Vào đời Đại Minh có người tên Tôn Thúc Tử, pháp danh Đại Vu. Từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một người thông minh, lanh lợi, dũng cảm. Năm mười hai tuổi, theo cha là cư sĩ Kính Ngô đỉnh lễ bốn mươi tám lời nguyện trước tượng Đức Phật A di đà. Sau đó, ông vào chùa Vân Thê thụ trì năm giới. Khi trở về nhà, ông tuyệt đối không ăn những thức ăn có ngũ tân và máu thịt. Ông không giao du với ai, cũng không tụng đọc nữa, chỉ chuyên tâm niệm Phật. Vì nhất quyết lấy cho được đài vàng, nên ông siêng năng, chịu khổ không tiếc thân mạng.
Không lâu sau, ông nằm mộng thấy có hai vị tì kheo cầm hoa sen dùng nhất tâm Tịnh độ ấn khả. Lại thấy đạo nhân[130] tụng kinh Kim cương suốt một ngày một đêm. Ông bỗng giật mình ngồi dậy và nói: “Đức Phật A di đà, bồ tát Quán Thế Âm đều đến rước tôi”. Nói dứt lời, ông kết Kim cương quyền ấn, dõng dạc niệm danh hiệu Phật A di đà mấy tiếng rồi an nhiên qua đời.
Bấy giờ, nhằm ngày 11 tháng 11 năm Tân Hợi, niên hiệu Vạn Lịch (1611). Ông có trước tác Tịnh độ thập nhị thời ca lưu truyền ở đời.
Chuyện vãng sinh của ông được ghi lại rõ ràng, đầy đủ trong Tây sinh truyện của Ngô Thái Sử.
Ghi chú
Ngô Thái Sử và cư sĩ Quán Ngã đều cho rằng mộ của Đại Vu quanh năm mọc nấm linh chi. Năm ông qua đời, quả thật có loại nấm linh chi lớn bằng cái đấu, quý như vàng, như ngọc, như bánh xe màu hồng phấn. Có thể nói đó là bằng chứng của điềm lành vãng sinh. Vì thế, Tôn Thúc Tử được ghi vào trong Tây sinh truyện. Lời nói của Trưởng giả Thái Sử là chân thật, nên tôi (Châu Hoằng) mới ghi lại đây.