Vào buổi sơ kì của hai trăm năm sau ngày Phật diệt độ, Đại Chúng bộ(1) đã phân rẽ thành ba bộ phái với giáo nghĩa như sau:
1. Nhất Thuyết bộ: (2) Vì chủ trương tất cả pháp thế và xuất thế gian(3) chỉ có giả danh(4), cho nên gọi là “Nhất Thuyết”. Yếu lược giáo nghĩa của bộ này là: Ngã không thật có, các pháp trong ba đời không thật có; tức là, các pháp từ thế gian cho đến xuất thế gian, đều không thật có. Tất cả các pháp này, kể cả sinh tử, niết bàn, hoàn toàn chỉ là giả danh, không hề có một thật thể(5) có thể nắm bắt được. Đó là quan niệm tổng quát của bộ phái này đối với vạn pháp.
2. Thuyết Xuất Thế bộ: (6) Vì chủ trương các pháp thế gian chỉ là giả danh, còn các pháp xuất thế gian mới là chân thật, cho nên gọi là “Thuyết Xuất Thế”. Yếu lược giáo nghĩa của bộ này là: Ngã không thật có, các pháp quá khứ và vị lai cũng không thật có. Mười tám khu vực(7) cho đến tất cả pháp tục đế đều không thật có. Chỉ các pháp xuất thế gian ở trong chân đế(8) mới là thật có. Lí do là vì: các pháp thế gian đều là kết quả do nghiệp sinh ra, từ điên đảo sinh ra; đã là điên đảo thì không chân thật, cho nên các pháp thế gian chỉ có giả danh, không có thật thể. Các pháp xuất thế gian không phải do điên đảo sinh ra, cho nên cả đạo(9) và đạo quả(10) đều là chân thật.
3. Kê Dận bộ: (11) Bộ này lấy họ của vị sáng tổ làm tên, cho nên gọi là “Kê Dận”. Yếu lược giáo nghĩa của bộ này là: Ngã không thật có, các pháp quá khứ và vị lai đều không thật có, chỉ có các pháp hiện tại là thật có. Bộ này chuyên hoằng dương tạng Luận, và cho rằng Kinh, Luật chỉ là giáo pháp phương tiện của đức Phật; hãy nên bỏ Kinh Luật, chỉ y cứ vào Chánh Lí mà tu tập chuyên cần thì phiền não sẽ đoạn trừ nhanh chóng.
Kế đến, vào buổi trung kì của 200 năm sau ngày Phật diệt độ, trong Đại Chúng bộ lại tách ra một bộ, gọi là Đa Văn bộ; không bao lâu lại tách ra một bộ nữa, gọi là Thuyết Giả bộ. Giáo nghĩa của hai bộ mới này như sau:
4. Đa Văn bộ: (12) Bộ này theo đức độ và sở học của vị sáng tổ mà đặt tên, nên gọi là “Đa Văn”. Yếu lược giáo nghĩa của bộ này là: Ngã không thật có, nhưng pháp thì thật có. Đức Phật nói năm pháp vô thường, khổ, không, vô ngã và niết bàn, là nhằm hướng dẫn mọi người tu đạo để lìa thoát thế gian, cho nên pháp là thật có.
5. Thuyết Giả bộ: (13) Bộ này chủ trương rằng, trong các pháp thế và xuất thế gian đều có một phần ít là giả, cho nên gọi là “Thuyết Giả”. Yếu lược giáo nghĩa của bộ này là: Ngã không thật có, các pháp quá khứ và vị lai cũng không thật có, còn các pháp hiện tại thì phân làm hai: 1) Các pháp mười hai xứ(14) và mười tám khu vực, vì năng và sở đối lập, căn và cảnh đối nhau, thảy đều giả lập(15), cho nên không thật có. 2) Các pháp năm uẩn thì không có sự đối lập về năng sở, vào thẳng tự tánh của các pháp mà phân loại, cho nên thật có. Các giáo nghĩa khác thì cũng giống như Đại Chúng bộ.
Sau nữa, vào buổi mạt kì của 200 năm sau ngày Phật diệt độ, chư tăng của Đại Chúng bộ phần nhiều cư trú ở núi Chế đa(16), nhân khơi lại “năm việc của Đại Thiên” mà dẫn đến chỗ tranh luận; rồi phân rẽ làm ba bộ phái, là Chế Đa Sơn bộ, Tây Sơn Trú bộ và Bắc Sơn Trú bộ. Yếu lược giáo nghĩa của các bộ phái mới ấy như sau:
6. Chế Đa Sơn bộ 7. Tây Sơn Trú bộ 8. Bắc Sơn Trú bộ: (17) Trong ba bộ phái này, bộ phái có cách biện luận ưu thắng, và vẫn ở chỗ cũ, gọi là “Chế Đa Sơn”. Hai bộ phái còn lại, bộ phái dời chỗ ở sang phía Tây núi thì gọi là “Tây Sơn Trú”; dời sang phía Bắc núi thì gọi là “Bắc Sơn Trú”. Về giáo nghĩa của ba bộ phái này, đều chủ trương ngã không thật có, các pháp quá khứ và vị lai cũng không thật có; chỉ có các pháp hiện tại là thật có; phần nhiều những giáo nghĩa khác cũng giống như Đại Chúng bộ.
Đại Chúng bộ, sau ngày đức Phật nhập diệt 200 năm, từ buổi sơ kì cho đến buổi mạt kì, đã phân rẽ tổng cộng là tám bộ phái, và kể luôn bộ phái gốc, tất cả là chín bộ phái. Tình hình ấy được trình bày thành đồ biểu sau đây:
CHÚ THÍCH
01. Các pháp thuận theo mê tình phàm tục, cho nên gọi là “tục”. Sự tướng của chúng, đối với thế tục thì thật có, cho nên gọi là “đế”. Tất cả sự vật trong thế gian, cùng ý nghĩa của chúng, đều gọi là “tục đế”, cũng gọi là “thế đế”, hay “thế tục đế”, “phú đế”.
