Home > Khai Thị Niệm Phật
Trích Yếu Sách Phật Pháp Yếu Lĩnh
Cư Sĩ Mao Lăng Vân cung kính kết tập | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch


* Niệm Phật có hai gia hạnh:

a. Một là đừng vọng tưởng. Phàm đối trước hết thảy cảnh giới đều coi là Không, chẳng được chấp trước kẻo khởi tưởng niệm. Thọ sanh trong thế gian đều do vọng tưởng tạo thành. Ðây chính là cội rễ của sanh tử, chẳng thể không biết.

b. Hai là gắng lãnh đạm. Người đời tạo nghiệp đều do chẳng thể cam tâm lãnh đạm. Ðã muốn thành bậc hiền thánh xuất thế mà còn tham đuổi theo ngũ dục chẳng khác gì thế tục, chẳng những không thành Phật, mà lão già Diêm La cũng chẳng phải là gã mù! Sao lại duyên theo vọng tưởng chẳng thể cam tâm lãnh đạm? Ðấy là gốc bệnh lớn lắm.

Trước hết, nếu trừ được hai căn bệnh trên đây thì trong tâm tự tịch tĩnh, trí huệ tự quang minh, mới có phần tiến hướng đến Phật pháp được!

* Khi đang tu nhân, học Phật pháp quý ở chỗ chân thật cầu liễu sanh tử thì mới là chánh nhân. Cầu quả báo thế tục là tà nhân. Cầu trì chú linh nghiệm, cầu thần thông cũng là tà nhân. Hãy dè chừng, hãy tránh!

Hỏi nhật khóa hạn định như thế nào ư? Nỗ lực niệm Phật đến tận cùng. Niệm bốn chữ hay sáu chữ đều được. Ngồi xếp bằng là tốt nhất. Rảnh rang thì niệm thêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Sanh kế chẳng khá, phải làm thêm việc khác cũng chẳng sao. Cho nên mới nói: “Làm lụng sanh sống chẳng ngại Viên Tông[6]”; nhưng chẳng được phạm vào mười ác nghiệp. Những tri kiến từ trước phải mong tảo trừ cho hết sạch. Ðối với những sách vở ngoại đạo ăn theo Phật pháp phải đem cất đi thật xa, hoặc giao cho thần hỏa. Nhất tâm niệm Phật, đừng cầu nghĩa giải.

Nhận định:

Tu nhân chẳng chân, quả sẽ tà vạy. Vì thế, tu nhân niệm Phật cốt sao chân thật. Lấy không vọng tưởng và nhẫn nại lãnh đạm làm gia hạnh thì mới có thể nhất tâm niệm Phật. Xin hãy toàn lực chuyên chú.

Niệm Phật Pháp Yếu

Quyển 1 hết

Phụ Lục

A. Lời phổ khuyến đồng bào toàn cầu niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát của đại sư Ấn Quang 

Quán Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã thành Phật từ lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh; nhưng vì tâm từ bi vô tận, từ thệ vô cùng, nên Ngài lại ở trong mười phương thế giới, hiện ra những thân Bồ Tát, trời, người, thánh, phàm v.v… ban cho sự không hãi sợ (Thí Vô Úy) ngõ hầu tế độ. Phẩm Phổ Môn có nói: Nên dùng thân nào để độ được thì Ngài liền hiện thân ấy để thuyết pháp. Không chỉ hiện thân hữu tình, Ngài cũng tùy cơ ứng hiện ra thân núi, sông, thuyền, bè, cầu, đường sá, dược thảo, cây cối, lầu, đài, điện, gác. Nói chung là những việc lìa khổ được vui, chuyển nguy thành yên.

Hễ gặp đao binh, nước lửa, ác bệnh, ác thú, oán gia đối đầu, ác quỷ, độc xà, các thứ nguy hiểm, nếu thật sự có thể chí thành xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát thì liền được Bồ Tát gia bị chuyển nguy thành yên.

Hiện tại, sát kiếp tràn lan, khắp toàn cầu chẳng có chỗ nào an lạc, cũng chẳng có ai an lạc. Nguyện đồng bào trong nước, ngoài nước hãy cùng niệm thánh hiệu Quán Âm, cùng lấy tâm cứu khổ cứu nạn của đức Quán Âm làm tâm mình, cùng lấy sự nghiệp lợi người lợi vật của đức Quán Âm làm sự nghiệp của mình thì ý niệm ta người rỗng không, việc đấu tranh sẽ dứt, tự có thể cùng hưởng thái bình, cùng vui tháng ngày.

Giả sử định nghiệp khó chuyển, táng thân mất mạng, thì cũng nhờ sức Bồ Tát vãng sanh Tây Phương, ấy là do túc nghiệp nên mất thân mạng, nhưng do Phật lực bèn thoát khỏi khổ hải.

Kính mong đồng bào trong ngoài nước cùng soi xét tấm lòng thành ngu xuẩn của tôi.

Thích Ấn Quang kính bạch

B. Trích tuyển lời khai thị của đại sư Hành Sách

(lược dịch theo ấn bản Hành Sách Ðại Sư Cảnh Ngữ Tinh Hoa của Tịnh Tông Học Hội Dallas)

* Nếu không có lòng tin chân thậtm, dẫu có niệm Phật, trì trai, phóng sanh, tu phước, vẫn chỉ là người lành trong thế gian, được quả báo sanh trong thiện xứ hưởng lạc. Lúc hưởng lạc sẽ tạo nghiệp, mà đã tạo nghiệp sẽ ắt phải thọ khổ.

* Hòa Thượng Chân Hiết nói: “[Ðiều mà] Phật Phật chuyền tay nhau, Tổ Tổ truyền nhau chỉ là một sự này, chứ chẳng còn sự nào khác. Đức Thế Tôn thuyết pháp hơn ba trăm hội trong bốn mươi chín năm cũng chỉ vì để nồng nhiệt tán dương, diễn giảng giáo pháp Tịnh Ðộ đúng là con đường tắt siêu phàm nhập thánh vậy!”

* Nhất tâm niệm Phật để cầu mau được sanh về An Dưỡng, sau đấy mới nương vào bổn nguyện, vận lòng đại từ bi để phân thân biến hình khắp mười phương cõi nước tầm thanh cứu khổ như Quán Thế Âm Bồ Tát, thề làm trống rỗng địa ngục như đức Ðịa Tạng Vương. Dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, ban vui cho hết thảy chúng sanh, nhiếp thủ hết thảy chúng sanh cùng thân cận Phật Di Ðà, rốt ráo an ổn. Ðấy mới là trượng phu. Kính mong các thượng thiện hữu hãy suy xét kỹ cho!

* Cuối kinh Hoa Nghiêm dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc, mong sanh về thế giới An Dưỡng, mong nguyện thấy A Di Ðà Phật. Bao lượt Bồ Tát đinh ninh khẩn thiết khuyên lơn, phát khởi [được ghi] đầy đủ trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện! 

* Thiện nam tử, thiện nữ nhân chuyên niệm Tây Phương A Di Ðà Phật, đem các thiện căn hồi hướng phát nguyện, sẽ chắc chắn được vãng sanh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, thân cận Di Ðà.

* A Di Ðà Phật chính là Pháp Giới Tạng Thân. Thế giới Cực Lạc chính là Liên Hoa Tạng Hải. Thấy một đức Phật chính là thấy vô lượng Phật. Sanh trong một cõi chính là sanh trong vô lượng cõi. Niệm một đức Phật chính là niệm hết thảy Phật, chính là được hết thảy chư Phật hộ niệm vì Pháp Thân bất nhị, vì chúng sanh và Phật bất nhị, vì năng niệm và sở niệm bất nhị!

