Bồ tát trước khi giải thoát tự lợi, chú trọng đem tâm từ bi làm lợi cho người. Do đó nói: “Khi chưa có khả năng tự độ, trước tiên phải độ người khác, đây là Bồ tát sơ phát tâm”. Sau khi chứng ngộ, họ càng nỗ lực cứu độ vô lượng chúng sinh.
1. Vấn đề được đặt ra
Mùa đông năm 1946, khi tôi đang sinh hoạt tại Viện Phật học Vũ án, lúc đó, ông La Vân Tiêu ở Hán Khẩu gửi cho tôi một bài viết với nội dung đề cập những nghi vấn về Phật pháp. Đây là bài viết mà ông chuẩn bị đăng trên một tạp chí; ông ngưỡng mộ Phật giáo, hi vọng tôi giải đáp cho những điều nghi vấn này, rồi sau đó sẽ đăng lên tạp chí. Người nghi vấn là một thiếu nữ sống trong gia đình có truyền thống học Phật, thường nghe Phật pháp từ người cha, đối với Phật pháp không có ác ý, chỉ là chưa đủ niềm tin mãnh liệt. Theo sự chia sẻ của cô, từ những gì được người cha dạy, cô cảm thấy Phật pháp rất vĩ đại, nhưng trong đó tồn tại một số vấn đề. Vấn đề lớn đó được chia ra khoảng hơn 20 ý nhỏ, có thể giải đáp, nhưng thật khó giải thích cụ thể. Tôi đã nhiều lần viện cớ đùn đẩy để trì hoãn giải đáp trong một khoảng thời gian dài. Gần đây, nghe tin ông La
Vân Tiêu đang ở Hồng Kông, sắp đến Đài Loan, làm tôi nghĩ đến việc của 7 năm trước, một công việc chưa hoàn thành.
Trong vấn đề này, liên quan đến từ bi làm lợi cho người, đại ý của nghi vấn như thế này:
“Tinh thần từ bi làm lợi ích cho người trong Phật giáo vô cùng vĩ đại, nhưng ai có khả năng làm lợi cho người? Và làm lợi cho người như thế nào? Trước hết nếu tự mình không giác ngộ triệt để, không giải thoát tự tại, thì không thể thực hiện việc này. Như vậy, trong giới Phật giáo có bao nhiêu người đạt được giác ngộ triệt để, được giải thoát tự tại? Nếu số người này chỉ chiếm số ít, vậy thì những người còn lại đều không đủ khả năng làm lợi cho người, chỉ mong tìm cầu lợi ích cho mình. Đây dường như là nguyên nhân cho rằng “Phật giáo luôn đưa ra khẩu hiệu từ bi làm lợi cho người, mà có ít ai thực hiện được‟!
Chỉ có người đã giác ngộ triệt để mới được giải thoát tự tại, có thần thông biến hóa, mới có khả năng phân biệt hiểu rõ căn cơ của chúng sinh, mới giải thoát sự trói buộc cho người khác; như Bồ tát Quán Thế Âm đại từ đại bi, nghe tiếng cầu cứu của chúng sinh liền đến cứu khổ. Thế thì việc thực hành từ bi làm lợi cho người của Phật giáo có thể nói là quá khó, quả thật chẳng phải việc của người bình thường!”.
Điều hoài nghi như vậy đương nhiên vốn không thỏa đáng lắm, nhưng cũng không phải do cô này cố ý làm xuyên tạc vấn đề, mà đó thật sự tiêu biểu cho suy nghĩ của một bộ phận Phật tử. May mắn thay, đây chỉ là một bộ phận, mà bộ phận này không phải những Phật tử thuần chánh của Phật giáo.