02. Lí tánh chân thật do thánh trí thấy rõ, không hư vọng nên gọi là “chân”; lí của nó là quyết định, không giao động, nên gọi là “đế”. Phàm tu tập các pháp xuất thế gian, và những cảnh giới chứng thực, đều gọi là “chân đế”, cũng gọi là “đệ nhất nghĩa đế”, hay “thắng nghĩa đế”.
03. Tất cả các hành, không lúc nào là không ở trong các trạng thái sinh, trụ, dị, diệt; cho nên các hành đều là vô thường.
04. Trong tất cả các pháp hữu vi cũng như vô vi đều không có thật thể của ngã; cho nên trong các pháp đều không có ngã.
05. Trong cảnh giới niết bàn, tất cả những nỗi khổ sinh tử đều tiêu diệt, hoàn toàn vô vi an lạc; cho nên niết bàn là tịch tịnh. Các hành vô thường, các pháp vô ngã, và niết bàn tịch tịnh vừa nói trên, là “ba pháp ấn tiểu thừa”. Tất cả những gì phù hợp với ba nguyên tắc đó, thì đúng là chánh pháp của Phật; như ấn tín ở thế gian là dùng để chứng minh, vì vậy mà gọi là “pháp ấn”.
PHỤ CHÚ
(01) Đại Chúng bộ (Mahasanghika dịch âm là Ma ha tăng kì bộ): Theo các sách Đại Đường Tây Vực Kí, Tam Luận Huyền Nghĩa và Tông Luân Luận Thuật Kí, ngay trong kì kết tập kinh điển đầu tiên, ba tháng sau ngày đức Thế Tôn diệt độ, đã có hai nơi kết tập khác nhau, gọi là “Quật nội” và “Quậtngoại”. Ở Quật nội, đa phần là chư vị tì kheo kì lão, gọi là “Thượng Tọa bộ”; ở Quật ngoại, đa phần là chư vị tì kheo niên thiếu, gọi là “Đại Chúng bộ”. Tuy là có Quật nội và Quật ngoại, nhưng tăng chúng hai nơi vẫn hòa hợp, không có điều gì tranh luận, không có chủ trương riêng khác. Theo các bộ luật Thiện Kiến, Ngũ Phần và Tứ Phần, sau ngày Phật diệt độ 100 năm, do sự vận động của trưởng lão Da Xá, 700 vị tì kheo trưởng lão đã họp đại hội tại thành Tì xá li, trước khi khởi sự kết tập kinh điển kì 2, đã đồng thanh phủ quyết “mười việc” (liên quan đến giới luật) do nhóm tì kheo thuộc tộc Bạt kì đề xướng; đó là “mười việc phi pháp”, rất nổi tiếng trong lịch sử Giáo hội Phật giáo. Từ đó mà giáo đoàn đã thực sự phân rẽ thành hai bộ phái căn bản: Quí vị trưởng lão quyết giữ y giới luật nguyên thỉ, chống lại “mười việc” của nhóm tì kheo tộc Bạt kì, tập hợp thành Thượng Tọa bộ; quí vị tì kheo có tinh thần cấp tiến, đông đảo hơn, tán đồng “mười việc” của nhóm tì kheo tộc Bạt kì, tập hợp thành Đại Chúng bộ; các sách sử gọi đây là cuộc “phân liệt căn bản” của Phật giáo. Sau đó lại nẩy sinh những xung đột ý kiến chung quanh năm giáo nghĩa mới, được gọi là “năm việc” (nhằm nêu lên tính chất bất toàn của vị A la hán), thì sự phân rẽ giữa Thượng Tọa bộ và Đại Chúng bộ mới trở nên quyết liệt. Hai bộ phái có chủ trương riêng rõ rệt, không thỏa hiệp.
Sự phân rẽ giữa hai bộ phái đã thật sự trở nên trầm trọng dưới thời đại vua A Dục. Hai bên đã li khai nhau và lập căn cứ hành đạo riêng. Đại Chúng bộ đặt căn cứ tại hai nước Ma kiệt đà và Ương già (Anga) ở vùng Trung Ấn; sau tiến dần xuống Nam Ấn, đặt cứ điểm tại Án đạt la (Andhara). Theo chủ trương của Đại Chúng bộ, trước hết, tính chất của A la hán là bất toàn, vẫn còn nhân gian tính, vẫn còn tâm hoài nghi đối với thánh đế, chưa đạt đến tuệ giác siêu việt, bởi vậy, quả vị A la hán không phải là quả vị lí tưởng; chỉ có Phật mới đạt được tuệ giác siêu việt, rốt ráo giải thoát, và Phật quả mới là quả vị lí tưởng. Đại Chúng bộ cho rằng, tất cả chư Phật là xuất thế gian; sắc thân, oai lực và thọ mạng của Phật là vô biên; tất cả lời Phật dạy đều là chuyển pháp luân, đều vì lợi ích chúng sanh, vì vậy, ngoài ba tạng Kinh Luật Luận, còn chấp nhận có Tạp tạng, Cấm Chú tạng và Bồ Tát tạng. Đại Chúng bộ cũng rất kính ngưỡng công đức thanh tịnh thắng diệu và thệ nguyện độ sinh rộng lớn của hàng Bồ tát. Theo Đại Chúng bộ, các pháp quá khứ và vị lai đều không có thật thể, chỉ có pháp hiện tại là có thật; bởi vậy, gốc của vạn pháp là “không”, và “không” chính là Phật tánh, là niết bàn; tâm tính của con người xưa nay vốn thanh tịnh, nhưng vì phiền não vọng động làm cho nhiễm ô. Chúng ta có thể thấy, các tư tưởng này đã là tiền đề cho tư tưởng đại thừa về sau này.