* Tôi thấy những người nay đang phú quý hiển đạt đều là tham đắm thanh sắc thô tệ chẳng biết cội khổ; hoặc mê chút hư danh nhỏ như sừng ốc, chẳng biết đó là hư huyễn; hoặc lại mê man của cải, toan tính kinh doanh. Hiện tại phí uổng một đời, tương lai sẽ lưu chuyển theo nghiệp, chẳng hay chẳng biết y báo và chánh báo trang nghiêm, vô lượng điều thắng diệu trong cõi nước đức Phật kia. Từ lúc sống cho đến khi chết, chưa hề có một niệm nghĩ đến chuyện vãng sanh, thật chẳng bằng kẻ nghèo cùng, khốn khổ siêng năng niệm Phật từ chỗ tối vào chỗ sáng, chuyển sanh vào chỗ thù thắng!

* Muốn niệm Phật sao cho công hạnh chẳng luống uổng thì thân tâm phải siêng gắng, tiếc từng tấc bóng. Huống hồ, mạng trong hơi thở, nào có dài lâu? Như kẻ tù bị dắt ra chợ, mỗi bước càng gần đến cái chết, ngày đêm chăm chắm, lạnh nóng khăng khăng một câu hồng danh không lúc nào ngơi, sẽ quyết định sanh về Tịnh Ðộ. Chớ nên lúc đầu hăng hái, về sau biếng trễ.

* Chuyên cầu xuất ly, chẳng cầu phước báo thế gian, cũng chẳng cầu công đức, trí huệ, biện tài, ngộ giải; cũng chẳng nguyện đời đời làm Tăng để hưng hiển Phật Pháp v.v… Chỉ nguyện mạng chung được sanh về cõi kia, thoát khổ sanh tử. Nguyện này cần phải hiện diện trong từng khắc, chuyên niệm Di Ðà sẽ tự nhiên được sanh. Quý ở chỗ tin chắc chắn, tận lực tu hành cho chuyên nhất thì mới được cứu.

* Những vị đồng hạnh vãng sanh hãy nên phòng thân, giữ miệng, khiêm cung tùy thuận, răn bảo lẫn nhau, làm gương cho nhau. Hằng khóa[7] mỗi ngày chẳng được lười biếng, bỏ sót. Ði, đứng, nằm, ngồi chẳng quên niệm Phật. Ngoài lúc công phu, đừng buông lung thân tâm nơi chuyện vô ích, chớ nên chuyện gẫu, nói chơi, cười giỡn buông lung, vừa hại mình vừa tổn người. Chớ nên phí công xem sách ngoài đời, ngâm thơ, vịnh kệ, không chỉ uổng phí ngày giờ mà còn cô phụ kẻ đàn việt[8]! Phải nên tự nghiêm, tự trọng, nỗ lực tinh tấn!

* Trì danh quý ở chỗ nhất tâm bất loạn, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng phải cốt sao niệm nhanh, niệm nhiều là hay, nhưng cũng đừng niệm rề rà, đừng gấp gáp, hãy trì danh miên mật, khiến cho Phật hiệu trong tâm vằng vặc phân minh. Mặc áo, ăn cơm, đi, đứng, ngồi, nằm, một câu hồng danh miên mật chẳng dứt. Trì danh như thế có thể nói là nhất tâm tinh tấn nơi mặt Sự.

* Hiểu đến rốt ráo thì vạn pháp đều Như, chẳng có hai tướng, tức là: Chúng sanh và Phật bất nhị, tự tha bất nhị, nhân quả bất nhị, y báo chánh báo bất nhị, uế tịnh bất nhị, khổ vui bất nhị, ưa chán bất nhị, lấy bỏ bất nhị, Bồ Ðề phiền não bất nhị, sanh tử Niết Bàn bất nhị. Những cặp pháp ấy đều đồng một tướng, một đạo thanh tịnh. Suy xét đến cùng cực sẽ đột nhiên khế hợp bổn tâm, mới biết rằng mặc áo, ăn cơm đều là tam muội; vui cười, giận chửi không gì chẳng phải là Phật sự! Nhất tâm bất loạn rốt cục thành hý luận! Trong suốt mười hai thời, chẳng thể tìm được mảy lông tướng trạng nào khác. Hiểu rõ như thế thì mới là chân chánh học đạo, mới là nhất tâm tinh tấn trì danh! Cả hai thứ Nhất Tâm này đều thuộc về phận sự của phàm phu, hễ ai có tâm thì đều có thể tu học được!

* Một môn niệm Phật là nhờ vào nguyện lực của đức Phật kia, chẳng luận là kẻ hữu trí hay vô trí, là căn cơ thượng, trung, hay hạ, cứ chấp trì danh hiệu nhất tâm bất loạn trong bảy ngày hoặc dẫu chỉ một ngày thì đấy là nhiều thiện căn, phước đức nhân duyên, chính là được Phật Di Ðà và thánh chúng tiếp dẫn, chính là được mười phương hết thảy chư Phật hộ niệm. Ðấy chính là phương tiện lạ chẳng thể nghĩ bàn, chỉ vì do phương tiện ấy hay lạ nên mới thù thắng!

* Cõi Phàm Thánh Ðồng Cư [là nơi] thánh hiền Quyền, Thật và kẻ phàm phu thấp sát đất cùng ở; nhưng cõi Tịnh Ðộ ấy nhờ vào sức nhiếp thọ của chư Phật nên chẳng cần phải đoạn Hoặc mà có thể mang nghiệp đi vãng sanh. Bậc thượng trí sẽ nhanh chóng viên chứng bốn cõi Tịnh Ðộ, kẻ hạ ngu cũng vượt ngang ra khỏi tam giới, chẳng cần phải tu theo thứ tự chín lớp[9] , chẳng cần phải tu trọn ba A tăng kỳ kiếp. Ðấy là phương tiện lạ lùng  chẳng thể nghĩ bàn cho nên thù thắng vậy!

* Pháp môn tối thắng lạ lùng duy nhất như vậy do đức Thích Ca ân cần khuyên lơn, chỉ dạy, hằng sa Như Lai dùng tướng lưỡi rộng dài tán dương, há có phải là lừa dối bọn ta!

* Phật pháp có vô lượng môn, có pháp dễ, pháp khó. Muốn dễ hành mà chóng chứng thì phải nên niệm Phật. Xưng danh hiệu Phật A Di Ðà sẽ chóng đắc Vô Thượng Bồ Ðề.

* Ðời ác Ngũ Trược cầu A Bệ Bạt Trí rất khó. Nếu tin vào Niệm Phật Tam muội, nương vào sức bổn nguyện nhiếp trì, tiếp dẫn của đức Phật kia sẽ quyết định vãng sanh, chẳng nhọc phương tiện mà tâm tự được khai ngộ, đời đời chẳng thoái chuyển, có ngày thành Phật.

* Tịnh Ðộ rộng nhiếp các căn đều chứng Bất thoái. Theo kinh Ðại Bổn, thượng phẩm lấy việc giải ngộ làm chính, trung phẩm lấy giới thiện làm gốc; hạ phẩm thuần ác vô thiện thì chỉ lúc lâm chung gặp gỡ bạn lành, do nhất niệm tín tâm bèn diệt tội vãng sanh!

* Người đã giải ngộ mà cầu vãng sanh thì nhờ vào cảnh duyên Cực Lạc sẽ dễ đoạn kết tập, dễ tu tam muội, mau thành nhẫn lực, độ các chúng sanh. Kẻ chưa giải ngộ mà cầu vãng sanh thì do thân cận Di Ðà sẽ dễ kiến tánh. Ngài Vĩnh Minh từng bảo: “Chỉ cần gặp Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ!”

* Hai môn Thiền, Tịnh, môn nào cũng nên chuyên tu, chẳng cần phải kiêm tu. Nếu chê bai môn này, môn kia tức là hiểu lầm sâu đậm ý chỉ của Phật. Như kinh dạy: “Chẳng báng Ðại Thừa” thì thấy rõ là kẻ hủy báng sẽ chẳng được vãng sanh vậy. 

