, đi sâu vào nội giới để kiến tính thì bắt gặp Không gian và Thời gian bên trong và bên ngoài giao hội tại nội tâm. Khi ấy thì tâm của hành giả vượt qua mọi đối đãi giữa Hữu và Vô, nội và ngoại, trên và dưới… và cảm thấy một sự sống động liên tục, bất nhị, hằng chuyển.

* Khi nói đến sự chứng ngộ về Hư không trong Thiền quán ở cõi “Thức vô biên xứ” và “Hư không vô biên xứ”, người ta đề cập đến chiều thứ tư là Thời gian. Nói cách khác thì Không gian và Thời gian mà ta vẫn quan niệm xưa nay là “Tĩnh” và bao la như một cái khung bất động, thực ra nó vẫn “Động” bởi vì vũ trụ không ngừng quay và chiều thứ tư của Không gian, chính là đường gặp gỡ của Không gian và Thời gian cùng chuyển động. Về mặt tâm linh, sự tiếp nối giữa không gian và thời gian trở thành một sự đi sâu vào nội giới. Sự tiếp nối đó được diễn ra trong Tâm định, giữa lúc Thiền sư đi sâu vào nhập định tam muội. Khi tiến sâu vào đáy lòng mình bằng con đường Thiền quán thì hành giả cảm thấy không gian và thời gian co rút ngắn lại, tưởng chừng như tụ vào điểm “Không” nhưng kỳ thực nó lại vươn lên, tiến tới bao la vĩnh cửu, vô cùng cực, ở chỗ thâm sâu vô đáy của Chân tâm. Trái lại khi ngó ra phía ngoài, hành giả lại cảm thấy không gian với thời gian như giãn dần và toả rộng, trải dài khắp nơi, tưởng chừng như đi tới cùng cực, mà thật ra nó lại biến vào hư vô, không thấy tăm hơi, cho nên mỗi phút giây trong Thiền quán vào Hư không Vô biên giới ví tựa thiên thu vô tận. Trong sự dung thông dung nhiếp của Không gian và Thời gian, nghĩa là trong cái “nhất điểm tối hậu và vô lượng” nối liền sát na với a tăng kỳ kiếp, nối liền “nhất niệm, vạn niên” và “vạn niên, nhất niệm” ấy có nhiều tên gọi khác nhau, nào là : Số không, giọt nước, cái hạt, cái mầm, tinh trùng, điện tử, đương xứ… Đó là nơi khởi điểm của một Tâm Định, từ đó sức Thiền quán lần làn toả rộng, bao la, khắp pháp giơi, đồng thời cũng là nơi chấm dứt của mọi sự thể nhập. Chính tại nơi tụ điểm này mà không gian bên trong và bên ngoài gặp nhau tại nội tâm, để cùng tại đây mà không gian trong và ngoài hoà nhập với thời gian. Hành giả lúc đó cảm thấy sự hiện diện của nó ở nhịp đập âm thầm của con tim.

* Đối với Thời gian, đạo Phật cho rằng : Quá khứ, Hiện tại và Vị lai liên tục ví như một dòng suối hằng chuyển không ngừng. Người tu hành sống thư thái, ung dung, không quan tâm tới thời gian qua lại, hoà hợp với thiên nhiên trong nhịp vận hành của toàn thể vũ trụ. Muốn hiểu quan niệm nhân sinh trên ta hãy đọc bài kệ sau đây :

Chư hành vô thường.
Thị sinh diệt pháp.
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc ?

Chữ “Hành” ở đây bao gồm cả ba thời : quá khứ, hiện tại và vị lai. Các tư tưởng và hành động của ta đều là những pháp Vô thường, luôn luôn sinh diệt. Khi đã siêu lên trên sự Sinh Diệt của các pháp, không trụ tâm vào đâu cả thì con người được an lạc, tự tại, ở trong cảnh tịnh tĩnh Niết bàn. Vậy muốn thoát vòng tử sinh, phải xa lìa các pháp hữu vi sinh diệt. Tâm không được trụ vào bất cứ điểm nào của không gian và thời gian.

* Như trên đã nói : Không gian và Thời gian là những pháp tương đối, tương tức, tương nhập, dung thông với nhau theo lý Sự Sự vô ngại Pháp giới. Những điểm không gian và thời gian tiếp nối nhau như những hạt điện âm dương trong một dòng điện để đi đến chỗ không còn phân biệt nổi đâu là không gian, đâu là thời gian nữa, bởi lẽ không có một sự vật nào ở yên tại chỗ mà không bị xê dịch từng sát na theo cái đà hằng chuyển của toàn thể vũ trụ trong cơn lốc vô ngã, vô thường. Dù cách xa tới đâu, dù lâu dài bao nhiêu thì không gian và thời gian cũng chỉ là ý niệm hay những pháp mê vọng do tâm con người tạo ra mà thôi. Chính mê vọng đã dệt thành màng lưới không gian và thời gian để giam hãm tâm hồn chưa giác ngộ. Còn sống trong thế giới nhị nguyên tương đối, phân biệt và sai biệt. Thực tại về Không gian và Thời gian vốn là Chân Không Diệu Hữu, bất biến tuỳ duyên và tuỳ duyên bất biến. Rời bỏ mê vọng, diệt trừ những tư tưởng phân biệt và sai biệt thì khoảng cách dù to đến đâu cũng chỉ là ở trong gang tấc, và thời gian, dù lâu dài đến đâu, cũng chỉ ở trong phút giây. Cực lạc hay Ta bà chỉ do một niệm của tâm khởi. Khoảng cách ngàn trùng vẫn là khoảng cách của mê vọng và Cực lạc Tây phương vẫn ở trong cuộc sống này và ở tại đây. Thực tại thì Nhất Như không biến đổi, chỉ có Tâm vọng động của con người mới chuyển biến không ngừng.

* Ta nghĩ sao về con số “Ba a tăng kỳ kiếp” (Số 3 kèm theo 47 số không) là thời gian cực dài của lối tu Tiệm ngộ, theo Sự Tướng hữu vi, hay lối tu đãi Phú so với một Niệm hay Sát na Tam muội (1giây đồng hồ chia cho 10, kèm theo 43 số không, 1”:1043 ) là thời gian cực ngắn của giác ngộ tại tâm, hay trực giác tâm linh, theo lối tu đốn ngộ của Vô vi pháp phải chăng chỉ do một cử chỉ quyết liệt, cực nhanh của tư tưởng quay đầu trở lại, dứt khoát từ bỏ ác niệm, đoạn tuyệt nếp sống xưa, thay vì hướng ngoại chạy theo tiếng gọi của vật chất, tham, sân, si, phù du biến ảo lại hướng nội, kiến tính, để làm sáng tỏ những đức căn bản sẵn có của tự Tâm, tìm về với Lương Tâm, Phật tính của mình.