2. Thế nào là “Lợi‟?
Nói đến lợi cho người, trước hết nên hiểu rõ ý nghĩa của “Lợi” là gì? Lợi là lợi ích, lợi lạc; nghĩa là xa lìa hư vọng, xấu ác, thiếu thốn, khổ đau, mà đạt được chân thật, thiện mỹ, phong phú, an lạc. Làm lợi cho mình và lợi cho người thì chính mình và người đều đạt được lợi ích an lạc. Pháp thế gian, hễ có lợi tất có hại, có vui sẽ có khổ; tuy nó không được toàn thiện và triệt để nhưng vẫn có giá trị tương đối trong thế gian. Trong khi Phật pháp lưu truyền ở thế gian, vấn đề “Lợi‟ được Phật giáo đề cập, ngoại trừ đại lợi rốt ráo ( tức là sự giải thoát triệt ngộ) còn có lợi ích thông thường của thế gian.
Phật giáo xuất hiện ở thế gian khiến con người được “an lạc trong đời hiện tại, an lạc ở đời sau, an lạc do đạt giải thoát rốt ráo”. Chỉ có các vị Thanh văn các vị Tiểu thừa, mới thiên về “tìm lợi ích cho riêng mình”, chú trọng tìm an lạc giải thoát cho riêng mình. Bàn đến lợi ích cho người, không nên đi vào con đường mòn của Thanh văn, vì họ chỉ thiên về lợi ích riêng, chỉ chú trọng lợi lạc của sự giải thoát tự tại. Nếu bỏ qua “an lạc trong đời hiện tại”, thì chính mình thu hẹp nội dung của Phật giáo, tự mình rời bỏ nhân gian, khó trách người trong xã hội hiểu lầm!
Về lợi ích cho người, có hai loại lớn:
Đem vật chất làm lợi cho người, gọi là tài thí: Khi thấy người sống thiếu tốn, lạnh lẽo, liền đem thức ăn áo quần đến trợ giúp. Thấy người bệnh tật thì trợ giúp cho thuốc men trị liệu.
Sửa chữa đường xá, khai khẩn đất hoang v.v., dùng sức lực hoặc sinh mạng của chính mình để cứu trợ giúp đỡ người khác.
Đem tinh thần làm lợi cho người, gọi là pháp thí: em đến tri thức cho người thiếu hiểu biết, sự an ủi cho những ai đang ưu sầu khổ não, khích lệ chúng sinh đang bị khiếp nhược sợ sệt; làm tất cả công việc văn hóa khiến tâm người hướng thượng, hướng đến trí huệ sáng suốt, hướng đến trung đạo, hướng đến lẽ thường, và an ổn. Đó không chỉ là giáo hóa dẫn dắt để hướng đến pháp xuất thế ; mà còn đem Chánh pháp thế gian giáo hóa dẫn dắt, nuôi dưỡng hoàn thiện nhân cách con người. Việc đề cao nhân cách đạo đức, tri thức và năng lực sẽ làm bước đệm cho pháp xuất thế gian.
Đương nhiên, pháp thí triệt để hơn tài thí. Tài thí cứu trợ, giúp đỡ người thiếu thốn khổ sở về áo quần, ẩm thực; việc này chỉ mang tính chất tạm thời, chỉ giải quyết được phần ngọn. Còn đem Chánh pháp khởi phát chuyển hướng họ, giảng dạy tri thức kỹ năng, tạo công ăn việc làm cho họ (trừ trẻ em, người cao tuổi và người tàn tật); tức là bằng công việc chính đáng tự họ giải quyết vấn đề trong cuộc sống; việc cứu giúp này có tác dụng thiết thực hơn nhiều so với sự cứu giúp tạm thời.
Trong Phật pháp, pháp thí hướng đến xuất thế gian vượt trội pháp thí thế gian, pháp thí thiết thực hơn tài thí, nhưng không thể không cần đến tài thí và pháp thí thế gian. Nếu như chỉ lấy sự giải thoát tự tại làm lợi ích thôi, đây quả thật là sự hiểu sai căn bản về Phật pháp.
Nếu căn cứ các khía cạnh pháp thí thuộc xuất thế gian, hay việc khiến người được giải thoát để bàn luận, điều đó cũng không giống sự sai lầm trong các tưởng tượng thông thường. Giải thoát, nếu muốn giải thoát thì phải tu tập hành trì. Hành giả Tiểu thừa mới bắt đầu phát tâm xuất ly, tức là gieo trồng hạt giống giải thoát, sau đó tuỳ thuận tu học, dần dần thành thục; cuối cùng mới chứng ngộ đạo lý chân thật, đoạn trừ phiền não mà đạt được giải thoát. Còn hành giả đại thừa mới phát tâm Bồ đề, tức là trồng hạt giống Bồ đề, trải qua thời gian dài tu tập mới thành thục, mới được rốt ráo thành Phật.
