Như trước đã thuật hai cảnh y và chánh cho đến tinh tấn, tuy đều là mầu nhiệm viên mãn, đều là phương pháp cầu sanh Tịnh độ, nhưng chưa phải là chánh hạnh, những điều trình bày dưới đây mới thật là chỉ thú của chánh hạnh. Vì sao gọi là chánh hạnh? Hành giả đã phát chí này là khiến thân tâm được thanh tịnh, vào trong đạo tràng, trước phải quán sát: Ta và tất cả chúng sanh ở trong cõi hư không vi trần sát hải này, thường ở trong bể lớn sanh tử, nhiều kiếp không bao giờ dừng, nổi trôi chìm đắm ở trong 6 đường, không biết đường về và không ai cứu giúp, nếu không làm cho họ đều được giải thoát thì sao gọi là chánh hạnh. Đối với cảnh quán sát kẻ oán người thân, liền từ cảnh ấy khởi lòng đại bi, như lượng của hư không rộng lớn bao trùm. Lại phải nghĩ rằng: hôm nay thân này của ta chứa đầy tội lỗi, oan nghiệt khổ báo, như bị ghẻ lỡ, nếu không làm việc bố thí cho chúng sanh, giúp họ tu tam muội, đều được giải thoát thì trái lời dạy của Phật, trái với bản nguyện của ta. Chúng sanh chịu khổ thật đáng thương xót. Ta nay phát tâm dũng mãnh như Vua Sư Tử ra khỏi hang, không cần bạn bè không cần ai giúp đở, phát tiếng rống vang, xô dẹp tất cả, nhất định không bị ma vương, bọn ác làm lui sụt. Tâm rộng lớn đã lập, rồi sau mới xét đến chánh hạnh niệm Phật của các bậc cổ hiền, chọn phương pháp tịch tịnh tự nhiên và chẳng phải chỗ khó khăn của tiên đức, để khỏi phí công các bậc Cổ Đức đã tạo ra, rồi đúng pháp mà kiến lập đạo tràng.
Trong đạo tràng ở phía dưới phải có đủ hương đèn hoa quả, phía trên treo tràng phang bảo cái, ở giữa phụng thờ tượng Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, hoặc tượng chín phẩm, thật trang trọng và sạch sẽ, treo khắp tràng phang, đầy đủ hương hoa và các thứ cúng dường, tất cả phải sạch sẽ thơm tho. Kế đó phải mặc áo mới sạch, đốt hương đèn, đăt tọa cụ sẳn. Khởi tâm đem tất cả căn lành đã có từ vô thỉ, khắp vì chúng sanh hồi hướng, dùng hạnh nguyện trang nghiêm Tịnh đọ. Nếu không được như thế hồi hướng làm nhân phát khởi thì đâu được ba tâm cùng phát viên mãn, năm vóc gieo mình.
Quán Phật tướng hảo, hồ quỳ hợp chưởng, cho đến vận dụng tâm duyên khắp tất cả chúng sanh ở vô biên sát hải và thân ta từ trước đến nay trôi nổi không quay lại, thật đáng xót thương! Rơi lệ đau lòng, cầu Phật rũ lòng từ thương xót, chợt thân này như núi lớn đổ, nương về Tam bảo. Tay cầm hương hoa, tưởng khắp pháp giới, khen ngợi công đức Phật, kỉnh lễ chí thành, đem hết tâm tư phát lồ sám hối. Tu hành ngũ hối, cung kỉnh quy y, lúc ấy thân ngồi ngay ngắn, mặt hướng về tây, quán tướng hảo Phật. Tụng kinh niệm Phật vào ra kinh hành, ngày đêm sáu thời, khắc kỳ cầu chứng. Hoặc như hành giả chướng sâu, chưa có cảm ứng, phải lấy cái chết làm kỳ. Trong lúc này không được giây lát nhớ ngũ dục ở đời, một lòng thực hành như thế, nếu không được vãng sanh thì đức Phật là đại vọng ngữ.