* Biết vọng là Chân. Biết là mê muội mà từ bỏ mê muội thì liền trở thành Phật sáng suốt, giác ngộ. Ta phải biết Chết đi để sống lại, chết đi những nết xấu tật hư của thất tình lục dục để được giải thoát khỏi cái Ta điên dại, điên cuồng, chỉ quen phân biệt ngã, nhân, để sống theo ý nghĩa thiêng liêng cao cả của Chân lý “Vật vật đồng nhất thể”, “Một là Tất cả, Tất cả là Một”.

* Khi đã từ bỏ được quan niệm sai lầm về Không gian và Thời gian là hai thực thể độc lập tuyệt đối và vô cùng tận ta cũng rời bỏ được quan niệm sai lầm về mạnh và yếu, lớn và nhỏ tuyệt đối, về một và nhiều, về quá khứ, hiện tại, vị lai. Lúc đó ta không còn phân biệt nữa, và ta có thể “đem tương quá khứ và hiện tại đặt vào tương lai, đem tương lai và hiện tại đặt vào quá khứ, một niệm đặt vào trong muôn niệm, đem muôn niệm đặt vào trong một sát na…

Dùng tâm bình đẳng vô phân biệt nhìn vũ trụ ta sẽ thấy không những một hạt bụi chứa cả không gian vô cùng mà còn chứa cả thời gian vô tận nữa, và một niệm không những chứa không gian vô biên mà chứa cả thời gian vô hạn nữa, nếu ta biết nhìn sự vật không hời hợt qua sắc tướng bề ngoài, mà lại nhìn sâu vào cốt lõi, chân thể của chúng ở bên trong, hay nếu ta biết nhìn sự vật, qua lăng kính tương tức, tương nhập, trùng trùng duyên khởi và nhất thiết vô ngại. Với nhãn quan ấy ta sẽ thấy : phải có cái này mới có cái kia, cái này là cái kia, cái kia là cái này… Tất cả những diễn biến trong vũ trụ đều do sự suy động của ngọn gió nghiệp và luật nhân quả tuần hành. Sự diễn trình biến đổi của vạn hữu có tính cách tuyệt đối bình đẳng. Không có một vật nào quan trọng hơn vật nào bởi lẽ vạn vật đều vô tự tính, Vô ngã, Vô thường như nhau.

Theo quan niệm “Nhất trần Pháp giới” thì một hạt bụi chứa đủ những bí ẩn ngang các tinh cầu, và bao hàm cả tam thiên đại thiên thế giới. Dưới con mắt của nhà Vật lý học đương thời, họ cũng nhận thấy rõ là vũ trụ đồng nhất thể, dù là Tinh cầu, Nhật nguyệt, côn trùng hay chất óc của con người, tất cả đều được cấu tạo bằng những nguyên tử như nhau. Trong mỗi nguyên tử có cùng một loại vi trần là Dương điện tử và Âm điện tử cùng Trung hoà tử. Nếu phân tích đến cùng cực thì chỉ còn là một hệ thống về vật chất tiêu tan, và cái gì cũng vừa liên tục, vừa đứt đoạn, vừa là vi trần vừa là làn sóng ; vừa là Vật lại vừa là Tâm. Khuynh hướng của những nhà Vật lý học ngày nay là quy cả vũ trụ vào trong các làn sóng điện ngắn dài.

Vật chất không thường còn mãi mãi mà nó có thể biến đổi giả diệt giả sinh. Hễ vật chất diệt thì năng lực sinh, mà năng lực diệt thì vật chất lại sinh. Năng lực (tinh thần) và vật chất thay phiên nhau biến hoá. Cái tướng sinh diệt của vạn hữu do đó chỉ là giả tướng, còn bản thể của chúng thì không hề sinh diệt. Và như vậy thì khoa học ngày nay cũng đi tới kết luận như Phật giáo là : Thế giới vật chất hữu hình thật ra chỉ là những bóng hình không tướng, bất sinh, bất diệt, bất giảm, bất tăng (Rien ne se perd, rien ne se créé - Loi de Lavoisier) và chứng minh được câu : “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc…” của Bát Nhã Tâm Kinh, cũng những câu : “Ba a tăng kỳ kiếp chẳng khác một Sát na”, “Trong một hạt bụi chứa cả ngọn núi Tu Di”, “Ở đầu một sơi lông hiện ra mười phương cõi Phật”, và “ngồi trong hạt cải mà chuyển được Đại Pháp Luân” của Kinh Hoa Nghiêm. Ta cũng thấy rõ ý nghĩa những câu trong bài Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán, do Trúc Thiền dịch dưới đây :

Khoảnh khắc là vạn niên
Mười phương trước mắt liền.
Cực nhỏ là cực lớn
Đồng nhau, bặt cảnh duyên.

Cực lớn là cực nhỏ,
Đồng nhau chẳng giới biên.
Một tức là Tất cả,
Tất cả tức là Một.
Quý hồ được như vậy,

Lo gì chẳng tròn đầy

* Theo tài liệu của khoa Vật lý học ngày nay thì trong một giọt nước có khoảng 6 triệu triệu tỷ nguyên tử. Nếu một người chỉ nhỏ bằng một hạt nguyên tử thì toàn thể dân tộc Việt Nam 60 triệu người, ngồi quây quần sát vào nhau, chỉ chiếm một khoảng nhỏ xíu trên đầu một chiếc kim gút mà thôi. Hình ảnh này trung hợp với câu thơ của một Thiền sư đời Lý :

Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

(Càn khôn rút lại đầu lông xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng).

* Khoa học ngày nay đã nhận thấy rằng nguyên tử tuy rất nhỏ, song điện tử (Electron) mang tính chất Âm điện, Proton mang tính chất Dương điện và Neutron hay Trung hoà tử, mang thành tính chất trung tính, ba thứ này hợp lại tạo thành một hạt nhân nguyên tử, còn nhỏ hơn nguyên tử hàng 2 tỷ lần. Nếu một nguyên tử to bằng một quả bóng lớn thì hạt nhân nguyên tử chỉ bằng một hạt bụi nhỏ mà thôi. Trong khoảng gần như trống rỗng chung quanh hạt nhân nguyên tử thì các hạt Điện tử Electron quay trên một quỹ đạo tròn hay đẹp, chẳng khác nào những hành tinh quay chung quanh mặt trời vậy. Hạt cải tuy nhỏ so với vũ trụ, cũng như hạt nhân nguyên tử so với nguyên tử tuy chẳng ra gì song chúng đã được tạo lập trên sự liên hệ của toàn thể. Tất cả vũ trụ đều hoà hợp trong một tấu khúc chung để tạo nên hạt cải hay hạt nhân nguyên tử, cũng như hạt nhân nguyên tử đã hoà hợp với toàn thể để tạo ra nhật nguyệt, tinh cầu. Cái cực đại phải dựa trên cái cực tiểu để tồn tại. Không có cái cực tiểu thì không thể có cái cực đại được. Càn không nằm gọn trên đầu một sơi lông tơ chính là ý nghĩa ấy. Sự lớn nhỏ sai biệt trên mặt Sắc tướng và hiện tượng không còn là sự lớn nhỏ nữa nếu ta đứng trên bình diện tuyệt đối bình đẳng và dưới cặp mắt của nhà tu hành đạt đạo, sống với tâm vô phân biệt, hay sống với lý Bất Nhị và Sự Sự nhất thiết vô ngại. Hiểu lẽ mạnh yếu, lớn nhỏ của các pháp trong vòng tương đối, lại hiểu lẽ Sống Chết chỉ là thường tình trong cõi đời này thì tâm của người đạt đạo lúc nào cũng tự tại an lạc.