* Kinh dạy: “Tu hành một ngày một đêm trong thế giới Sa Bà hơn hẳn tu Thập Thiện trăm năm trong cõi Cực Lạc”. Ðó là vì khó lòng tấn tu trong cõi này, còn trong cõi kia thì dễ dàng ra sức tu hành vậy. Cứ dựa theo đó mà nói thì tu hành một ngày trên nẻo đường phong trần thế gian sẽ hơn hẳn tu hành trăm ngàn ngày nơi cảnh chùa thanh tịnh trong núi sâu, chẳng còn nghi ngờ gì nữa! Vì thế, có thể lẩn quẩn nơi kinh đô, có thể dấn thân vào chốn hồng trần, nhưng tịnh nguyện chẳng được quên, tịnh hạnh chẳng được khuyết! Than ôi! Phong trần làm sao có thể nhiễm trước con người cho được? Chỉ e con người tự nhiễm phong trần đấy thôi!

* Tâm làm xe chỉ nam (la bàn), nguyện làm người dẫn đường, chốn chốn đạo tràng, thời thời Phật sự. Tịnh nguyện, tịnh hạnh thường được hiện tiền, tự nhiên đạt được thượng bang Thanh Thái (Cực Lạc), gặp mặt đức thánh Vô Lượng Thọ.

* Hãy nên nghĩ thời gian vùn vụt, mỗi ngày một già suy để đừng uổng phí thời gian. Ngoài thời khóa nhất định, hễ lúc nào rảnh rỗi liền niệm thêm Phật hiệu. Dù là chú Lăng Nghiêm, hay chú Ðại Bi v.v… cũng đều là chuyện phụ, chẳng cần phải trì! 

* Dù rảnh hay bận chẳng để lỡ thời gian, dù nghèo hay giàu vẫn thường tri túc, dù mạnh hay yếu vẫn siêng tinh tấn!

* Cổ đức nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà”. Lại bảo: “Nếu nghĩ đến đạo giống như nghĩ đến tình ái thì thành Phật rất nhiều!” Từ bậc chứng Thánh Quả trở xuống, mấy ai chẳng bị nó làm hệ lụy? Phiền não vô tận, mà xét về cội rễ sanh tử thì chỉ là do tham ái vùi lấp hành nhân, chướng ngại pháp vãng sanh! Hễ nhạt nhẽo một phần tình ái thì thành thục được một phần Tịnh nghiệp! Hãy gắng lên!

* Ðời Mạt Pháp bạc bẽo, con người ưa trá ngụy. Chỉ nên gởi tâm nơi Tịnh nghiệp thì mầm Huệ mới nảy nở, giống Ðạo mới thành thục. Ngày sau được ở trước Phật, liên hoa hóa sanh, trở thành người căn cơ thượng thượng vậy!

* Kinh dạy: “Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ tâm tưởng sanh. Lúc tâm chúng sanh tưởng Phật thì tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Mấy câu ấy chính là cốt lõi bí mật của Niệm Phật tam muội. Hết thảy pháp quán không pháp nào là chẳng phát xuất từ đấy.

* Kinh Ðại Tập dạy: “Nếu ai chỉ niệm A Di Ðà Phật thì gọi là vô thượng thâm diệu Thiền”. Chí tâm tưởng tượng lúc gặp Phật chính là pháp bất sanh bất diệt.

* Thiền sư Trí Giác bảo: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.

* Phật là lý Bổn Giác, niệm là trí Thỉ Giác. Vì vậy, ngay trong lúc niệm Phật thì Thỉ hợp với Bổn, Lý Trí ngầm khế hợp, năng lẫn sở cùng mất; tự tha chẳng hai! Không có đức Phật nào ở ngoài niệm để được niệm bởi niệm đó. Không có niệm nào ở ngoài Phật để niệm đức Phật ấy. Siêu tình ly kiến, ly cú tuyệt phi[10], thẳng tắt, viên đốn, không chi hơn được! Trừ niệm Phật ra, có diệu quán nào khác để thành tựu?

* Tháng ngày tàn còn mấy? Con đường ổn thỏa, thích đáng nhất, dễ dàng nhất chỉ là lấy câu chân ngôn sáu chữ để khuyên lơn, cố gắng. Ðấy chính là vị thuốc hay lấy từ biển để trị bệnh ngặt, trị bệnh từ ngọn đến gốc, bệnh cấp bách hay bệnh mạn tính đều thích hợp. Quý ở chỗ tin tưởng sâu xa, tận lực tu hành, chuyên trì mà thôi!

* Nếu tự tâm niệm niệm chán lìa ngũ dục, khắng khít tưởng nhớ Phật A Di Ðà, ưa thích nguyện được thân cận như con nhớ mẹ, chẳng bị nghiệp cảnh lôi kéo, chẳng bị kẻ khác làm mê lầm, quyết hướng đến Tây Phương, nhất định sẽ liên hoa hóa sanh trong thế giới Cực Lạc, thấy Phật, [được Phật] thọ ký.

* Mắt thường ngắm hình tướng Phật, tai thường nghe lời Phật dạy, mũi thường ngửi mùi hương của Phật, lưỡi thường xưng niệm Phật hiệu, thân thường lễ tượng Phật, ý thường nghĩ đến Phật pháp. Cả sáu căn không căn nào chẳng chuyên chú vào Phật cảnh. Giữ liên tục như thế không gián đoạn, không xen tạp.

* Biết rõ chúng sanh và Phật như một, tâm và cõi nước chẳng hai, mượn y báo, chánh báo cõi kia để hiển lộ tâm tánh của ta. Ðã chẳng lầm tưởng ngoài tánh có Phật, mà cũng chẳng chấp cõi kia chẳng phải là tâm. Chẳng nhọc phương tiện mà tâm tự được khai ngộ. [Ðấy là] phương tiện tối thắng cực dễ để nhiếp khắp hành nhân quy về Tịnh Ðộ.

* Ðối với việc đối trị chướng nặng đời mạt thì phiền não tuy nhiều, nhưng chỉ riêng dâm dục chính là căn bản của sanh tử. Ðối với pháp vãng sanh, nó gây chướng ngại nặng nề nhất. Vì thế, khuyên hành nhân nên quán dâm hỏa nơi thân chính là chân hỏa Tánh Không của Như Lai Tạng.

Hễ cứ khi nào nghiệp phát hiện bèn quán sát sâu xa cho đến khi giải ngộ, biến nó thành trí huệ quang. [Làm như vậy] thì chẳng những sự vãng sanh không bị chướng ngại mà hành nhân còn được sanh lên thượng thượng phẩm.

Vì lẽ đó, kinh Tịnh Danh khen ngợi Dâm, Nộ, Si, vì thể tánh của chúng chính là Tạng Tánh, còn công dụng nhiễm hay tịnh của chúng thì cũng giống như úp hay ngửa bàn tay mà thôi.

* Các kinh rộng khen Tịnh Ðộ nào là công đức chẳng thể nghĩ bàn, nào là pháp thế gian khó tin, hoặc là hết thảy chư Phật hộ niệm, hoặc là vô thượng thâm diệu Thiền, hoặc là phương tiện hay lạ, hoặc là vua của các tam muội v.v… Cớ sao riêng đối với pháp môn Niệm Phật, chúng sanh lại hay khởi tâm nghi hoặc, thậm chí phá hoại niềm tin trong sạch của người khác, chướng ngại thiện hạnh của kẻ khác? Kẻ bạc phước trí kém thường quen thói như thế đó!

* Lặng lẽ như sống gửi, trường trai thờ Phật, đạm bạc vô dục, siêng tu học đạo.

* Sau khi vãng sanh, được chứng ngộ xong, hãy nên đoái tưởng Sa Bà, trở lại sống nhờ trong cõi này để giúp bạn lữ, khuyên dỗ quần mê; lại còn phân thân trong cõi nước khác trong những phương khác, ứng tích qua lại ba cõi, trọn chẳng hề nhọc mỏi.

* Minh là chẳng tối tăm, tịnh là chẳng tán loạn. Minh tịnh chính là kết quả của Chỉ Quán, là thể của Ðịnh Huệ mà cũng là bản thể của cái tâm. Chỉ Quán là công phu, Ðịnh Huệ là nhân hạnh, minh tịnh là công năng. Minh tịnh đến cùng cực sẽ liền khế hợp bản thể. Nếu đạt được như vậy, sẽ thành Phước Trí Nhị Nghiêm.