Như vậy, đại thừa với Tiểu thừa đều phải trải qua quá trình từ “gieo trồng hạt giống” đi đến “thành thục” cuối cùng đạt được “giải thoát”. Do đó, dùng pháp xuất thế giáo hóa không phải chỉ là khiến người khác ngay hiện tại đạt được giải thoát tự tại, mới là làm lợi cho người. Vậy khiến người khác “gieo trồng hạt giống”, đi đến “thành thục”, đó không phải làm lợi cho người sao? Khiến người khác đạt được giải thoát ở hiện tại trong khi tự mình không đạt được giải thoát, đó là điều không thể (cũng có trường hợp tự mình chưa được giải thoát mà có khả năng khiến người khác đạt được giải thoát). Nhưng khiến người khác đạt được lợi ích từ việc “gieo trồng hạt giống” và “thành thục”, mặc dù bản thân mình chưa từng được lợi ích từ sự “giải thoát”, thì điều này hoàn toàn có thể thực hiện.
Do đó, kinh Niết bàn dạy: “Người còn nhiều phiền não nhưng nếu họ hiểu được một phần nghĩa lý chân thật của Phật pháp thì có khả năng làm nơi y chỉ (làm thầy) cho người khác.” Nếu người hiểu được nghĩa lý chân thật của Phật pháp mà không thuyết giảng đem lợi ích an lạc hiện tại cho người khác, ngay cả chỉ chuyên bàn luận an lạc của giải thoát, cũng nhất định không phải trường hợp “bản thân mình trước tiên không giác ngộ triệt để mà khiến người giác ngộ triệt để, điều này không thể”. Chẳng qua người thật sự giải thoát tự tại thì năng lực làm lợi ích cho chúng sinh càng sâu sắc, càng rộng lớn hơn mà thôi.
Người đưa ra nghi vấn này đã căn cứ vấn đề “người chưa giác ngộ triệt để thì không thể làm lợi ích cho người‟, điều hoài nghi này vốn không phải là vấn đề to lớn. Có thể một bộ phận đệ tử Phật quá cường điệu cái lợi ích giải thoát tự tại trong hiện tại, xướng khởi quan niệm “chưa làm lợi cho mình thì không thể làm lợi cho người”. Cuối cùng, bản thân không được lợi ích (của giải thoát), vẫn chưa đạt được mà cũng không biết, lại hoàn toàn bỏ qua tất cả việc lợi ích cho người!
3. Đại thừa chú trọng lợi ích cho người
Mục tiêu chung của đệ tử Phật là tịnh hóa thân tâm, phát triển trí đức, từ trong sự giác ngộ triệt để mà bản thân được lợi ích của giải thoát tự tại. Sự khác nhau giữa pháp tu của Thanh văn và Bồ tát chỉ là chú trọng làm lợi cho mình, hoặc chú trọng làm lợi cho người, từ trong lợi người mà hoàn thành lợi cho mình.
Thanh văn không phải không có khả năng làm lợi cho người. Họ vẫn giữ gìn duy trì Phật pháp, làm lợi lạc cho người trời, độ thoát chúng sinh; chẳng qua họ chú trọng lấy giải thoát làm lợi cho mình. Trước khi chưa đạt được giải thoát, vì tâm quá yểm ly ngũ dục thế gian nên ít thích tu tập công đức lớn làm lợi cho người. Sau khi chứng ngộ, họ cũng chỉ giáo hóa tùy duyên, không mấy tích cực. Còn Bồ tát, trước khi bản thân được lợi ích của giải thoát, rất chú trọng đem tâm từ bi làm lợi cho người. Do đó nói: “Mình chưa có khả năng giác ngộ, trước tiên hết phải giúp người giác ngộ, đây mới là người phát tâm Bồ tát”. Sau khi chứng ngộ, họ càng nỗ lực cứu tế độ thoát vô lượng chúng sinh. Do vậy, tiêu chí của Thanh văn thừa thì chú trọng dùng trí huệ để chứng đắc, còn tiêu chí của Bồ tát thừa thì chú trọng đem tâm từ bi cứu tế chúng sinh.