Mục 15 : Vũ trụ và con người

Đứng trước vũ trụ bao la, giữa không gian và thời gian rộng lớn bất tận, con người phải đóng một vai trò như thế nào để xứng đáng với địa vị của mình trong Tam Tài ? Con Đường Lý Tưởng phải chọn để tiến tới đỉnh Vinh quang Hạnh phúc Tuyệt đối phải ra sao ? Và sự liên hệ mật thiết giữa con người biết suy nghĩ với vũ trụ vô hồn phải như thế nào ? Đó là những mối ưu tư chính đáng và những hoài bão thiết tha của những người có Đạo Tâm.

* Xét ra thì Con người và Vũ trụ chỉ là Một theo lý Vạn vật đồng nhất thể. Cả hai đều phải chịu chung quy luật Sinh, Trụ, Dị, Diệt trong guồng máy dịch biến chu trần : Nguồn sống là Đạo, là Phật, là Tâm. Nguồn sống mầu nhiệm cao cả, thiêng liêng tràn lan khắp nơi, triền miên, ẩn hiện, có mặt trong toàn thể các sinh vật, từ cỏ cây côn trùng, muông thú… cho tới loài người. Thậm chí đến cả những khoáng chất, những thể xác vô giá vô tri vẫn có sự Sống. Mọi sự vật trên đời này chẳng gì không là Đạo, là Phật, là Tâm. Nguồn sống là ánh sáng. Trí huệ biến chiếu muôn phương. Nguồn sống được thần linh hoá dưới nhân cách Phật Tỳ Lô Giá Na hay Phật A Di Đà. Đứng trước sự sống thì muôn loài như nhau. Ai làm ngăn trở nguồn sống, xúc phạm tới sinh mạng của kẻ khác, vật khác thì người ấy đắc tội với Phật, Trời. Đạo và Phật ở ngay trong lòng ta, sở dĩ ta chưa thấy được Phật của mình chỉ vì Phật ở trong ta còn bị giam giữ (Như Lai tại triền). Nếu ta biết làm sáng tỏ chiếc đèn lòng của mình để vô minh tan biến, thì Đức Phật A Di Đà của ta sẽ xuất triền và tỏ rạng.

* Theo lý bình đẳng của các pháp thì chẳng phải Tâm có trước hay Vật có trước, mà Tâm, Vật đồng thời có. Vật sở dĩ có là do tâm biến hiện, mà Tâm biến hiện vì có huyễn tướng vật thể tồn tại. Tâm Vật hoà hợp tương tức tương nhập mới là Thể viên mãn tạo ra vũ trụ vạn hữu.

* Chẳng phải vì thích ứng với hoàn cảnh mà con người tồn tại trải qua quá trình chuyển biến từ cấp sinh vật hạ đẳng, leo dần tới địa vị con người. Chẳng phải vì sự tuyển lựa tự nhiên và đấu tranh đào thải mà con người hiện hữu. Không có một định mệnh khắt khe nào an bài số phận con người. Không có một vị Thần Linh nào ban ân giáng hoạ cho ai cả. Cũng không phải vì ngẫu nhiên, vô tình hay hữu ý mà vạn vật xuất hiện, mà chính là do nhân duyên mà vạn hữu được kết hợp. Mọi vật đều giả diệt, giả sinh thuận theo luật nhân quả nghiệp báo tự nhiên mà hiện hữu… Hạnh phúc hay không đều do mình tự tạo. Trên lý Vô ngã, Vô thường, đạo Phật đã xây dựng thuyết Duyên khởi trùng trùng để làm sáng tỏ lẽ sống chết, nào là : Nghiệp cảm duyên khởi, Lục đại duyên khởi, A lại da duyên khởi, Chân như duyên khởi và Pháp giới trùng trùng duyên khởi.

* Thiên nhiên, con người, bản năng và tâm linh đều biến đổi không ngừng. Sự khác biệt giữa con người và vạn hữu chỉ ở phần Sắc Tướng, hình hài, tuỳ nghiệp Thức phải mang. Con người và vạn hữu đều cùng chung một cấu trúc. Một tế bào trong cơ thể con người giống như của vũ trụ, do đó tâm con người là tâm điểm của vũ trụ, còn xác thân tứ đại của con người là khung cảnh của đại vũ trụ thu hẹp lại. Vũ trụ hằng chuyển trong con người, và mọi định luật dịch biến trong vũ trụ đều áp dụng cho con người cả hai phần Danh và Sắc. Do đó con người phải có bổn phận cao cả như vũ trụ mỗi ngày mỗi tươi đẹp hơn.

Sinh ra, lớn lên, làm việc để trả nợ cơm áo, con người thấy mình, khi bước vào đời, mang một nhiệm vụ cao cả, là phải gánh vác cho sự tiến bộ chung của toàn thể nhân loại. Nếu có một sự vô tình lảng tránh trách nhiệm chung ấy, của một phần tử nào trong xã hội loài người, thì đó chỉ là bức màn vô minh rủ xuống chỗ đó để che lấp phần linh quang riêng của phần tử đó mà thôi. Bước chân vào đời, con người không thể tự coi mình đứng ngoài vòng vũ trụ và xã hội loài người, hay coi vũ trụ và nhân loại là đối tượng khách quan với mình. Nhiệm vụ đồng hành của con người và vũ trụ được thể hiện ở sự tiến hoá chung của nhân loại trong mối tương quan chằng chịt nhân quả trùng điệp của mọi người trên trần gian. Bởi vậy sống ở đời theo đúng nghĩa của chữ Sống, phải hành động như một sinh linh có ý thức trách nhiệm cao, nhận gánh vác sự mạng do vũ trụ vĩ đại đặt lên đôi vai nhỏ yếu của mình, có như thế thì con người mới khỏi bị tấm màn vô minh vây bủa, đưa đẩy mình vào con đường ích kỷ nhỏ hẹp, chỉ biết có phận mình, không thấy quyền lợi của tha nhân, sống thản nhiên góp mặt với đời cho qua những ngày vô vị để rồi trở về với cát bụi, tàn lụi như cỏ cây.