* Thân tâm tịch định là Chỉ. Quán tướng lông trắng giữa hai mày của Phật là Quán. Tướng bạch hào rạng rỡ là Minh. Giữ chắc chẳng động là Tịnh. Nghĩa là: Nhờ vào thân tướng của Phật để huân tập tâm tánh của ta. Nếu quán trí thành tựu thì sẽ tự nhiên hiển hiện.

* Hễ tu Quán thì phải hiểu rõ vạn pháp duy tâm. Kinh dạy: “Tâm như thợ vẽ khéo, vẽ ra năm thứ ấm. Hết thảy trong thế gian, không gì tâm chẳng tạo!”  không điều gì chẳng do tâm tạo. Vì thế, ta biết: Tướng hảo của Phật Di Ðà tự nhiên tâm ta vốn sẵn đủ, [tướng hảo ấy] hiện ra trong khi ta nhập Ðịnh cũng chỉ là từ tâm ta phát sanh ra. Tâm này tạo thành tướng hảo, tâm này là tướng hảo, chẳng từ cái khác mà có, chẳng từ bên ngoài vào. Hiểu rõ được như thế thì mới đáng gọi là tu Quán đúng pháp.

* Cổ đức có bài kệ:

Cảnh là Diệu Giả, Quán là Không.

Quán, Cảnh cùng mất chính là Trung.

Nhất tâm dung, tuyệt không tung tích,

Lặng chiếu chưa từng có trước, sau.

Diệu lý Cảnh Quán viên dung được gói trọn không còn sót trong bốn câu kệ trên. Thấu hiểu được bài kệ trên sẽ hơn hẳn đọc mấy trăm quyển sách của tông Thiên Thai!

* Tịnh nghiệp hành nhân nhất tâm trì danh sẽ chắc chắn được vãng sanh. Nếu kiêm tu diệu quán thì phẩm vị còn cao hơn nữa. Một câu A Di Ðà Phật chẳng dứt nơi tâm lẫn miệng, tai thường nghe khiến cho tạp niệm không cách nào xen vào được, lũ ma không có đường nào lấn vào. Tinh thần vui vẻ, mảy trần chẳng nhiễm, Tín Nguyện kiên cố thì sẽ mừng gặp thắng duyên.

C. Ðại sư Tuân Thức so sánh công đức Niệm Phật

(trích từ Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Kinh Ðại Bát Niết Bàn chép: “Giả sử có người trong vòng một tháng thường dùng y phục cúng dường hết thảy chúng sanh, vẫn chẳng bằng được một phần mười sáu công đức của người niệm Phật trong một niệm.

Giả sử lấy vàng đúc thành hình người, dùng xe ngựa chuyên chở; cho đến các thứ bảo vật, thứ nào cũng đủ cả trăm món, đem ra bố thí, vẫn chẳng bằng người phát tâm, giở một bước chân hướng đến chỗ Phật.

Giả sử có người dùng xe voi lớn chở hết các thứ trân bảo trong đại quốc và các thứ anh lạc, thứ nào cũng đủ cả trăm món dùng để bố thí, vẫn chẳng bằng người phát tâm bước một bước hướng đến Phật.

Nếu dùng tứ sự cúng dường tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới, vẫn chẳng bằng người phát tâm bước một bước hướng đến Phật. [Người ấy] đạt được công đức vô lượng vô biên”.

Khuyên khắp những thiện nam tử, thiện nữ nhân tại gia nếu chí tâm tin ưa thế giới Cực Lạc thì vào mỗi sáng sớm nên mặc áo, lắng lòng, chiêm lễ tượng Phật giống hệt như thấy đức Phật thật sự, chẳng đành để lỡ ngày nào. Nếu như việc công, chuyện tư bề bộn, gấp rút thì phải nên kiên định tâm ý; hễ rảnh lúc nào liền bước vào Phật đường thắp hương, đảnh lễ; chủ yếu là “bước một bước hướng đến Phật”! Nếu có lúc nhàn rỗi thì sáng tối đều chẳng bỏ uổng, chẳng quản là sáng hay tối luôn luôn tinh tấn tu hành.

Xin hãy suy xét: công đức “niệm Phật trong một niệm” và “bước một bước hướng đến Phật” còn thù thắng đến như thế đó, huống là trong mỗi niệm, trong mỗi bước đều kinh hành niệm Phật thì sẽ diệt trừ tội chướng và đạt được công đức thật chẳng thể nghĩ bàn!

D. Thuật niệm Phật tu tâm theo pháp sư Sơn Ðường

(trích từ Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Theo các kinh điển Ðại Thừa khuyên người vãng sanh Tịnh Ðộ, về mặt tu nhân thì có hai thứ: Một là Ðịnh, hai là Tán.

1. Thứ nhất là Ðịnh Thiện, tức là dùng tâm quán tưởng A Di Ðà Phật, ức niệm y báo, chánh báo, giáo chủ và bạn lữ trong thế giới Tây Phương Cực Lạc đều chỉ do tâm tạo, đều vốn tự sẵn có đủ. Do tánh của chính ngay cái tâm ấy là Không, cho nên A Di Ðà Như Lai vốn là Không. Do tâm ta chính là Giả, nên A Di Ðà Phật hiển hiện rõ ràng. Tâm ta chính là Trung Ðạo, nên A Di Ðà Phật dứt bặt đối đãi chẳng thể nghĩ bàn.

Hoặc là quán tưởng hoa sen nở ra hay còn búp, và ta ở ngay trong hoa sen ấy. Hoa sen còn búp biểu thị Không, hoa sen nở biểu thị Giả. Thanh, sắc, hương, vị hình thể tương đồng, biểu thị Trung Ðạo.

Vì thế, kinh điển ghi: “Chư Phật Như Lai là Pháp Giới Thân nhập trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. Vì thế, lúc tâm các ông tưởng Phật thì tâm này là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo; tâm này làm Phật, tâm này là Phật’’.

Ðấy chính là đức Thích Ca Như Lai đích thân khai thị Duy Tâm tam muội, quán thể viên diệu thường trụ. Hiểu rõ chúng sanh, Phật Ðà, y báo, chánh báo, sắc pháp, tâm pháp cõi Tịnh Ðộ Cực Lạc đều là các công đức mà bổn tánh tự tâm vốn sẵn có đủ, hết thảy cảnh giới do bổn tâm của ta quán tưởng. Ngoài tâm không có Phật, ngoài tự tánh không có cõi nước. Cứ quán chiếu như thế chẳng ngớt, sẽ có thể chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

2. Thứ hai là Tán Thiện: Tấm lòng chân thật thanh tịnh tin tưởng vào thế giới Tây Phương Cực Lạc, nhất tâm bất loạn, hệ niệm Phật A Di Ðà từ một ngày cho đến bảy ngày, tiếng niệm không ngớt, niệm niệm chẳng gián đoạn.

Kinh dạy: “Chấp trì danh hiệu hoặc trong một ngày… hoặc trong bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì người ấy lúc sắp lâm chung, A Di Ðà Phật cùng các thánh chúng hiện ra trước mặt”.

Ðây chỉ là nương vào sự tướng để ức tưởng cõi ấy, chẳng dùng đến ba phép quán Không, Giả, Trung, cho nên gọi là Tán Thiện. Vì thế, chỉ cần tuân hành ba thứ Tịnh Nghiệp, hồi hướng phát nguyện được vãng sanh Tịnh Ðộ, sẽ đều sanh về thế giới Cực Lạc.