Kinh điển truyền thừa của Đại Chúng bộ, ngoại trừ Ba Tạng tiểu thừa, còn có cả các kinh Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Thắng Man, Duy Ma, Kim Quang Minh, Bát Nhã (là những kinh điển đại thừa). Đại Chúng bộ cũng cho rằng, trong Ba Tạng thì Kinh và Luật là phương tiện, tùy cơ, tùy lúc, tùy nơi mà nói; vì vậy, chỉ đặc biệt chú trọng Luận tạng, lấy sự tinh chuyên nghiên cứu tới chỗ sâu thẳm tột cùng của chánh trí làm pháp yếu. Nói cách khác, bộ này chủ trương phát huy trí tuệ, vì chỉ có trí tuệ mới tận diệt phiền não, chứng quả bồ đề một cách nhanh chóng.
(02) Nhất Thuyết bộ (Eka vyavaharika): Sau khi Đại Chúng bộ được thành lập không bao lâu, một số vị trong đó đã không đồng ý với chủ thuyết căn bản “Hiện tại là chân thật, quá khứ và vị lai không thật có” của Đại Chúng bộ, bèn tách ra thành lập một bộ riêng, chủ trương rằng, “Tất cả các pháp đều không có thật thể, chỉ có duy nhất cái giả danh”; vì vậy mà gọi là “Nhất Thuyết bộ”, cũng gọi là “Chư Pháp Đản Danh tông” (các pháp chỉ có giả danh). Tông này chủ trương, tất cả các pháp thế và xuất thế gian, hữu lậu cũng như vô lậu, đều chỉ có cái giả danh, không hề có thật thể có thể nắm bắt được. Do đó, chủ thuyết của bộ phái này được coi là tương đương với giáo nghĩa “vạn pháp giai không” của hệ Bát Nhã.
(03) Pháp thế gian và pháp xuất thế gian: Pháp thế gian là tất cả các pháp có tình thức và không có tình thức trong ba cõi. Các pháp này đều do hoặc nghiệp, nhân duyên sinh ra, biến chuyển vô thường. Tất cả các pháp thế gian đều làm cho chúng sinh lưu chuyển mãi trong vòng sinh tử luân hồi, cho nên chúng là “pháp hữu lậu”. Trong Bốn Sự Thật thì khổ và nguyên nhân của khổ (tập) thuộc về pháp thế gian. Trong tất cả các pháp thế gian, có tám thứ được đặc biệt gọi là “tám pháp thế gian” (bát thế gian pháp, hay bát pháp): 1) Những gì có lợi ích cho mình (lợi); 2) Những gì gây tổn hại cho mình (suy); 3) Những lời chê bai, hủy báng mình (hủy); 4) Danh tiếng của mình trong xã hội (dự); 5) Những lời tán dương, ca tụng trước mặt mình (xưng); 6) Những lời khiển trách, chỉ trích, nhục mạ mình (cơ); 7) Những duyên xấu, những nghịch cảnh làm cho mình khổ đau (khổ); 8) Những duyên tốt, những thuận cảnh làm cho mình vui thích (lạc). Tám pháp này luôn luôn làm lay động lòng người, khiến khởi lên mừng, giận, thương, ghét v.v...; cho nên thuật ngữ Phật học gọi chúng là “tám ngọn gió” (bát phong).
Đối lại với “pháp thế gian” là “pháp xuất thế gian”. Đó là các pháp siêu việt khỏi thế gian, không còn bị ràng buộc bởi các pháp hữu lậu; là các pháp vô lậu, giải thoát niết bàn. Phật pháp có công năng diệt trừ hoặc nghiệp, đưa chúng sinh thoát khỏi ba cõi sinh tử; cho nên Phật pháp chính là pháp xuất thế gian. Do đó, trong Bốn Sự Thật, thì tịch diệt (diệt) và pháp môn tu tập (đạo) thuộc về pháp xuất thế gian.
(04) Giả danh: Chữ “giả” ở đây có nghĩa là không có thật thể, không tự có, phải nhờ các duyên khác hợp lại mà có. Vạn sự vạn vật vốn không có tên (danh), mà tên do con người đặt ra để phân biệt vật này với vật khác, việc nọ với việc kia; cho nên gọi là “giả danh”. Lại nữa, vạn sự vạn vật vốn không thật có, một sự vật là do các sự vật khác hợp lại mà sinh ra; tức là, sự có mặt của một sự vật trong thế gian là nhờ mượn những sự vật khác không phải là nó, kết hợp lại mà thành ra nó; cho nên gọi là “giả danh”.
(05) Thật thể: Chữ “thật” ở đây có nghĩa là không bị nhân duyên chi phối, không sinh không diệt, siêu việt khỏi thế giới khái niệm của ý thức phàm phu. “Thật thể” là thể tánh chân thật của vạn pháp. Thể tánh chân thật ấy hoàn toàn tịch tịnh, không bị nhân duyên chi phối, không sinh không diệt, không thêm không bớt, chỉ có trí tuệ giác ngộ của chư Phật mới chứng nghiệm được. Bởi vậy, cái “thật thể” ấy, không thể dùng trí phàm để nghĩ ngợi, không thể dùng lời nói để trình bày, không thể dùng ý thức để biết; ngay cả tên gọi “thật thể” cũng chỉ là giả danh. Những gì chúng ta thấy có thấy không, thấy còn thấy mất, thấy nhỏ thấy lớn, thấy tốt thấy xấu, thấy cao thấy thấp, v.v... đều là “hiện tượng” của vạn pháp, do nhân duyên mà thành, do ý thức phân biệt của phàm phu mà có; không phải là thật thể.