Nhìn dòng nước chảy hay đám mây lơ lửng bay, là thấy cảnh vật mỗi lúc mỗi đổi mới. Đời người cũng vậy. Dòng nước sau đẩy dòng nước trước chảy mau về đại dương. Thế hệ người đi sau thôi thúc lớp người đi trước phải dồn bước về tương lai. Thế hệ hiện tại có trách nhiệm đối với thệ hệ mai sau. Lớp người đi trước mang di sản của tiền nhân để lại trao cho thế hệ đến sau cùng với công sức của mình.

Những bước tiến gắn liền trách nhiệm của mọi người trong một thời đại và mọi khung cảnh, chẳng những đối với các bạn đồng ngũ ngày nay mà cả đối với những người ở các thế hệ mai hậu nữa. Hai tiếng “nhân sinh” mang cả hình thức của không gian sinh động và của thời gian chuyển biến không ngừng.

Cá nhân không thể sống tách rời khỏi cộng đồng xã hội loài người, mà xã hội nhân quần cũng không thể tồn tại nếu vắng bóng cá nhân. Đời sống xã hội đã gắn liền với đời sống cá nhân theo lý Cộng nghiệp, Tự nghiệp, và Cộng biến, Tự biến trong thế liên hoàn trùng trùng duyên khởi.

Nhìn dòng nước chảy, ta thấy có sự kết hợp chặt chẽ giữa các giọt nước trong dòng suối với nhau để tạo thành một dòng suối luân lưu bất tức. Dòng nước ngưng chảy nếu các giọt nước bị đứt đoạn, mất keo sơn gắn bó. Cuộc đời cũng vậy. Dòng đời lơ lửng nhân thế trôi nổi. Bọt nước Vô thường biến hiện ở nơi đầu ghềnh sinh tử. Xã hội nhân sinh, tập thể biến dịch hằng chuyển mang sắc thái mông lung, nhưng vẫn giữ được cái tính đặc thù, vì trong cái Thể chung vẫn có Tướng, Dụng riêng. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn nhận cái Thể chung ấy mà xoá bỏ những nét dị biệt của nhóm nhỏ, để tiến tới sự nhận định về thiết lập một xã hội Chủ thể duy nhất là xã hội của toàn thể loài người nói chung. Không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, giàu nghèo, văn hoá, tôn giáo…

Nhân loại là Thể tính không riêng tư, còn cá nhân và các đoàn thể quốc gia và đảng phái chính trị là những hình thức dị biệt sai thù, quyền lợi khác nhau. Xã hội của toàn thể loài người hiện nay đang lâm vào tình cảnh cốt nhục tương tàn, cá lớn nuốt cá bé, gây bởi lòng vị kỷ cá nhân. Chữ “Cá nhân” ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là đoàn thể quốc gia mang nặng tính chất phân biệt chủng tộc và sắc thái ái quốc bộ lạc cuồng nhiệt. Chúng ta hãy mau dẹp bỏ mọi tư tưởng kỳ thị đưa tới những chế độ chủng tộc hẹp hòi ác độc, dã man, phát xít, những chế độ nuôi dưỡng và bám giữ lấy những quyền lợi cá nhân, gia đình và quốc gia nhỏ bé, để nới rộng vòng tay nhân ái bao quát, tiến tới sự liên kết và thiết lập một cộng đồng hay đại gia đình của loài người nói chung bằng tình thương thay vì tranh chấp hận thù. Hãy công bằng, nhân ái với mọi người, diệt trừ ngã ái, ngã si, hiểu sau lẽ phải là mọi sự vật đều Vô ngã, Vô thường, Biến dịch, nhưng lại diễn ra trong thường hằng của bậc thang tiến hoá chung.

Đám mây u ám với những sấm sét ầm ầm còn kéo đến bao phủ đe doạ khắp nơi, một cơn bão khủng khiếp có thể tận diệt muôn loài, nhưng đó lại có thể là triệu chứng một cơn đau của một cơ thể đầy nhựa sống, cố sức vươn lên, chuyển biến, từ trạng thái vô minh đến tuệ giác, từ cuồng loạn tới thái bình thịnh trị vĩnh cửu, để loại bỏ những cặn bã mà trở nên tốt đẹp. Mây đen tuy kéo đến bao phủ bầu trời, nhưng nếu lại được một ngọn gió dịu hiền cuốn sạch, thì nền trời xanh biếc lại phô bày mầu thiên thanh tươi mát. Sự cứu vãn nhân loại bắt đầu từ sự cứu vãn tâm linh của từng cá nhân ý thức được hiểm hoạ của một sự tận diệt muôn loài, biết quay đầu về chân lý, và trở về với Chân tâm, Phật tính của mình.

Mục 16 : Đạo và Đời

Sống giữa một kỷ nguyên mà Khoa học được tôn sùng như một vị Thần linh uy quyền vạn năng, có thể làm mưa làm gió biến đổi thời tiết, chế ngự thiên nhiên, chuyển những vùng sa mạc cát bỏng khô cằn thành đồng ruộng phì nhiêu, phá băng giá, lấp cạn biển, bạt núi rừng, ngăn thác nước, đem điện lực của Trời và sức mạnh của sóng, nước, gió, lửa phục vụ cho con người nâng cao đời sống của nhân loại ngang hàng Thần tiên, nhưng cũng có thể bắt sinh linh đi ngược trở về đời sống hang động thời Tiền sử.

Ta cần phải biết rõ mặt trái, mặt phải của khoa học ra sao, cùng những điểm dị đồng giữa Khoa học và Đạo học (nhất là đối với Đạo Phật) để tìm một con đường lý tưởng, thích hợp với loài người, và để người người cùng nhau, tay trong tay siết chặt đem hết tâm lực ra cùng xây dựng một đời sống mới tốt đẹp hơn.

* Điểm giống nhau giữa Phật giáo và Khoa học hiện đại là từ 25 thế kỷ qua, Phật giáo đã đẩy lui vấn đề siêu hình ra phía sau hậu trường hoạt động, đẩy lui những tư tưởng khổ khan, trừu tượng để báo động tình trạng khẩn trương về thân phận khổ đau của con người.

Giống như các tư tưởng gia đương thời. Phật giáo đã thức tỉnh con người ý thức được chình mình và giúp con người nhận thức được hoàn bị hơn, lại chỉ cho con người phương thức để tự giải thoát, không như những triết gia hiện đại nhìn cuộc đời thấy hoàn toàn là phi lý, xấu xa và bi quan chán nản đến buồn nôn, không giải quyết được gì cả. Trái lại, với lý Vô ngã, Vô thường và Tứ Diệu Đế đã bao hàm ý thức giác ngộ về mình và người, đã chứa sẵn một năng lực giải thoát cho toàn thể.