Tổ sư Trí Giả đại sư dạy: “Do vì căn cơ có lợi, độn, cho nên tu hành có Ðịnh và Tán sai khác”. Quán Phật tam muội gọi là Ðịnh, còn tu các thiện nghiệp khác thì gọi là Tán. So ra, sức lực của Tán Thiện yếu hơn nên chẳng thể diệt trừ tội Ngũ Nghịch, mà kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật lại dạy về Quán Phật tam muội nên có thể nhờ đó diệt trừ các tội Ngũ Nghịch, Thập Ác để vãng sanh. Do vậy, chẳng cần luận là Ðịnh Thiện hay Tán Thiện, chẳng luận là độn căn hay lợi căn, tất cả đều là nhân để vãng sanh Tịnh Ðộ, đều có thể hướng đến Vô Sanh, vĩnh viễn không thoái chuyển!

E. Liên Trì đại sư Tây Phương Phát Nguyện Văn Giản Chú

(Chú giải sơ lược bài văn phát nguyện vãng sanh Tây Phương của đại sư Liên Trì)

(trích từ sách Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Bạch Thoại Giảng Giải)

Tác giả: Lý Viên Tịnh. Ấn Quang đại sư giám định

Chánh văn:

Khể thủ Tây Phương An Lạc quốc

Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư

Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh

Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ

(Cúi lạy bậc đại đạo sư tiếp dẫn chúng sanh trong cõi nước An Lạc ở phương Tây; con nay phát nguyện, nguyện được vãng sanh. Kính xin đức Phật từ bi xót thương nhiếp thọ)

Chú giải:

Hai câu đầu bài kệ diễn đạt ý quy mạng nơi Phật; hai câu tiếp đó diễn tả ý cầu Phật gia hộ.

“Khể thủ” nghĩa là dập đầu sát đất. Dập đầu áp sát đất một lát rồi mới ngẩng đầu lên nhằm biểu thị sự cung kính đến cùng cực. Chân thành và tôn kính đúng là bí quyết tối diệu để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử.

“Phát” nghĩa là phát động mãnh liệt giống như mũi tên lìa khỏi dây cung, thế chẳng ngừng nghỉ giữa chừng. “Nguyện” nghĩa là mong cầu.

Ba điều Tín, Nguyện, Hạnh là cốt lõi của pháp môn Tịnh Ðộ. Hễ đã có nguyện, ắt phải có Tín và Hạnh, chẳng được khuyết bất cứ một thứ nào! Ðầy đủ không thiếu sót ba điều này, nhất định sẽ vãng sanh. Ngẫu Ích đại sư nói: “Ðược vãng sanh hay không hoàn toàn là do có Tín, Nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Lời dạy ấy chính là khuôn phép ngàn năm chẳng thể thay đổi!

1. Phát Bồ Ðề tâm

Người tu Tịnh nghiệp trước hết phải phát Bồ Ðề tâm thì mới có thể tương xứng bổn nguyện của Phật. Vì thế, phải lấy phát Bồ Ðề tâm làm chánh nhân, dùng niệm Phật làm trợ duyên; sau đấy mới cầu sanh về Tịnh Ðộ thì chỉ trong một đời ắt sẽ thành tựu. Nếu không phát Bồ Ðề tâm, chỉ được hưởng quả báo nhỏ bé trong đường trời người!

Ghi chú: Trong phần chánh văn dưới đây, trong nguyên bản, tác giả Lý Viên Tịnh đã dùng những chữ số nhỏ để đánh dấu cách phân chia chánh văn thành từng câu nhỏ để tiện chú giải từng ý.

Chánh văn:

1Ðệ tử mỗ giáp phổ vị tứ ân tam hữu pháp giới chúng sanh 2cầu ư chư Phật Nhất Thừa Vô Thượng Bồ Ðề Ðạo cố; 3chuyên tâm trì niệm A Di Ðà Phật vạn đức hồng danh, 4kỳ sanh Tịnh Ðộ.

(Ðệ tử tên là… khắp vì tứ ân, tam hữu, pháp giới chúng sanh cầu đạo Bồ Ðề Vô Thượng Nhất Thừa của chư Phật, chuyên tâm trì niệm hồng danh vạn đức của Phật A Di Ðà, nguyện sanh Tịnh Ðộ).

Chú giải:

1. “Tứ ân” là ân cha mẹ, ân chúng sanh, ân Tam Bảo và ân đất nước. “Tam hữu” là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. “Pháp giới chúng sanh” là hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới. Hai câu này đều nói về cảnh sở duyên; đây là vì tâm này phải có chỗ nương tựa vào thì mới có thể phát khởi, nhưng cảnh lại có rộng, hẹp, xa, gần sai khác. Tứ Ân là gần nhất, hẹp nhất; pháp giới chúng sanh là xa nhất, rộng nhất; tam hữu ở vào khoảng giữa. Bởi thế, phát tâm từ thân đến sơ, từ gần đến xa.

2. Chúng ta phát tâm niệm Phật chẳng phải chuyên vì tự lợi, mà còn phải mong tứ ân, tam hữu, pháp giới chúng sanh đều được độ thoát, cùng chứng đắc Nhất Thừa Vô Thượng Bồ Ðề đạo. Câu này nói đến cái tâm phát nguyện.

3. “Chuyên tâm” là trong tâm không hề có tạp niệm. “Trì niệm” là niệm niệm chẳng hề quên mất. “Vạn đức hồng danh” nghĩa là một danh hiệu có đủ cả vạn đức. Câu này nói đến đức Phật được niệm.

4. Câu cuối nói đến nơi chốn mình mong cầu.

2. Sám hối ba chướng:

Ðoạn này tiếp nối ý đoạn trước: Tuy đã niệm Phật phát tâm cầu sanh Tịnh Ðộ, nhưng vì chúng sanh đời mạt căn cơ hèn kém, chậm lụt như vậy, nên cần phải gấp rút sám hối những tội chướng ấy. Trừ được chướng ngại, ắt được vãng sanh. Nếu như chẳng trừ được nghiệp chướng của một trong ba độc, sẽ phải chịu ác báo trong tam đồ.

Chánh văn:

1Hựu dĩ, nghiệp trọng phước khinh, chướng thâm huệ thiển, nhiễm tâm dị xí, tịnh đức nan thành. 2Kim ư Phật tiền, kiều cần ngũ thể, phi lịch nhất tâm, đầu thành sám hối. 3Ngã cập chúng sanh khoáng kiếp chí kim, mê bản tịnh tâm, túng tham, sân, si nhiễm uế tam nghiệp vô lượng vô biên; sở tác tội cấu vô lượng vô biên; sở kết oan nghiệp nguyện tất tiêu diệt.

(Lại vì nghiệp nặng, phước nhẹ, chướng sâu, huệ cạn, tâm nhơ dễ nẩy nở, đức sạch khó thành. Nay đối trước Phật, năm vóc siêng lạy, dốc sạch một lòng, chí thành sám hối. Con cùng chúng sanh bao kiếp đến nay mê lầm tịnh tâm sẵn có, để tham, sân, si ô uế ba nghiệp, vô lượng vô biên tội cấu đã tạo, vô lượng vô biên oan nghiệp đã kết nguyện đều tiêu diệt)

Chú giải:

1. “Nghiệp” chính là Thập Ác. Thân có ba điều, tức là giết, trộm, dâm. Miệng có bốn điều là nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều và ác khẩu. Ý có ba điều là tham, sân, si.

“Nghiệp nặng” nghĩa là phạm đủ Thập Ác, hoặc là một lòng một dạ nghĩ tưởng chuyện làm ác.

“Phước” là Thập Thiện, tương phản của Thập Ác. “Phước nhẹ” nghĩa là chỉ tu có mỗi một điều thiện, hoặc chỉ làm lành qua loa. Hoặc là như vừa mới niệm Phật đã than khô họng; vừa mới lễ Phật đã kêu đau lưng! Ðấy đều là những duyên của “phước nhẹ”.

“Chướng” có hai thứ:

a. Trần duyên bức bách và ma tà, ngoại đạo trói buộc; đó là chướng từ bên ngoài.

b. Bệnh tật, chết yểu, ngu si, và điên đảo là chướng phát khởi từ bên trong.