Tam muội này có thần hiệu như thế nên chư Phật mười phuơng đều khen ngợi, các bậc thánh đều tôn sùng, ban đầu được đề xướng ở Lô Sơn, sau đó lưu truyền khắp thiên hạ. Bao nhiêu đời hoằng truyền đều ký pháp tu tam muội này làm nơi quy thú. Nghi quỹ tam muội tuy nhiều, chỉ có phương pháp tu tam muội của Sám Chủ Từ Vân chọn ra rõ ràng hơn hết, hành giả cần phải nghiên cứu cho thuần thục. Đây là chỗ làm cao nhất, cảnh giới sâu xa, hành giả cần phải gắng sức nghiên cứu học hỏi, cẩn thận không được bỏ phương pháp tu này chạy theo pháp khác. Hoặc nếu người căn cơ còn kém, thắng hạnh khó hoàn toàn, cần phải ở nơi tịnh thất làm cho trong ngoài thanh tịnh, tùy ý lập hạnh như lễ Phật sám hối mỗi ngày định số bao nhiêu, tinh tấn một lòng, thề không giữa chừng lui sụt. Hoặc chuyên tụng kinh, hoặc chuyên trì chú, hoặc chỉ chấp trì danh hiệu cầu nguyện vãng sanh. Hoặc có thể thâm đạt nghĩa các pháp, quán y báo và chánh báo của Phật, nếu được thấy hảo tướng thì biết tội đã diệt, duyên đã sâu, sẽ được sanh về nước Cực lạc. Như Kinh A Di Đà nói: "Không thể dùng ít căn lành, ít phước đức, ít nhơn duyên mà được sanh về nước kia. Nếu có người nghe nói Phật A Di Đà rồi gìn giữ danh hiệu hoặc 1 ngày, 2 ngày, cho đến 7 ngày một lòng không loạn, người ấy khi mạng chung, Phật và thánh chúng hiện ra trước mặt người ấy tiếp dẫn liền được vãng sanh". Nên biết gìn giữ danh hiệu là nhiều căn lành, nhiều phước đức, nhiều nhơn duyên.
Nếu có người chưa dứt hết duyên đời, tu theo thế thiện, đối với nước Cực lạc tin chắc không nghi, mỗi niệm hâm mộ ưa thích không quên, ở cách làm trong đạo tràng trước tuỳ ý tu tập, trong 4 oai nghi lấy việc hành đạo làm nơi quy thú, gặp cảnh thì đạt được nguồn gốc thực hành, gặp việc thì hết sức dùng phương tiện, khi mạng lâm chung chắc sanh về cõi Cực lạc. Tuy các hạnh nói sơ lược chẳng đồng mà năng lực của pháp ấy thì bình đẳng. Chỉ cần trong lòng quyết chí thực hành, việc kết quả có chậm có mau là do ý chí của hành giả nên Phật cũng ứng hiện có mau có chậm, như bóng theo hình, hành giả cần phải biết rõ. Có pháp môn thập niệm của Ngài Từ Vân, mỗi sáng tối, khi súc miệng, rửa mặt xong, ở chỗ vắng vẻ, mặt hướng về phía Tây, niệm danh hiệu Phật hết một hơi tính một niệm, niệm hết 10 hơi gọi là thập niệm. Đây thật là nhơn ban đầu rất dễ làm, đừng cho qua mất. Các hành tướng tu hành như trên nghĩa đủ, lý rõ, có thể nói là không có nghĩa nào khác nữa.
Hỏi: Tôi trong khi niệm Phật, tuy vận dụng được thân và miệng mà tâm vẫn lăng xăng không thể tự chế, làm sao dụng tâm cho được không tán loạn?
Đáp: Hãy cứ vận dụng thân và miệng không cho gián đoạn tự có thể được nhất tâm. Chỉ cần thực hành liên tục làm chứng, không lo gì tâm còn tán loạn. Ví như đứa con hiếu thảo mới mất cha mẹ, như con rồng mất hạt châu hộ mạng, không mong tâm được nhất mà tâm tự nó nhất. Đâu cần ngăn nó làm cho nó được nhất, thật tâm này không thể ngăn, thật do hành giả siêng năng hay giải đải thôi!