Chỗ giống nhau ở hai bên ở điểm nhà Khoa học dùng trí phân biệt của sáu Thức để suy gẫm tìm tới lý tưởng biến hoá sinh diệt của sáu Trần, nhưng ngoài trí phân biệt ấy. Phật giáo còn dùng cả cái Trí Vô phân biệt làm công cụ quán chiếu tự thân. Đối tượng nghiên cứu của Phật học chẳng hạn cuộc ở sắc, thanh lục trần mà con Tâm pháp và Vô vi pháp nữa. Nhà Khoa học ngày nay tuy đôi khi cũng dùng Tâm để nghiên cứu trong địa hạt Điện tử, nhưng đối với bản thân của Tâm thì lại bỏ quên, hay chỉ nghiên cứu qua loa, hời hợt và nguyên nhân không ngoài hai lý do :

a. Khoa học thường vẫn cho Tâm và Vật là hai đối tượng riêng biệt và cho rằng hiện tượng của vật chẳng phải do cái Tâm chủ quan có thể thay đổi được nên họ cho là đã nghiên cứu hiện tượng của vật chất thì hà tất còn phải nghiên cứu Tâm lý nữa.

b. Dù có một số Khoa học gia đã nhận thấy tầm quan trọng của Tâm và đem Tâm ra khảo cứu, nhưng công cụ để khảo cứu lại vẫn dùng cái Tâm phân biệt, nhị nguyên, chứ không dùng cái Tâm vô phân biệt, nhà Tâm lý học ngày nay vì đã dùng những công cụ không tinh xảo là cái Thức chủ quan để nghiên cứu, nên những gì mà họ khám phá được trong khu bí ẩn của Tâm chỉ là một mớ ít ỏi những hiện tượng hoặc phản ứng của Tâm lý trên Sinh lý, còn đối với những pháp như Tâm Vương, Tâm Sở trong Bách pháp thì vẫn chưa thu hoạch được gì đáng kể.

Đối tượng thực hiện của Phật giáo chẳng phải là vật chất thô kệch mà là Tâm pháp tế vi, nên công cụ và phương pháp dùng để thực nghiệm chẳng giống như công cụ và phương pháp dùng trong các phòng thí nghiệm.

Khoa học đưa đến cái biết dựa trên Thức biến đổi từ lúc này qua lúc khác, còn Phật học lại đưa đến cái biết dựa vào tâm ngàn đời không thay đổi.

Đó là cái biết “thực biết” bắt nguồn từ “Chân” còn cái biết của Khoa học do Vọng mà có. Làm sao có thể so sánh Chân với Vọng, cũng như hạt châu với mắt cá được, tuy vẫn biết Vọng phát xuất từ Chân, và chẳng thể lìa Chân mà có được.

Vì cái biết của Khoa học là cái biết tương đối, nên cái Hành do đó chứa đầy mâu thuẫn, khổ đau. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật tân tiến, với các máy tính điện tử, các máy truyền thanh, truyền hình tối tân đã làm cho loài người đạt tới trình độ Ngũ thông, tạo được nhiều báu vật và tiện nghi vật chất để phục vụ cho đời sống của con người, điều đó chẳng ai còn hoài nghi phủ nhận cả.

Ngày nay khoa học đã đạt được những thành tích đáng kể nhằm mở rộng tầm hiểu biết của con người trong lãnh vực không gian bằng cách đặt những máy móc trên các vệ tinh nhân tạo để chụp hình rồi chuyển về trái đất những ảnh rõ rệt về sự hình thành của những Thiên hà cách xa Thiên hà của chúng ta hàng tỷ tỷ năm ánh sáng. Với cây đũa thần Nguyên tử năng, khoa học đã làm lung lay tới cội rễ lý luận của nhiều tôn giáo trên hoàn cầu xưa nay vẫn đặt niềm tin vào sự hiện diện của một vị Thượng đế toàn thiện toàn năng, ban phúc giáng hoạ và ta ra muôn loài, do đó đã làm mất niềm tin vào giá trị thiêng liêng của tinh thần đạo đức nơi đa số quần chúng ở Tây phương vốn sùng thượng vật chất.

Nhưng đối với Phật giáo ở Đông phương lại khác hẳn vì khoa học càng tiến bộ bao nhiêu lại càng gần chân lý của đạo Phật bấy nhiêu. Bởi nhận thấy bước đường mà khoa học phải đi còn dài mới khám phá được mọi bí ẩn của thiên nhiên, nên Einstein đã nói : “Những điều mà chúng ta biết chỉ như một giọt nước, còn những điều mà chúng ta chưa biết thì mênh mông như đại dương”. Và cũng bởi nhận thấy những tư tưởng cao thâm của Phật giáo phù hợp với bước tiến của khoa học trong lãnh vực : “Vạn vật đồng nhất thể”, nên nhà bác học Einstein có những lý thuyết phù hợp với các lý thuýêt tân tiến nhất của loài người thì đó phải là Phật giáo. Chính những phương pháp làm việc và kết quả của những phát mình khoa học ngày nay là những điều chứng mình cụ thể nhất cho lời Phật dạy từ trên 25 thế kỷ qua. Xin đan cử một vài thí dụ :

1. Nhà Khoa học nào có khả năng phát minh lớn nhất, là người đã biết xa lìa những kiến thức mà mình đã thu thập được từ trước tới nay, cũng giống như người Phật tử mà rũ bỏ được Phiền não chướng và Sở tri chướng mới được coi là ngộ đạo.

2. Nhà Vật lý nói rằng : Khi đi sâu vào thế giới Điện tử thì phải giã từ mọi ý niệm về có, không; nhân, quả; trước, sau; sinh, diệt… nghĩa là tất cả những cặp mâu thuẫn xưa nay vẫn áp dụng trong đời sống thường nhật, cũng giống như người tu hành phải lìa bỏ mọi chấp thô, chấp tế, huyễn lớn huyễn nhỏ ở mọi cấp tu chứng mới tiến tới ngộ vô thượng chính đẳng giác.

3. Phật dạy : “Nếu đập tan cái Ngã chấp thì sẽ được năng lực tinh thần hùng hậu không gí sánh nổi”. Ngày nay các nhà Vật lý học đã chứng minh rằng : nếu đập tan vật chất đến cực vi thì có thể biến vật chất hết sức nhỏ, thành năng lực hết sức lớn. Hai điều này thật giống nhau nếu ta hiểu rằng người tu hành khi đã phá được Ngã chấp thì có được Đại Hùng, Đại Bi, Đại Dũng, và với sức mạnh liên kết của Đại Trí thì nguyện vọng gì cũng đạt được, sức cản nào cũng dẹp tan.