(06) Thuyết Xuất Thế bộ (Lokottara vada): Cùng trong khoảng thời gian Nhất Thuyết bộ được thành lập và tách khỏi Đại Chúng bộ, Thuyết Xuất Thế bộ cũng được thành lập và cũng tách khỏi Đại Chúng bộ.
Bộ phái này chủ trương tất cả các pháp thế gian đều không có thật thể, chỉ có giả danh. Pháp thế gian do sự điên đảo khởi ra; từ điên đảo mà sinh ra phiền não, do phiền não mà gây nghiệp, do nghiệp mà kết thành quả báo, tất cả đều hư vọng, không chân thật. Vì vậy, tất cả pháp thế gian đều chỉ là giả danh; trong khi đó, tịch diệt (diệt) và các pháp môn tu tập (đạo) thuộc pháp xuất thế gian, cho nên đều là chân thật. Pháp sư Khuy Cơ gọi bộ phái này là “Tục Vọng Chân Thật tông” (tục đế là vọng, chân đế là thật). Có thuyết nói rằng, nguyên thỉ, Thuyết Xuất Thế bộ và Kê Dận bộ (xin xem phụ chú số 11 ở sau) chỉ là một bộ phái. Vì Kê Dận bộ chủ trương tất cả các pháp hữu lậu của thế gian đều là giả, và chỉ trú trọng đến các pháp vô lậu xuất thế gian của Phật mà thôi, cho nên nó cũng được gọi là “Xuất Thế bộ”. Về sau, nhân vì chủ thuyết này dần dần có chỗ biến hóa, Xuất Thế bộ (tức Thuyết Xuất Thế bộ) bèn tách riêng ra thành một phái độc lập.
(07) Mười tám khu vực (thập bát giới): (Xin xem bài 6 ở trước; và xem lại phụ chú số 5, bài 12, sách GKPH I.)
(08) Tục đế và chân đế: tức là hai loại sự thật (nhị đế). Chữ “đế” nghĩa là sự thật, lí chân thật, tức chân lí. Nhưng có hai loại sự thật: loại sự thật theo cái thấy thế gian, gọi là “tục đế”, và loại sự thật theo cái thấy xuất thế gian, gọi là “chân đế”.
a) Tục đế: Chữ “tục”, theo nghĩa thông thường là thói quen của mọi người trong xã hội (phong tục), là tầm thường, không trang nhã (thô tục), nông cạn, hời hợt (tục tử), cõi trần (tục lụy). Trong Phật giáo cũng thường dùng chữ “tục” với những ý nghĩa thông thường này, nhưng đặc biệt ở đây, trong thuật ngữ “tục đế”, ý nghĩa của nó sâu xa hơn. Những gì thuộc trong phạm vi thế gian đều phải bị sinh diệt, nên gọi là “tục”; tất cả các pháp do nhân duyên sinh thành, đều là “tục” (tức là giả, không thật có); tất cả những pháp đối đãi nhau (như tốt xấu, lớn nhỏ, sinh diệt, v.v...) đều phát sinh từ ý thức phân biệt, từ khái niệm (khuôn mẫu có sẵn trong tư tưởng), cho nên đều là “tục”; do vô minh mà bản tính chân thật của vạn pháp bị che lấp, nên gọi là “tục”; thế gian không biết, không thấy rõ thật tướng của vạn pháp, nên gọi là “tục”. Bởi vậy, “tục đế” có nghĩa là sự thật tương đối, sự thật do phân biệt, khái niệm mà có, sự thật theo sự thấy biết thông thường, nông cạn, hạn hẹp của thế gian. Do ý nghĩa đó, thuật ngữ “tục đế” trong Phật học cũng được gọi là “thế tục đế”, hay “thế đế”.
b) Chân đế: Chữ “chân”, theo nghĩa thông thường của thế gian, là đúng thật (chân ảnh), ngay thẳng (chân chính), mộc mạc thật thà (chân chất), không giả dối (chân thật), không trá ngụy, lừa đảo (chân tình). Trong Phật giáo cũng dùng chữ “chân” với những ý nghĩa thông thường đó, nhưng ở đây, trong thuật ngữ “chân đế”, nó có ý nghĩa sâu xa hơn. “Chân” nghĩa là không thuộc phạm vi của thế gian, là các pháp vô vi không sinh diệt, không bị nhân duyên chi phối, vượt ra ngoài thế giới khái niệm, không thể nghĩ ngợi, không thể nói năng, v.v...; tức là hoàn toàn trái ngược với chữ “tục” ở trên. Bởi vậy, “chân đế” là sự thật tuyệt đối, vượt khỏi khái niệm, phân biệt, sự thật theo cái thấy bằng tuệ giác siêu việt của bậc xuất thế gian. Do từ ý nghĩa đó, thuật ngữ “chân đế” trong Phật học cũng được gọi là “thắng nghĩa đế”, hay “đệ nhất nghĩa đế”.