“Chướng sâu” là nội chướng lẫn ngoại chướng cùng công phá mình, chẳng hạn như vừa nghĩ đến chuyện tu hành liền bị bệnh ngặt, vừa hướng đến đạo đã gặp phải tà sư v.v…

“Huệ” gồm có Phương Tiện Huệ (Văn, Tư, Tu) và Chân Thật Huệ (Kiến Ðạo…).  “Huệ cạn” là nghe nhiều chỉ hiểu được đôi chút, hoặc chưa chứng Nội Phàm đã bảo mình đạt tới Phật địa; vừa hiểu biết đôi chút sự việc thế gian đã khoe mình chứng ngộ.

“Nhiễm tâm” chính là tham, sân, si. “Dị xí” nghĩa là tâm tham luyến khác nào những sợi tơ trong ngó sen cứ kéo dài mãi chẳng đứt; tâm sân nộ như ngọn lửa dễ cháy bùng lên; tâm ngu si như lưới đan dày mắt, càng quấn càng dày. Lại có hạng người vừa gặp phải chuyện nhỏ nhặt đã ghim trong lòng bao năm tháng, nghe lời không vừa ý liền kết oán suốt đời; há chẳng phải là “nhiễm tâm dị xí” hay sao?

“Tịnh đức” chính là Giới, Ðịnh, Huệ. “Khó thành” nghĩa là về Giới thì đối với các luật nghi, giữ được thì ít, vi phạm thì nhiều; về Ðịnh thì đối với Thiền Na dù lớn hay nhỏ, chẳng hề tu tập, hiểu biết; về Huệ thì đối với những Diệu Trí dù Quyền hay Thật thường chẳng có cách nào chứng ngộ được. Hoặc là vừa mới lãnh thọ giới phẩm, đã phá ngay giới tướng; vừa vào Thiền đường đã hôn trầm, lao chao. Ðấy chẳng phải là “tịnh đức nan thành” hay sao?

Nếu như đã hiểu rõ những điều ấy, hãy nên sanh tâm hổ thẹn sâu xa, thống thiết tự trách, khẩn khoản sám hối thì mới hợp đạo lý vậy!

Cả bốn câu này nói lên nguyên do sám hối, tức là lý do vì sao chúng ta cần phải sám hối. 

2. “Ngũ thể” (năm vóc) chính là hai khủy tay, hai gối và trán. Do vì từ thân này tạo ra các nghiệp, nên phải dùng ngũ thể rạp lạy để sám hối; làm như vậy nhằm để biểu thị sự cung kính bên ngoài.

“Phi lịch” chính là mở toang ra, tẩy rửa sạch sẽ. Ðấy là do từ ý khởi lên tham sân, cho nên ngày nay cần phải nhất tâm, dốc trọn tấm lòng sám hối. Làm như vậy để biểu thị sự cung kính trong nội tâm.

“Ðầu thành” (gieo tấm lòng thành) nghĩa là đem trọn tấm lòng thành của mình hướng đến Phật. Sám hối là để đoạn cái tâm tiếp nối (tương tục tâm).

Cả bốn câu này nói lên phương pháp sám hối, tức là chúng ta phải nên sám hối như thế nào.

3. “Con cùng chúng sanh” ý nói chẳng phải chỉ có mỗi một người, “từ bao kiếp đến nay” ý nói chẳng phải chỉ mỗi một đời này. Cần nên biết rằng: Chúng sanh tạo ra tội nghiệp từ vô thỉ đến nay; đời đời kiếp kiếp lần lượt làm quyến thuộc, chủ bạn, lần lượt giúp đỡ, dắt dẫn nhau gây tạo. Ðã cùng nhau tạo nghiệp, tất nhiên phải cùng nhau sám hối.

“Vô lượng vô biên” hàm ý chẳng phải chỉ có một chỗ. Vô lượng vô biên lại bao gồm năm ý nghĩa:

- Một là ước về tâm: Một niệm trần lao đã có đủ tám vạn [phiền não], huống hồ là niệm niệm tiếp nối.

- Hai là ước về cảnh: Gây tạo nghiệp trong một chỗ đã là vô lượng, huống hồ tạo nghiệp khắp cả mười phương.

- Ba là ước về sự: Một nghiệp nếu thành, tội đã là không ngằn mé, huống hồ là có các nghiệp.

- Bốn là ước về thời: Chỉ một đời đã tạo nghiệp vô lượng, huống hồ trong cả bao kiếp.

- Năm là ước về người: Một người tạo nghiệp đã là vô lượng, huống hồ là chúng sanh!

Vì thế, nếu như nghiệp chướng có hình trạng thì khắp cả hư không cũng chẳng thể chứa đựng được!

Câu “mê bổn tịnh tâm” (mê lầm tịnh tâm sẵn có) thể hiện ý sám hối Phiền Não Chướng; câu “nhiễm uế tam nghiệp” diễn tả ý sám hối Nghiệp Chướng; câu “sở kết oán nghiệp” là sám hối Báo Chướng. “Nguyện tất tiêu diệt” là nguyện ba thứ chướng trên đây đều tiêu diệt.

3. Lập tứ hoằng thệ:

Nếu tu hành mà chẳng có thệ nguyện, chỉ e sẽ bị thoái thất nên phải dùng bốn pháp này để chế ngự cái tâm. Nếu thiếu sót bốn pháp này, sẽ dễ bị biếng nhác.

Chánh văn:

1Tùng ư kim nhật, lập thâm thệ nguyện: viễn ly ác pháp, thệ bất cánh tạo; 2cần tu thánh đạo, thệ bất thoái đọa; 3thệ thành Chánh Giác, 4thệ độ chúng sanh.

(Từ nay trở đi, lập thệ nguyện sâu: xa lìa ác pháp, thề chẳng tạo nữa; siêng tu thánh đạo, thề chẳng lui đọa; thề thành Chánh Giác, thề độ chúng sanh)

Chú giải:

Câu đầu tiên chính là “phiền não vô biên thệ nguyện đoạn”. Ấy là do xem thấy chúng sanh bị tham, sân, si, tà kiến não hại mà ta chẳng thể cứu độ, nên lập ra thệ nguyện này; đấy là nương theo Tập Ðế để phát tâm.

Câu thứ hai chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Do xem thấy lục độ, vạn hạnh… hằng hà sa pháp môn có đủ vô lượng điều xứng tánh khoái lạc mà chúng sanh chẳng tu tập, trái lại còn tạo đủ các điều tội nghiệp, cho nên lập ra thệ nguyện này. Ðây là nương theo Ðạo Ðế mà phát tâm.

Câu thứ ba “thệ thành Chánh Giác” chính là “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Do vì quán sát Phật đã diệt sạch phiền não, chứng đắc niềm vui giải thoát, nhưng chúng sanh bất giác bất tri, phải lầm chịu đủ điều khổ sở, cho nên phát ra lời nguyện này. Ðây chính là nương theo Diệt Ðế mà phát tâm.

Câu thứ tư: “Thề độ chúng sanh” chính là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Do xem thấy chúng sanh bị sanh, lão, bệnh, tử bức bách chịu đại khổ não, nên phát ra lời nguyện này. Ðây chính là nương theo Khổ Ðế mà phát tâm.

4. Cầu sanh Tịnh Ðộ

Do phát khởi các tâm nguyện như trên, cả Hoặc lẫn nghiệp cùng tiêu tan, cho nên tam muội mới thành, mới dễ sanh trong chín phẩm hoa sen. Bởi vậy, cần phải cầu sanh Tịnh Ðộ. Nếu không phát nguyện cầu sanh, khó lòng thoát khỏi luân hồi.

4.1. Cầu Phật gia hộ

Chánh văn:

1A Di Ðà Phật dĩ từ bi nguyện lực đương chứng tri ngã, đương ai mẫn ngã, đương gia bị ngã. 2Nguyện Thiền Quán chi trung, mộng mị chi tế, đắc kiến A Di Ðà Phật kim sắc chi thân, đắc lịch A Di Ðà Phật bảo nghiêm chi độ, đắc mông A Di Ðà Phật cam lộ quán đảnh, quang minh chiếu thân, thủ ma ngã đầu, y phú ngã thể.