Theo Khoa học gia ngày nay, các chất tử (Corpuscule de matière) có những phối hợp chằng chịt hỗ tương. Chúng dung thông dung nhiếp với nhau để tồn tại. Như vậy đủ chứng minh được quan niệm Tương tức Tương nhập, Trùng trùng duyên khởi, và Sự sự nhất thiết vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm.

Những lời vàng ngọc Phật dạy từ ngàn xưa tới nay và mãi mãi sau này, lúc nào cũng là Chân lý Tuyệt đối không bao giờ đổi thay. Còn những lý thuyết của Triết học và Khoa học thì cái nọ phủ nhận hoặc thay thế cái kia, và mãi mãi ở tư thế tìm tòi, thử nghiệm.

Đạo Phật và Khoa học khác nhau trên căn bản : một bên thì đi sâu vào Tâm linh, một bên thì đi sâu vào Lý trí. Lấy Tâm linh làm nênf tảng, đạo Phật có khả năng đưa nhân loại tới cảnh hoà bình thịnh trị vĩnh cửu, hạnh phúc viên mãn, trong một nền văn minh tột đỉnh bằng các thuyết : “Nhất thiết duy tâm tạo”, “Tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, “Tương tức, tương nhập”, “Trùng trùng duyên khởi”, “Vạn vật đồng nhất thể”, “Bất Nhị”, “Bình đẳng tuyệt đối”, “Trung Đạo”, “Mình là người, người là mình”, “Một là Tất cả, Tất cả là Một”, “Lý Sự viên dung”, “Sự sự vô ngại”… để thẳng tiến tới đỉnh cao là đập tan chấp ngã, chấp pháp, sáp nhập tâm linh con người và vũ trụ thành một khối theo lý “Vạn vật đồng nguyên”, để xây dựng một xã hội lý tưởng cho nhân loại ngày mai.

* Bản chất của Triết học và Khoa học thuộc về Nhị nguyên Tương đối, cưa đạt được tới Nhất nguyên Tuyệt đối, còn bị hạn chế bởi không gian và thời gian, tuỳ thuộc vào địa phương và thời gian mà thay đổi lập trường, chưa một ai trong giới khoa học hiện nay dám tiên đoán rằng : Khoa học có thể đạt được thực tại Tuỵêt đối và đem lại hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu cho loài người trong bao lâu nữa, bởi vì khoa học chưa đi đúng đường lối, dùng lý trí nhiều hơn tình thương, và vẫn còn coi ngoại vật là đối tượng của mình. Còn Phật Pháp đã là sự thật Tuyệt đối từ lâu rồi, không vì không gian và thời gian mà thay đổi, và chắc chắn với đường lối Bồ tát đạo, lấy nhẫn nhục, từ bi vô lượng và tình thương chân thật, coi mình như người, người như mình mà xử thể tiếp vật, có thể dẫn nhân loại tới chỗ chân thường, chân lạc.

Khoa học chỉ chú trọng tới ngoại giới và xao lãng phần nội giới phong phú, sâu sắc, do đó không trực giác được Thực tại toàn diện. Người ta phải nhìn nhận rằng : Khoa học thất bại không chứng minh được là Vật chất đẻ ra Tinh thần. Và Ngẫu nhiên sinh ra sự Sống. Buộc lòng người ta phải chấp nhận sự phản ngẫu nhiên hay tin vào sự có mặt, bất khả tri của trực giác tâm linh siêu hình hay sức mạnh tinh thần đạo đức, không thể có vô ý, vô tình và ngẫu nhiên để giải thích sự tiến hoá của quần sinh trên quá trình dẫn tới Chân, Thiện, Mỹ.

Các triết gia và khoa học gia đều vọng cầu vào Lý trí và ỷ lại vào Tri thức, trong khi Phật giáo lại lên án và phủ nhận Lý trí cùng phá bỏ Tri thức, coi đó là những chướng ngại cho việc tiến tới Bình đẳng tính và Vô phân biệt tính của Chân Tâm. Sự cách biệt chia rẽ giữa Thượng đế và con người, giữa con người và đồng loại khác màu da, chủng tộc, đảng phái, thành kiến; giữa con người và thiên nhiên ngày càng thêm sâu đậm, làm cho tâm con người ngày càng phức tạp, đa đoan.

Vì hướng đi của khoa học quá phiến diện, máy móc, nên loài người sống bên nhau mà thiếu niềm tin ở thiện căn của con người, và thiếu Bác ái, Từ bi; chỉ đối xử với nhau thuần bằng khối óc khô khan vị kỷ, chỉ thấy quyền lợi của cá nhân mà không thấy quyền lợi của tất cả, nên dễ ly tán, phân tranh, giết hại nhau không thương xót. Kết quả khốc hại của học thuyết Duy lý do Lý trí hướng dẫn, làm cho con người tự huỷ diệt mình khi muốn huỷ diệt người khác, vì thế mà nhân loại ngày càng sa đoạ. Khi đã nhận có Ta thì đồng thời cũng nhận có cái chẳng phải Ta đối lập. Ở phi ngã là tất cả những gì ở ngoài ta và cả ở trong ta nữa. Ở ngoài ta nó xui giục ta chiếm đoạt cho đầy lòng tham nên tâm trí ta luôn luôn căng thẳng trong cuộc chạy đua với tham vọng như hình với bóng. Ở trong ta nó đẻ ra con người khổ đau, tự xé xác moi ruột gan mình, đầy đoạ mình trong những cơn cuồng loạn tinh thần.

Với sức mạnh tâm linh, Phật giáo còn giúp con người :

1. Đấu tranh với chính mình để tự giải phóng khỏi những độc tố ràng buộc của Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà kiến… hầu đạt tới một đời sống thanh cao, hạnh phúc.

2. Đấu tranh với hoàn cảnh, vũ trụ để giải phóng con người khỏi hệ luỵ vào thiên nhiên, biến cải luật thiên nhiên tàn bạo thành sức mạnh giúp cho con người khỏi đói lạnh. Bài học lịch sử của những trận thế chiến vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ : không có quốc gia nào hoàn toàn thắng lợi, không bị thiệt hại mà toàn thể loài người nói chung đều bị tổn thất bởi hậu quả của các loại vũ khí giết người bén nhạy, gieo rắc tai hoạ khắp nơi, và tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải chịu chung những khoản thuế nặng nề để chi cho ngân sách Quốc phòng. Toàn thể nhân loại nghèo đi rất nhiều vì đã phí phạm tài nguyên thiên nhiên, máu xương, tiền của trên các bãi chiến trường.

Càng tôn thờ xa hoa vật chất lại càng dìm sâu tinh thần, đạo đức xuống bùn đen bấy nhiêu. Với lòng vị kỷ tham tàn con người còn đang thi đua xản xuất ráo riết hàng loạt mọi thứ khi giới giết người tối tân, chẳng khác nào một nhóm trẻ điên cuồng cầm dao gậy đe dọa đánh chém nhau, hay cầm mồi lửa đe doạ thiêu đốt nhà nhau, thật là một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp !

* Hai yếu tồ then chốt của sự tiến hoá và hạnh phúc của nhân loại là Trí tuệ và Từ bi. Thiếu Trí tuệ thì con người sẽ khổ vì dốt nát ngu đần. Thiếu Từ bi, thì Trí tụê là lợi khí sắc bén để tiêu diệt lẫn nhau, hòng thoả mãn lòng tham vô đáy. Tình thương bao la và Trí tuệ sáng suốt đi đôi với nhau mới xây dựng được chân hạnh phúc. Có Trí mà thiếu Bi là cái Trí sát nhân của Ma vương, Ác quỷ.

Sự khác biệt giữa Đạo học và Khoa học ở chỗ có thực hiện được không lòng Bác ái Từ bi, có thể hiện được hay không lý Bất Nhị và Tâm Bình đẳng, Vô phân biệt. Hiện thời phần đông nhân loại vẫn còn đi xuống dốc, mang nặng hành trang sai biệt và phân biệt giai cấp giàu nghèo, lớn nhỏ, chủng tộc, màu da và chủ nghĩa đủ loại mà thiếu Tâm từ, cho nên còn lùi bước thay vì hướng thượng tiến lên để đạt tới hoà bình, tự do, hạnh phúc thật sự.

* Xét kỹ thì khoa học chỉ là một con dao hai lưỡi, tự thân nó không tốt cũng không xấu, tuỳ Tâm con người sử dụng. Nó có thể tạo ra Bồng lai, Tiên cảnh hay thiết lập cõi Địa ngục ở nơi cõi trần gian này.

* Nhưng cũng may thay trong cảnh hoàng hôn u ám của thế giới ngày nay, đã le lói những tia hy vọng ảo mờ báo hiệu Hoàng kim thời đại có thể sắp tới. Bởi vì gần đây đã thấy xuất hiện một nhóm học giả Tây phương (Nhóm Cahiers de l’ Étoile bên Pháp), năm 1928, đã xuất bản tờ tuyên ngôn hô hào nhân loại trở về nguồn với đạo Nhất Nguyên. Đồng thời cũng có một số khoa học gia lỗi lạc nhận thấy rõ mối nguy cơ của một hướng đi lệch lạc của nhân loại thiên về máy móc, cơ khí, nhằm đáp ứng lòng tham vô đáy, mải chạy theo bả vinh hoa vật chất, đã đi sâu vào thế giới Điện tử thì buộc lòng họ phải suy tư, và đặt chủ quan của họ vào công cuộc khảo cứu, thay vì vẫn quen đưng ở vị trí khách quan để nghiên cứu ngoại giới.

Khoa học ngày nay đã trở nên trừu tượng hơn xưa. Nhiều nhà khoa học đường thời khuyên ta nên dùng thần trí mà rọi sâu vào thế giới tâm linh. Với lối nhìn đó, họ trở nên linh động, uyển chuyển và lý thuyết hơn xưa, thay vì quyết đoán ngạo nghễ một chiều như đa số học giả thuộc thế kỷ thứ 19.

Những nguyên lý : “Vật chất và Năng lượng bất diệt” được trở thành : “Vật chất là năng lượng, và năng lượng là vật chất ; “Nhất thể lưỡng diện”, “Khí chất tương sinh”, hay “Tương tức và tương nhập” v.v…

Chính nhờ những nhà khoa học tân tiến này mà nhân loại ngày nay đã thấy rõ Tâm và Vật chỉ là một, hay “Vật chất và Năng lượng không hai” (E = M).

* Các Khoa học gia đó cho rằng : “Những hiểu biết về vũ trụ và những trực giác trừu tượng của con người, rồi đây sẽ quy về một mối, và cái một tiềm ẩn trong vũ trụ rồi đây sẽ phơi bày ra ánh sáng. (Toutes les perceptions que l’homme a de l’Univers se ramènent finalement à l’Unité, et la profonde Unité cachée de l’Univers sera enfin dinudée). Như vậy thì càng tiến xa trên đường khám phá ra Thực tại tối hậu của vũ trụ. Khoa học lại càng gần Chân lý Tuyệt đối “Không hai” của đạo Phật bấy nhiêu.

* Ta nhận thấy : thảm hoạ của một cuộc thế chiến bằng những khí giới tân tiến của khoa học sẽ tận diệt loài người, và Hạnh phúc tuyệt đối của nhân loại ở một cõi Địa Dưỡng văn minh, xán lạn, chỉ do ở sự lựa chọn giữa hai nẻo Thiện và Ác; một là trở về với Chân Tâm, Phật tính, sống một cuộc đời lành mạnh biết đủ và biết ngưng lại đúng lúc, hai là buông thả cho thất tình lục dục tự do tung hoành, theo tiếng gọi của Tham, Sân, Si… tiến sâu vào ngõ hẻm của vật chất xa hoa phù phiếm. Hạnh phúc của nhân loại chỉ có nếu Bi, Trí phát triển song song, hay nếu đạo và đời cùng tiến bước về nẻo Thiện.

* Đã đến lúc chúng ta phải thức tỉnh và hướng ngay về Tâm mình là xoá nhoà biên cương cố chấp, hoà Tâm linh vào Thực tại đại đồng, hiệp cùng bao cái Ta khác, bạn và thù để thực hiện lý Bất Nhị, thay vì chỉ nghĩ đến mình, lại hết lòng phục vụ tha nhân, khiến cho niềm an lạc vô tư nảy nở, thay đổi hẳn nếp sống xưa, làm cho ta nhìn đời bằng cặp mắt khác, buộc ta phải sửa mình để tuân theo một nếp sống mới, lành mạnh, trong cảnh thanh tịnh của tự tâm.

* Phần đông chúng ta chẳng thực tế chút nào cả. Ta chỉ thở than luyến tiếc bóng ma của thời quá khứ. Ta cứ ngồi mất thời giờ bới đống tro tàn của dĩ vãng, hoặc ước ao, khát vọng đợi chờ tương lai mờ mịt, chẳng biết bao giờ tới mà chẳng chịu quan tâm đến hiện tại sờ sờ ngay trước mắt. Nhưng quá khứ đã mất hút rồi, còn tương lai lại chập chờn hư ảo xa vời, đòi hỏi những điều kiện chẳng thuộc mình giải quýêt. Chỉ có thực tại nhãn tiền mới chính là của ta. Nhà văn André Maurois đã có những vần thơ đẹp ca ngợi phút giây vĩnh cửu hiện tại :

Laisses au vague avenir ses lointaines promesses.

Et au sterile passé son sourire d’adieu

Bannis les rêves d’or et les molles tristesses

Le Présent est à toi, et le reste à Dieu.