Giáo lí về “hai sự thật” tương đối (tục đế) và tuyệt đối (chân đế) này, trong kinh điển nguyên thỉ (A Hàm) ít đề cập đến (chỉ trong kinh Trung A Hàm có một lần nhắc đến từ “chân đế”, nhưng không có từ “tục đế”; và trong kinh Tăng Nhất A Hàm có một lần nhắc tới từ “nhị đế” nhưng nội dung không rõ ràng), mà phần nhiều chỉ nói đến “bốn sự thật” (khổ, tập, diệt, đạo). Trong khi đó, ở các bộ luận tiểu thừa như Câu Xá, Thành Thật, Đại Tì Bà Sa, v.v... không những hai từ “chân đế” và “tục đế” được nêu lên, mà còn nói rõ ý nghĩa, cùng đưa những ví dụ cụ thể. Còn trong các kinh luận đại thừa, kiến giải về “hai sự thật” rất là phong phú và sâu sắc. Đặc biệt, tông Tam Luận đã khai triển giáo lí “hai sự thật” này thành một phương pháp tu tập quán chiếu gồm có bốn lớp, – gọi là “tứ trùng nhị đế” – nhằm đả phá lối nhận thức thực tại bằng khái niệm, bằng ý thức phân biệt, so sánh, đối đãi (tức tục đế); bởi vì, nhận thức theo cách này thì không thể nào thấy rõ được thật tướng của vạn pháp (tức chân đế). Theo phương pháp tu tập này của tông Tam Luận, sự thật tương đối bao giờ cũng phải bị phủ nhận, phá đổ, cho đến khi hành giả đạt đươc sự thật tuyệt đối, tức là sự chứng ngộ về bản chất chân thật của thực tại vạn hữu bằng CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO, tức là siêu việt khỏi khái niệm. Phương pháp ấy có bốn lớp như sau:
Lớp thứ nhất: Tất cả mọi người trong thế gian đều cho rằng, mọi sự vật trước mắt đều “có thật” (hữu). (“Có thật” là sự thật tương đối, tức tục đế.) Nhưng hành giả tu tập thì thấy rằng, mọi sự vật tuy là có, nhưng đều do nhân duyên hòa hợp mà có, tự chúng không có bản tính chân thật, tức là “không” (không). (“Không” là sự thật tuyệt đối, tức chân đế.) Nhưng, nếu cái thấy “không” của hành giả lại trở thành một khái niệm “không” để đối lập với khái niệm “có”, thì:
Lớp thứ nhì: Hai khái niệm “có” và “không” đã trở thành cái thấy nhị nguyên “có, không” (hữu không), và đó là sự thật tương đối. Cái thấy này phải bị phá đổ để tiến tới sự thật tuyệt đối, tức thấy rằng: Mọi sự vật là “không phải có, không phải không” (phi hữu phi không); có và không chỉ là hai mặt của cùng một thực tại. Nhưng nếu cái thấy “không phải có, không phải không” lại trở thành một khái niệm để đối lập với khái niệm “có, không”, thì:
Lớp thứ ba: Cả “có, không” và “không phải có, không phải không” đều trở thành sự thật tương đối, phải bị phá đổ để tiến tới cái thấy: Mọi sự vật là “không phải không phải có, không phải không phải không”, là sự thật tuyệt đối. Lại nữa, nếu cái thấy “không phải không phải có, không phải không phải không” lại bị khái niệm hóa, thì:
Lớp thứ tư: Cả “có, không”, “không phải có, không phải không” và “không phải không phải có, không phải không phải không” đều trở thành sự thật tương đối, phải bị phủ nhận để tiến tới cái thấy: Mọi sự vật “không phải không phải chẳng có, không phải không phải chẳng không”, là sự thật tuyệt đối...
Sự phủ nhận như trên sẽ dần dần đưa đến chỗ không thể dùng lời nói để diễn đạt, không thể dùng trí năng để suy nghĩ, tức là hoàn toàn siêu việt khỏi mọi khái niệm, mọi vọng tưởng phân biệt để thấy rõ được chân diện mục của thực tại. Phương pháp quán chiếu này có năng lực phá trừ mọi chấp trước và hiển thị con đường trung đạo, đạt được đạo quả giác ngộ ngay trong đời sống hiện tại.
(09) Đạo: Thông thường, về ý nghĩa cụ thể, “đạo” là đường đi, con đường đưa người ta đi đến một nơi chốn nào đó. Về ý nghĩa trừu tượng, “đạo” là lẽ phải mà mọi người cùng theo đó mà sống và cư xử với nhau, như nói “đạo lí, đạo đức”. Chữ “đạo” cũng được dùng để chỉ cho tôn giáo, tín ngưỡng, giúp cho con người thăng tiến về tâm linh, như đạo Phật, đạo Khổng, v.v...; đặc biệt nó được người Trung hoa dùng để chỉ cho Lão giáo, như nói “Đạo giáo” (đạo Lão), “Đạo gia” (những người sùng bái Lão Tử). Trong Phật giáo, chữ “đạo” mang những ý nghĩa thật quan trọng. Theo luận Câu Xá, “đạo” là con đường thông đến niết bàn, là chỗ nương tựa của những ai cầu được quả vị niết bàn; hay nói cách khác, đó là những pháp tắc tu hành nhằm đạt đến mục đích cuối cùng của Phật giáo là thành Phật. Trong luận Đại Trí Độ, chữ “đạo” còn được quảng diễn rộng thêm nữa: Đó là con đường dẫn đến quả báo Người và Trời, cùng ba quả vị trên nữa là Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát; tất cả là bốn thứ đạo. Đạo của Người và Trời là bố thí và mười điều lành, cầu được an vui hạnh phúc ở thế gian; đạo của Thanh văn và Duyêngiác là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, cầu quả vị niết bàn; đạo của Bồ tát là ba mươi bảy phẩm trợ đạo và sáu pháp qua bờ, cầu quả vị Phật đà. Lại nữa, chữ “đạo” còn dùng để chỉ cho các quả báo cá biệt trong ba cõi mà chúng sanh phải lãnh thọ tùy các nghiệp nhân thiện ác đã tạo ra; tất cả có sáu đạo (lục đạo): Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỉ, và Địa ngục. Các bộ Luận và các tông phái còn quảng diễn nhiều chi tiết về chữ “đạo”, nhưng có thể tóm tắt vào ba yếu nghĩa như sau:
1) “Đạo” là các cảnh giới khổ vui trong ba cõi, mà chúng sanh thường lui tới (luân hồi) tùy theo nghiệp ác hay thiện đã tạo tác. Thiện nghiệp thì dẫn đến Thiên đạo, Nhân đạo, hoặc A tu la đạo; ác nghiệp thì dẫn đến Địa ngục đạo, Ngạ quỉ đạo, hoặc Súc sinh đạo. Đây gọi là hữu lậu đạo, hay thế gian đạo, hoặc thế tục đạo.