(Xin A Di Ðà Phật do từ bi nguyện lực nên chứng biết cho con, nên thương xót con, nên gia hộ con. Nguyện trong khi Thiền Quán, hay trong lúc mộng mị được thấy thân sắc vàng của A Di Ðà Phật, được dạo qua cõi báu trang nghiêm của A Di Ðà Phật, được A Di Ðà Phật dùng cam lộ rưới đảnh, quang minh chiếu đến thân, tay Phật xoa đầu con, y Ngài trùm thân con)

Chú giải:

Do tâm Phật từ bi vô lượng nên Phật có nguyện lực. Do có nguyện lực, nên sẽ chứng biết. Do chứng biết, nên sẽ xót thương. Do xót thương, nên sẽ gia hộ. Cả bốn câu này diễn tả tấm lòng mong Phật hộ niệm. Những câu kế tiếp đó diễn tả các cách đức Phật hộ niệm chúng ta. 

4.2. Chánh phát nguyện

4.2.1. Phát nguyện trong đời hiện tại

Chánh văn:

Sử ngã túc chướng tự trừ, thiện căn tăng trưởng, tật không phiền não, đốn phá vô minh, viên giác diệu tâm, khuếch nhiên khai ngộ, Tịch Quang chân cảnh thường đắc hiện tiền.

(Khiến cho con túc chướng tự trừ, căn lành tăng trưởng, chóng sạch phiền não, mau phá vô minh, đột nhiên khai ngộ viên giác diệu tâm, Tịch Quang chân cảnh thường được hiện tiền)

Chú giải:

Do được Phật dùng cam lộ quán đảnh, nên ba thứ túc chướng: Hoặc, Nghiệp, Khổ tự diệt trừ. Do được quang minh của Phật chiếu đến thân, nên ba thứ căn lành Giới, Ðịnh, Huệ tự được tăng trưởng.

Chữ “phiền não” chỉ Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Phiền não làm loạn tâm thần. Chữ “vô minh” chỉ căn bản hoặc, chẳng ngộ được Ðệ Nhất Nghĩa Ðế. Do được đức Phật dùng tay xoa đảnh đầu, nên mau chóng phá sạch các phiền não, vô minh.

“Viên giác diệu tâm” là Năng Chứng Trí. “Tịch Quang chân cảnh” là lý sở chứng. Do được đức Phật dùng y trùm lên thân ta, đột nhiên ta khai ngộ được Viên Giác diệu tâm cho nên chân cảnh Tịch Quang thường hiện tiền.

4.2.2. Lâm chung nguyện

Chánh văn:

Chí ư lâm dục mạng chung, dự tri thời chí, thân vô nhất thiết bệnh khổ ách nạn, tâm vô nhất thiết tham luyến, mê hoặc. Chư căn duyệt dự, chánh niệm phân minh, xả báo an tường như nhập Thiền Ðịnh. A Di Ðà Phật dữ Quán Âm, Thế Chí, chư thánh hiền chúng phóng quang tiếp dẫn, thùy thủ đề huề. Lâu, các, tràng phan, dị hương, thiên nhạc, Tây phương thánh cảnh chiêu thị mục tiền, linh chư chúng sanh kiến giả, văn giả hoan hỷ cảm thán, phát Bồ Ðề tâm.

(Cho đến lúc mạng sắp chấm dứt, biết trước sắp đến lúc. Thân không có hết thảy bệnh khổ, nạn ách; tâm không có hết thảy tham luyến, mê hoặc. Các căn vui sướng, chánh niệm phân minh. Bỏ xác thân một cách an lành như đang nhập Thiền Ðịnh. A Di Ðà Phật và Quán Âm, Thế Chí, các bậc thánh hiền phóng quang tiếp dẫn, đưa tay dắt dìu. Lầu, gác, tràng phan, hương lạ, nhạc trời. Thánh cảnh Tây phương hiện rõ trước mắt khiến cho các chúng sanh kẻ thấy, người nghe mừng rỡ, khen ngợi, phát Bồ Ðề tâm)

Chú giải:

Biết trước ngày mất ba ngày hoặc bảy ngày thì gọi là “dự tri thời chí” (biết trước sắp đến lúc vãng sanh).

“Bệnh khổ” là Tứ Đại nơi thân chẳng điều hòa. “Nạn ách” là các nạn nước, lửa, đao binh, độc dược…

“Tham luyến” là chẳng hạn như ăn chay lâu năm, lúc lâm chung lại ngã mặn; hoặc đang một dạ niệm Phật, khi lâm chung chợt sợ chết; hoặc vì ân ái vấn vương, thậm chí khó lòng chia tay, buông bỏ nổi; hoặc là hứa nguyện, van vái, cam tâm cầu thần, chạy thuốc v.v…

“Mê hoặc” là tự nghi mình nghiệp chướng sâu nặng, hoặc nghi công hạnh cạn mỏng, hoặc nghi Phật chẳng đến rước v.v…

“Các căn vui sướng” là năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân không bệnh, không nạn. “Chánh niệm phân minh” chỉ căn thứ sáu tức là ý căn không tham, không lầm lạc.

“Bỏ xác thân một cách an lành” là buông bỏ cái thân ta đã thọ đây chẳng hề lo lắng, chẳng hề mê loạn. “Như nhập Thiền Ðịnh” là ngồi mà tịch, hoặc đứng mà thác.

Từ câu “A Di Ðà Phật” trở đi nói rõ về sự cảm ứng đạo giao. Còn từ câu “khiến cho các chúng sanh” trở đi là nói đến sự lợi ích do thấy và nghe.

4.2.3. Vãng sanh nguyện

Chánh văn:

Ngã ư nhĩ thời, thừa kim cang đài tùy tùng Phật hậu; như đàn chỉ khoảnh sanh Cực Lạc quốc, thất bảo trì nội, thắng liên hoa trung. Hoa khai kiến Phật, kiến chư Bồ Tát, văn diệu pháp âm, hoạch Vô Sanh Nhẫn.

Ư tu du gian, thừa sự chư Phật, thân mông thọ ký. Ðắc thọ ký dĩ, tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, vô lượng bách thiên đà la ni môn, nhất thiết công đức giai tất thành tựu.

(Con trong khi ấy nương đài kim cang theo sau đức Phật. Như trong khoảng khắc vừa khảy ngón tay sanh cõi Cực Lạc trong ao bảy báu, trong hoa sen nhiệm mầu. Hoa nở thấy Phật, thấy các Bồ Tát, nghe tiếng pháp mầu, đắc Vô Sanh Nhẫn. Chỉ trong khoảnh khắc, thờ kính chư Phật, liền được thọ ký. Ðược thọ ký xong, ba thân, bốn trí, ngũ nhãn, sáu thông, vô lượng trăm ngàn đà la ni môn, hết thảy công đức thảy đều thành tựu)

Chú giải:

Câu “như đàn chỉ khoảnh” (như trong khoảng khảy ngón tay) ngụ ý vãng sanh cực kỳ mau chóng. “Ðắc Vô Sanh Nhẫn” là hiểu rõ các pháp vốn bất sanh bất diệt. “Tam thân” là Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân. “Tứ trí” là Ðại Viên Kính Trí, Bình Ðẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí, Thành Sở Tác Trí. “Ngũ nhãn” là nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. “Lục thông” là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông và lậu tận thông. “Ðà la ni” dịch nghĩa là Tổng Trì, tức là bao gồm hết thảy các pháp, nắm giữ vô lượng nghĩa. Từ câu “thờ kính chư Phật” trở đi diễn tả rõ hình tướng của các công đức ấy.

5. Trở vào Sa Bà

Chánh văn:

Nhiên hậu, bất vi An Dưỡng, hồi nhập Sa Bà, phân thân vô số biến thập phương sát, dĩ bất khả tư nghị tự tại thần lực, chủng chủng phương tiện độ chúng chúng sanh hàm linh ly nhiễm, hoàn đắc tịnh tâm, đồng sanh Tây Phương, nhập Bất Thoái địa.