Tạm dịch :

Những lời hứa hẹn xa vời
Hãy xin để lại cho thời mai sau.
Nụ cười buồn vĩnh biệt nhau.
Thì xin giữ lại nhịp cầu đã qua.
Mộng vàng uỷ mị lìa xa.
Phút này mới thật của ta trên đời.
Ngoài ra muôn sự tại Trời !

Cùng với ý nghĩa đó, một Thiền sư Việt Nam đời Lý đã để lại mấy dòng thơ đạo vị như sau :

Đản tri kim nhật nguyệt
Thuỳ thức cựu xuân thu
Thuỷ trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân.

Dịch :

Việc ngày nay, biết ngày nay,
Còn xuân thu trước ai hay làm gì ?
Ngoại cảnh, nào đâu phải,
Hoa vàng với trúc xanh ?
Lộ vẻ chân toàn vẹn.
Kìa mây trắng, trăng thanh !

Xưa một vị Trời đã hỏi Đức Phật : “Bạch Thế Tôn ! Cớ sao chư Tăng lại có một nếp sống tự tại, hạnh phúc dù hàng ngày chỉ dùng có môt bữa cơm chay ?”.

Phật trả lời : “Vì họ không than van sầu muộn về những chuyện đã qua, không nóng nẩy khát vọng về những điều chưa tới, chỉ ung dung tập trung tư tưởng vào việc hiện tại. Tâm không tham luyến sân hận, lúc nào cũng thảnh thơi trong cảnh hoan lạc đạo an bần”.

* Bí quyết để có được hạnh phúc bền vững thật là giản đơn. Tuy nhiên đã mấy ai thực hiện được Chân lý đến nơi đến chốn ? Đó là nếp sống bình thường, giản dị, với những gì sẵn có không mơ ước hão huyền cái chưa tới, cũng chẳng luyến tiếc dĩ vãng xa xưa, vì ta đã hiểu rõ lý Vô ngã, vô thường, nhân quả, biến dịch của mọi sự vật trên đời này. Với triết lý : “Tri túc, tri chỉ”, và “Bình thường tâm là đạo” ta thấy mọi sự vật ở trên đời đều theo lý Bất Nhị, và Như thị, nên ta chẳng chạy theo vật chất tài danh, không quan tâm đến vẻ bên ngoài, chỉ cần luyện cho cái tâm biết đủ, luôn luôn bình thản và mát dịu như nước.

* Có những bậc già nua mà tâm hồn còn tươi trẻ như nụ hồng hàm tiếu. Họ chẳng muốn hưởng thú an nhàn, nghĩ dưỡng già chẳng làm gì cả, mà say sưa hoạt động không ngừng để mưu cầu hạnh phúc cho đời, tiếc từng phút trôi qua vô ích. Tâm trí và tài năng của họ trổ hoa tươi đẹp trong tuổi vãn niên như những nhánh phong lan phô bày sắc hương trên cành khô mộc. Lại có những kẻ tuy tuổi còn niên thiếu mà tâm hồn đã sớm cằn cỗi, xác xơ như những khúc cây hết nhựa, chứa đầy thành kiến mục nát và tư tưởng lạc hậu, việc gì cũng đắn đo suy tính, như những ông già bất lực không dám làm điều gì, sợ thiệt đến thân, chỉ thích sống biếng lười, lại cho như thế là không ngoan, tuy sống mà như đã chết, vì không thích ứng được với dòng đời luôn luôn biến chuyển.

Ta phải biết sống trong hiện tại, vui với đạo giải thoát, thảnh thơi với Tâm bình thường, rũ sạch bụi trần để chỉ thấy một mùa xuân thanh lương tươi mát ở trong ta. Ngày đã qua thì chìm trong bóng tối. Phút chưa tới thì huyền ảo mơ hồ. Chỉ có tại đây và bây giờ là Chân thật (Đương xứ tức Xuân). Sao lại chán ghét cái hiện tại, luyến tiếc quá khứ và đợi chờ tương lai ? Hướng về ngày mai hay nhớ tới ngày trước đều là thái độ trốn tránh hiện tại, hay trốn sống một cuộc đời bình thường. Ta mang cái tâm điên đảo mà ngồi vào bàn ăn, hay leo lên giường ngủ với tâm trạng đang ăn mà ngậm bồ hòn cay đắng, hay ngủ mê mà ôm hết nỗi xót xa đau đớn vào lòng thì trách chi Phật chẳng bảo chúng ta không biết cách ăn cách ngủ !.

 
Trích từ: Tịnh Độ Luận


Từ Ngữ Phật Học Trong: Nhận Định Về Không Gian Và Thời Gian

Kinh Sách Liên Quan

 
1.    Bồ Đề Chánh Đạo Bồ Tát Giới Luận, Đại Sư Thang Hương Danh | Hòa Thượng Thích Tịnh Nghiêm, Việt Dịch
2.    Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát | Cố Giáo Sư Cao Hữu Đính, Việt Dịch
3.    Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang | Hòa Thượng Thích Như Điển, Việt Dịch
4.    Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận, Hòa Thượng Thích Quảng Độ
5.    Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận, Hòa Thượng Thích Như Điển, Việt Dịch
6.    Đại Trí Độ Luận Tập 1, Đời Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập | Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Việt Dịch
7.    Đại Trí Độ Luận Tập 2, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Việt Dịch
8.    Đại Trí Độ Luận Tập 3, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Việt Dịch
9.    Đại Trí Độ Luận Tập 5, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Việt Dịch
10.    Khuyên Người niệm Phật cầu sinh tịnh độ, Chu An Sĩ | Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến, Việt Dịch
11.    Lá Thư Tịnh Độ, Đại Lão Hòa Thượng Thích Ấn Quang | Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Việt Dịch
12.    Luận Bảo Vương Tam Muội, Đại Sư Phi Tích | Hòa Thượng Thích Hồng Nhơn, Việt Dịch
13.    Luận Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ, Đại Sư Diệu Hiệp | Cư Sĩ Minh Chánh, Việt Dịch
14.    Luận Đại Trượng Phu, Đề Bà La Bồ Tát | Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, Việt Dịch
15.    Luận Khởi Tín Đại Thừa, Mã Minh Bồ Tát | Hòa Thượng Thích Giác Qủa, Việt Dịch
16.    Luận Về Bốn Chân Lý, Pháp Sư Bà Tẩu Bạt Ma | Hòa Thượng Thích Như Điển, Việt Dịch
17.    Luận Về Con Đường Giải Thoát, Ngài Tam Tạng Già Bà La | Hòa Thượng Thích Như Điển, Việt Dịch
18.    Ngộ Tánh Luận, Bồ Đề Đạt Ma | Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Việt Dịch
19.    Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận, Đại Sư Phi Tích | Tịnh Sĩ, Việt Dịch
20.    Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận, Hòa Thượng Thích Như Điển