2) “Đạo” là tất cả các pháp môn có công năng đoạn trừ phiền não, đưa đến cảnh giới giác ngộ giải thoát; như bốn sự thật, tám nguyên tắc hành trì chân chính, mười hai nhân duyên, sáu pháp qua bờ, v.v... Đây gọi là vô lậu đạo, hay xuất thế gian đạo, hoặc thánh đạo.
3) “Đạo” tức là thể tính niết bàn, bồ đề hay chánh giác. Từ ý nghĩa này mà có các từ như: “đạo lực” là diệu dụng vô úy của trí tuệ giác ngộ; “đạo tâm”, tức “bồ đề tâm” là phát tâm tu hành để đạt được quả vị giác ngộ; “đạo nhãn” là con mắt trí tuệ thấy rõ chánh tà, chân ngụy, thật hư, cũng là cái thấy thông suốt ba đời, không có gì làm cho chướng ngại; “đạo nghiệp” là sự nghiệp giác ngộ, sự nghiệp hoằng dương chánh pháp hóa độ chúng sinh; v.v...
(10) Đạo quả: là thành quả giải thoát, niết bàn đạt được do công phu tu hành. Đạo quả của Thanh văn thừa là A la hán; đạo quả của Duyên giác thừa là Bích chi Phật; đạo quả của Bồ tát thừa là Diệu giác (Phật).
(11) Kê Dận bộ (Kurkutika): Cùng trong khoảng thời gian Nhất Thuyết bộ và Thuyết Xuất Thế bộ được thành lập và tách khỏi Đại Chúng bộ, Kê Dận bộ cũng được thành lập và tách khỏi Đại Chúng bộ. Bộ phái này chủ trương các pháp quá khứ và vị lai đều không có thật thể; tất cả chư Phật Thế Tôn đều là xuất thế gian, mỗi lời nói của Như Lai đều là chuyển pháp luân, Phật chỉ dùng một âm thanh mà nói tất cả pháp, tất cả những gì do Thế Tôn nói đều là “như”, sắc thanh của Như Lai thật là không bờ bến. Trong Ba Tạng thì bộ phái này chỉ chú trọng đến tạng Luận, và cho rằng, Kinh và Luật chỉ là giáo lí phương tiện do Phật nói ra nhằm đáp ứng từng căn cơ. Có thuyết nói rằng, tăng chúng của bộ phái này cư trú trong hang núi tên là Khôi sơn (trong núi này có loại đá có thể làm tro), cho nên Kê Dận bộ cũng được gọi là Khôi Sơn Trú bộ.
(12) Đa Văn bộ (Bahusrutiyah): là một bộ phái tách ra từ Đại Chúng bộ, sau Nhất Thuyết bộ, Thuyết Xuất Thế bộ và Kê Dận bộ khoảng ba thập kỉ. Tương truyền, từ thời đức Phật còn tại thế, có vị A la hán Yajna valkya (Tự Bì Y), vào núi Tuyết nhập định, nên không hay biết việc Phật nhập diệt. Đến khoảng 250 năm sau ngày Phật nhập diệt, ngài mới xuất định, rời núi Tuyết, đi đến Ương quật đa la (lúc đó là căn cứ địa của Đại Chúng bộ, ở phía Bắc thành Vương xá) để tìm bạn đồng tu. Thấy giáo nghĩa của Đại Chúng bộ chỉ nói lên phần cạn cợt mà không đạt tới pháp sâu xa của Ba Tạng, ngài bèn tụng đọc các giáo nghĩa sâu xa của Phật dạy; trong đó gồm có giáo nghĩa đại thừa. Người đương thời tin theo, ngài bèn lập thành một bộ phái riêng, gọi là Đa Văn bộ. Bộ luận Thành Thật là tác phẩm trứ danh của bộ phái này. Vì tư tưởng của Đa Văn bộ có mang ít nhiều ảnh hưởng của tư tưởng triết học Áo Nghĩa Thư (Upanisad), cho nên có thuyết lại nói rằng, trong thời đại Áo Nghĩa Thư của Ấn độ xưa, cũng có một triết gia tên Yajna valkya. Đa Văn bộ đã lấy vị triết gia này làm sáng tổ, nhưng vì muốn gây thế lực cho bộ phái, đã gán tên Yajna valkya ấy cho một vị A la hán thời Phật tại thế.
(13) Thuyết Giả bộ (Prajnapti vadin): Sau khi Đa Văn bộ được thành lập không lâu, từ Đại Chúng bộ lại tách ra một bộ phái nữa, gọi là Thuyết Giả bộ. Chủ trương của bộ phái này không giống với chủ trương của Thuyết Xuất Thế bộ (tất cả pháp xuất thế gian đều chân thật), lại cũng không giống với chủ trương của Nhất Thuyết bộ (tất cả pháp thế và xuất thế gian đều không chân thật, chỉ có giả danh); mà chủ trương rằng, các pháp thế hay xuất thế gian đều có một ít phần là giả. Tương truyền, khi đức Phật còn tại thế, tôn giả Đại Ca Chiên Diên (Kaccayana) đã từng tạo luận để phân tích, giải thích giáo pháp của Phật dạy. Đến khoảng 250 năm sau ngày Phật nhập diệt, tôn giả Đại Ca Chiên Diên đã từ hồ A nậu đạt (Anavatapta, trong vùng núi Tuyết) đến nước Ma kiệt đà, xuất hiện trong Đại Chúng bộ, xướng xuất chủ trương rằng, mười hai xứ và mười tám khu vực đều là giả danh, còn năm uẩn là chân thật; cứ theo đó mà phân biệt Ba Tạng thánh giáo. Những người tin theo chủ trương này, đã tự thành lập Thuyết Giả bộ (cũng gọi là Phân Biệt Thuyết bộ Vibhajya vandi), tách khỏi Đại Chúng bộ. Cứ theo thuyết này thì Thuyết Giả bộ là do đệ tử của tôn giả Đại Ca Chiên Diên hoằng dương. Do chủ trương “thế giới hiện thật một mặt là chân, một mặt là giả” của bộ phái này, đã diễn thành giáo nghĩa “hai mặt chân vọng” của thế giới quan đại thừa trong luận Đại Thừa Khởi Tín.