(Sau đó, chẳng lìa An Dưỡng, trở vào Sa Bà, phân thân vô số khắp mười phương cõi, dùng sức thần lực chẳng thể nghĩ bàn, các thứ phương tiện độ các chúng sanh khiến đều ly nhiễm, khôi phục tịnh tâm, cùng sanh Tây Phương, chứng đắc Bất thoái)

Chú giải:

“Chẳng lìa An Dưỡng” là Pháp Thân bất động. “Phân thân vô số” là Hóa Thân ứng hiện. “Khắp mười phương cõi” là chẳng phải chỉ thấy hiện hữu trong một cõi nước. “Phương tiện độ sanh” là dùng tài thí để nhiếp phục kẻ tham lam, dùng ái ngữ nhiếp phục kẻ ương ngạnh; dùng lợi ích nhiếp phục kẻ làm lành; dùng đồng sự nhiếp phục kẻ làm ác. “Ly nhiễm” là ba thứ Hoặc chướng chẳng khởi; “tịnh tâm” là chứng trọn vẹn ba đức. Bất Thoái gồm có ba loại:

a.Vị Bất Thoái: Trọn chẳng lui sụt xuống phàm phu, Nhị Thừa.

b. Hạnh Bất Thoái: Trọn chẳng lui sụt hạnh nghiệp đã tu.

c. Niệm Bất Thoái: Quyết không có một niệm nào lầm lạc, quên mất.

"Nhập Bất Thoái địa” còn có nghĩa là một khi đã sanh về Tây Phương, dẫu sanh trong Biên Ðịa, Nghi Thành đi nữa, quyết cũng chẳng đọa trong tam đồ. Hai câu “khiến đều ly nhiễm…” đều nói về lợi ích trong hiện đời. Còn câu “cùng sanh Tây phương” nói đến lợi ích trong đời sau.

Chánh văn:

Như thị đại nguyện, thế giới vô tận, chúng sanh vô tận, nghiệp cập phiền não nhất thiết vô tận, ngã nguyện vô tận.

(Ðại nguyện như thế, thế giới vô tận, chúng sanh vô tận; nghiệp và phiền não hết thảy vô tận, con nguyện vô tận).

Chú giải:

Ðoạn văn này để tổng kết các đoạn trên.

6. Hồi hướng khắp cả

Chánh văn:

1Nguyện kim lễ Phật, phát nguyện, tu trì công đức, hồi thí hữu tình, tứ ân tổng báo, tam hữu tề tư. 2Pháp giới chúng sanh đồng viên Chủng Trí.

(Nguyện công đức lễ Phật, phát nguyện, tu trì hiện tại hồi hướng hữu tình, báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cõi. Pháp giới chúng sanh cùng được viên mãn Nhất Thiết Chủng Trí) 

Chú giải:

Hồi hướng có ba loại:

a. Một là hồi kỷ hướng tha: Do vì từ vô thỉ đến nay, chúng sanh làm các nghiệp lành gì cũng chỉ nghĩ đến bản thân và quyến thuộc mà thôi, nay hãy nên xoay cái tâm ấy hướng đến khắp các chúng sanh, đem những việc mình đã tu thí hết cho họ, chỉ nguyện người khác được lợi, chẳng mong bản thân mình hưởng an lạc.

Ðấy cũng là “báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cõi”.

b. Hai là hồi nhân hướng quả: Từ vô thỉ đến nay, chúng sanh chỉ biết mong cầu phước báo trong đường trời, người; chẳng biết mong cầu thánh quả xuất thế, nay hãy nên xoay cái tâm ấy hướng đến Vô Thượng Bồ Ðề, đem hết thảy các thiện nghiệp do ta đã tu để trang nghiêm trọn vẹn Phật quả.

Ðây chính là hồi hướng “pháp giới chúng sanh cùng được viên mãn Nhất Thiết Chủng Trí”. “ChủngTrí” chính là trí huệ của Phật.

c. Ba là hồi Sự hướng Lý: Cả hai loại hồi hướng trên đây đều là sự tướng; nhưng Lý vốn nằm trong Sự, nên cả ba thứ hồi hướng đều được trọn vẹn; do đó, chẳng cần phải nói rõ.

Hồi Sự hướng Lý là năng tu (người tu), sở tu (công đức, thiện nghiệp do người ấy tu tạo), tâm năng hướng (tâm hồi hướng), sở hướng (công đức do ta đem hồi hướng) xét trong Thật Tế (Lý Nhất Thể) thì những cặp khái niệm nhị nguyên ấy đều tiêu diệt hết, không còn có các tướng sai biệt.

Thêm nữa, người tu Tịnh nghiệp làm được điều lành gì đều trước hết hồi hướng về Tây Phương. Do tâm ấy, sẽ chuyển hóa phước ấy hướng theo chánh lộ vãng sanh Tây Phương. Nếu chẳng hồi hướng, chỉ e tâm bị phước ràng buộc, lại sanh trong tam giới, phải hiểu rõ điều này!

[1] Kim Tiên: một danh từ người Trung Hoa dùng để gọi Phật. Vì Phật thân sắc vàng ròng (tử kim thân) nên họ Phật là Kim Tiên. Một danh xưng khác cũng thường dùng để chỉ Phật là Hoàng Diện Công (ông mặt vàng).

[2] Theo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ‘biến chỗ sống thành chỗ chín, biến chỗ chín thành chỗ sống’ nghĩa là biến cái tâm niệm Phật thô phù, hời hợt thành tâm niệm Phật chắc thật, thuần thục; biến cái tâm tham đắm cảnh duyên, tham, sân, si, tập khí sâu nặng thành mỏng nhẹ.

[3] Nhất tâm tam quán: Tam Quán là Trung Quán, Giả Quán, và Không Quán.

[4] Nhập lưu: Từ sự nghe, truy ngược trở lại Nhĩ Thức để thấy rõ Nhĩ Thức là tác dụng của tâm thức, thấy được tánh Nghe.

[5] Dân Quốc là thời gian kể từ năm 1911 trở đi. Sau cách mạng Tân Hợi (1911), nhà Thanh bị lật đổ, chính quyền dân chủ được thành lập và đổi tên nước Ðại Thanh thành Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1911 (đúng ra  tháng Giêng năm 1912) được gọi là năm Dân Quốc thứ nhất. Hiện ở Ðài Loan vẫn còn thông dụng cách tính niên đại theo năm Dân Quốc, chẳng hạn năm 2002 là năm Dân Quốc 91.

[6] Do pháp môn Tịnh Độ viên mãn nên gọi là Viên Tông (không phải là Viên Thông).

[7] Thời khóa công phu mỗi ngày gọi là hằng khóa.

[8] Ðàn việt (danapati): thí chủ, tín thí.

[9] Tu theo thứ tự chín lớp (cửu thứ đệ tu): Còn gọi là Cửu Thứ Ðệ Ðịnh, tức là chín pháp hành Thiền theo thứ tự không gián đoạn, tức là: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Xứ, Thức Xứ, Vô Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ và Diệt Thọ Tưởng Ðịnh.

[10] Siêu tình ly kiến: Không thể nào dùng tư duy, kiến giải để phân biệt, hiểu biết được. Ly cú tuyệt phi hay còn nói là “lìa tứ cú, tuyệt bách phi”, tức là không còn thuộc trong phạm trù đối đãi nào. Tứ cú là có, không, cũng có cũng không; chẳng phải có chẳng phải không. Bách chỉ cho số nhiều, phi là các câu phủ định như phi hữu, phi vô v.v… Bách phi nghĩa là tất cả văn tự, ngôn ngữ đều chẳng phải thật có. Kinh điển hay dùng chữ “ly tứ cú, tuyệt bách phi” để diễn tả lý vô tưởng, bất khả đắc, không còn vướng chấp vào bất cứ khái niệm nào.



Từ Ngữ Phật Học Trong: Trích Yếu Sách Phật Pháp Yếu Lĩnh