(14) Mười hai xứ. (Xin xem phụ chú số 5, bài 6 ở trước.)
(15) Giả lập: Các pháp được thành lập dựa vào nhân duyên, do tính biến kế hư vọng, không có tự thể chân thật, gọi là “giả lập”.
(16) Núi Chế đa (Caitya giri): cũng gọi là núi Chi đề, là một ngọn núi ở đảo quốc Tích lan (tên cũ là Ceylon, tên mới là Sri Lanka), nay tức là núi Mihintale, cách thành phố Anuradhapura (kinh đô thời cổ của Tích lan, tọa lạc ở miền duyên hải phía Đông bắc đảo Tích lan) khoảng 13 cây số về hướng Đông. Theo luật Thiện Kiến, vào khoảng giữa thế kỉ 3 Phật lịch, tôn giả Ma Thẩn Đà (Mahendra Mahinda, con của vua A Dục) đã vâng mệnh vua A Dục đến Tích lan hoằng truyền giáo pháp, và từng cư trú tại núi này. Vị quốc vương đương thời của đảo quốc là Thiên Ái Đế Tu (Devanampiyatissa) rất kính mộ, từng đến núi này nghe tôn giả thuyết giảng Phật pháp. Tôn giả đã xây chùa Chi đề sơn ngay trong núi này.
Sau đó không lâu, em gái của tôn giả là ni sư Tăng Già Mật Đa (Samghamitra), đã mang một nhánh cây bồ đề (chiết từ cây bồ đề mẹ ở Bồ đề đạo tràng, nơi đức Thế Tôn thành đạo) sang trồng tại chùa này. Từ đạo tràng Chi đề (tức Chế đa), hai anh em tôn giả đã hợp sức hoằng dương Phật pháp, dùng ngay ngôn ngữ Tích lan để giảng dạy Ba Tạng Ba li. Họ thành lập giáo đoàn gồm cả tì kheo và tì kheo ni, đặt nền móng vững chắc cho Phật giáo Thượng Tọa bộ tại Tích lan.
Tuy nhiên, không thấy có tài liệu nào nói rõ, núi Chế đa này có phải là nơi đã sản sinh ra bộ phái Chế đa sơn thuộc Đại Chúng bộ hay không. Mặc dù vậy, y cứ vào một số sử liệu, chúng ta có thể xác định, bộ phái Chế đa sơn đã được thành lập tại miền Nam Ấn độ, mà hoàn toàn không dính dáng gì tới núi Chế đa ở đảo quốc Tích lan. Trước hết, theo Đảo Sử (Dipavamsa) và Đại Sử (Mahavamsa), là các sách sử của Phật giáo Nam truyền, khoảng năm 236 Phật lịch, vua A Dục đã phái tôn giả Đại Thiên (Mahadeva) đến nước Ma hi ta mạn đà la (Mahimsaka mandala) để truyền giáo; trong khi đó, theo “Ma Nhai Pháp Sắc” (chương 13) của vua A Dục, nơi tôn giả Đại Thiên được vua A Dục phái đến truyền giáo là Án đạt la (Andhara). Mahimsaka mandala có thể là nước Đại án đạt la được thấy ghi trong Đại Đường Tây Vực Kí (quyển 10) của pháp sư Huyền Trang, nằm giáp ranh với nước Án đạt la về phía Nam. Ngày nay, nhìn vào bản đồ Ấn độ, chúng ta thấy có địa danh “Andhra” tức là tên chữ Phạn của “Andhara” vậy. Án đạt la, bao gồm cả Đại án đạt la, là một vùng lãnh thổ rộng lớn ở Nam Ấn độ, bao trọn hai con sông lớn Godhavari và Krishna; mà thành phố Amravati, ngày xưa đã từng là địa bàn quan trọng của Phật giáo Đại Chúng bộ, rồi tiếp đó là của Phật giáo đại thừa.
Thứ nữa, theo Phật Quang Đại Từ Điển ghi chép, trong sách Luận Sự Chú (Kathavatthuppakaranaatthakatha) của ngài Phật Âm (Buddhaghosa), có nói tới một bộ phái tên Án đạt la (Andhaka), đặt căn cứ địa tại xứ Án đạt la (Andhara) ở Nam Ấn độ. Bộ phái này gồm có 4 bộ phái nhỏ xuất hiện rất muộn: Đông Sơn Trú bộ, Tây Sơn Trú bộ, Vương Sơn Trú bộ, và Nghĩa Thành bộ. Các sách Đảo Sử và Đại Sử của Phật giáo Nam truyền có nói: “Sau khi 17 bộ phái phân rẽ trong 200 năm sau ngày Phật nhập diệt, đã sản sinh 6 bộ phái nữa, trong đó có Vương Sơn Trú bộ, Nghĩa Thành bộ, Đông Sơn Trú bộ, và Tây Sơn Trú bộ”. Trong Dị Bộ Tông Tinh Thích của ngài Thanh Biện (Bhavya) cũng có nêu ra bốn bộ phái thuộc Đại Chúng bộ là Đông Sơn Trú bộ, Tây Sơn Trú bộ, Vương Sơn trú bộ, và Nghĩa Thành bộ. Trong Dị Bộ Tông Luân Luận của ngài Thế Hữu có chép: “200 năm sau ngày Phật nhập diệt, Đại Chúng bộ có tì kheo Đại Thiên, cư trú tại núi Chế đa, cùng với tăng chúng thuộc Đại Chúng bộ, tranh luận về “Năm Việc Dư Sở Dụ v.v...”, đã đưa đến sự phân rẽ thành ra Chế Đa Sơn bộ, Tây Sơn Trú bộ và Bắc Sơn Trú bộ.”
Đem đối chiếu các sử liệu vừa nêu trên, ba bộ phái Vương Sơn Trú, Đông Sơn Trú và Tây Sơn Trú (được nêu trong Luận Sự Chú, Đảo Sử, Đại Sử và Dị Bộ Tông Tinh Thích) có thể xem là tương đương với ba bộ phái Chế Đa Sơn, Bắc Sơn Trú và Tây Sơn Trú (được ghi trong Dị Bộ Tông Luân Luận). Lại nữa, trong Đại Đường Tây Vực Kí (quyển 10) cũng có ghi: “nước Đại án đạt la, phía Đông kinh thành có núi Đông sơn; phía Tây kinh thành có núi Tây sơn; phía Nam kinh thành có núi Đại sơn; già lam có 20 ngôi; tăng đồ có hàng ngàn người, phần nhiều tu học theo giáo pháp Đại Chúng bộ.” Điều này cho thấy, núi Đại sơn có thể chính là Vương sơn trong Luận Sự Chú và Đảo Sử; và cũng là Chế đasơn trong Dị Bộ Tông Luân Luận. Chúng ta có thể nghĩ rằng, Thế Hữu là người nước Kiền đà la, ở phía Tây Bắc Ấn độ, cách Đại án đạt la ở phía Nam quá xa. Khi viết Dị Bộ Tông Luân Luận, ngài chưa từng đến xứ này, cho nên mới nói nhóm tì kheo dời về phía Tây núi Chế đa gọi là Tây Sơn Trú bộ, và nhóm tì kheo dời về phía Bắc núi Chế đa gọi là Bắc Sơn trú bộ. Vậy, dù không chắc chắn lắm, chúng ta cũng có thể tạm xác định: núi Đại sơn chính là núi Chế đa, nơi đã sản sinh ra Chế Đa Sơn bộ; núi Tây sơn là nơi đã sản sinh ra Tây Sơn Trú bộ; núi Đông sơn là nơi đã sản sinh ra Đông Sơn Trú bộ (mà Dị Bộ Tông Luân Luận gọi là Bắc Sơn Trú bộ); và tất cả đều nằm chung quanh kinh thành nước Đại án đạt la, là địa phận truyền giáo của tôn giả Đại Thiên dưới triều vua A Dục.
(17) Chế Đa Sơn bộ (Caitya vadin) Tây Sơn Trú bộ (Apara saila) Bắc Sơn Trú bộ (Uttara saila): Đầu thế kỉ thứ 3 Phật lịch, một vị sa môn ngoại đạo tên Đại Thiên (Mahadeva), đã theo về chánh đạo, xuất gia với Đại Chúng bộ. Ông là người bác học đa văn, hành trạng cao khiết, trú tại núi Chế đa (tức núi Vương sơn, hay Đại sơn – xin xem phụ chú số 16 ở trên, và phụ chú số 3, bài 17 ở trước) để giáo hóa đồ chúng. Núi Chế đa (Thập Bát Bộ Luận và Bộ Chấp Dị Luận gọi là núi Chi đề) lúc đó là đạo tràng quan trọng của Đại Chúng bộ. Bấy giờ, dưới sự hướng dẫn của Đại Thiên, tăng chúng lại đem “năm việc” lúc trước ra bình nghị trở lại. Nhân đó mà lại có sự bất đồng ý kiến, Đại Chúng bộ lại tách ra thành ba bộ phái mới nữa: Bộ phái vẫn trú tại núi Chế đa, gọi là Chế Đa Sơn bộ (Thập Bát Bộ Luận và Bộ Chấp Dị Luận đều gọi là Chi Đề Sơn bộ), tôn Đại Thiên làm khai tổ; hai bộ phái dời đi ở chỗ khác gọi là Tây Sơn Trú bộ và Bắc Sơn Trú bộ (hay Đông Sơn Trú bộ). Về giáo nghĩa, ba bộ phái mới này phần nhiều giống nhau, và đều giống với Đại Chúng bộ cũ; tuy nhiên, chuyện phân phái xảy ra là vì bất đồng ý kiến về “năm việc” (ngũ sự), cho nên, lập trường khác nhau giữa ba bộ phái này chỉ hạn hẹp trong vòng “năm việc” đó mà thôi. Ngoài ra, theo sách Tam Luận Huyền Nghĩa của đại sư Cát Tạng (549 623), nguyên nhân phân rẽ của ba bộ phái trên, ngoài “năm việc”, còn có vấn đề “đắc giới”; tức là vấn đề: “Nếu vị hòa thượng truyền giới là một người phá giới, không thanh tịnh, thì giới tử có được gọi là ‘đắc giới’ hay không.”
BÀI TẬP
1) Vào buổi sơ kì của 200 năm sau ngày Phật diệt độ, Đại Chúng bộ đã phân rẽ làm mấy bộ phái?
2) Quan niệm tổng quát của Nhất Thuyết bộ đối với các pháp như thế nào?
3) Vào buổi trung kì và mạt kì của 200 năm sau ngày Phật diệt độ, cả thảy có mấy bộ phái tách lìa khỏi Đại Chúng bộ?
4) Thế nào là tục đế và chân đế?
5) Ba pháp ấn của tiểu thừa là gì? Ý nghĩa của hai chữ “pháp ấn” là thế nào?
6) Giáo nghĩa chung của ba bộ phái Chế Đa Sơn, Tây Sơn Trú, và Bắc Sơn Trú là gì?