Pháp tu của Bồ tát, trong Thánh điển thời sơ kỳ, hay thường gọi là Tam tạng của Thanh văn, cũng đề cập. Đó chính là những chuyện bổn sinh của Bồ tát (Bồ tát bổn sinh đàm).
Bồ tát, ở trong ba đại a tăng kỳ kiếp, từng làm quốc vương, vương tử, hoặc làm tể quan, hoặc ngoại đạo, nông dân, công nhân, thương nhân, bác sĩ, thuyền trưởng; hoặc các loại chúng sinh khác, như chim chóc thú vật. Bồ tát không tiếc tài vật, không tiếc thân mạng, vì lợi ích cho chúng sinh mà bố thí.
Trong cõi Diêm phù đề, không có nơi nào mà không có sự xả bỏ máu thịt xương tuỷ của Bồ tát. Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tu học tinh tấn, đó là bốn loại ba la mật của Bồ tát; hoặc sáu loại hoặc mười loại ba la mật. Đó đều là những việc lớn khó làm, được quy nạp trong các chuyện Bổn sinh
Việc tu tập tâm từ bi làm lợi ích cho người như thế đều là những việc trước khi Bồ tát chứng ngộ giải thoát, vậy ai nói Bồ tát chưa được lợi ích thì không có khả năng làm lợi cho người? Đến khi tu hành thành thục, dưới cội bồ đề, một niệm tương ưng trí huệ vi diệu, liền viên thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sự đốn ngộ thành Phật như thế do vì trong ba đại a tăng kỳ kiếp, Bồ tát tu tập từ bi làm lợi cho người mà đạt được. Điểm khác nhau cụ thể với Thanh văn là Bồ tát ở trong sinh tử trường kỳ không cầu giải thoát lợi ích cho mình, mà chú trọng tu tập từ bi làm lợi cho người. inh điển đại thừa thời kì đầu đề cập sự tu tập của Bồ tát trong ba đại a tăng kỳ kiếp có chút khác với những gì được trình bày trong Tam tạng của Thanh văn. đại thừa cho rằng các việc làm lợi cho người của Bồ tát trước khi chưa chứng ngộ là việc phải làm, việc làm thù thắng; mặc dù việc làm này rất khó thực hiện nhưng công đức vẫn không được rộng lớn. Sau khi triệt ngộ chứng chân (tức đắc Vô sinh pháp nhẫn), liền trang nghiêm Tịnh độ, thực hiện các việc lớn lợi ích cho người, thành thục chúng sinh; công đức này lớn hơn rất nhiều. Bởi vì những việc này tương ưng với trí huệ chân thật, sự và lý dung hợp, bình đẳng vô ngại. đại thừa chia phương pháp tu của Bồ tát thành hai bậc: (1) Pháp tu Bát nhã, pháp tu của Bồ tát trải qua một đại a tăng kỳ kiếp, là pháp tu trước khi chứng ngộ, thuộc Sơ địa. Duy Thức tông gọi đây là giai vị Tư lương (Tư lương vị ), giai vị Gia hạnh (Gia hạnh vị giai vị kiến đạo) cũng gọi là Thắng giải hạnh địa. (2) Pháp tu sau khi đã chứng ngộ là pháp tu phương tiện (phương tiện đạo) của Bồ tát trải qua hai đại a tăng kỳ kiếp, tức là Bồ tát đăng địa; các nhà Duy Thức cho đó thuộc giai vị từ kiến đạo đến giai vị tu đạo. đại thể nói rằng Bồ tát Sơ địa, tuy có thắng giải mà chưa có hiện chứng, tư lương phước trí được tích tập rộng lớn vô biên; điều này gần với những gì được đề cập trong chuyện Bổn sinh. Còn Bồ tát đại địa đã hiện chứng pháp giới, như Bồ tát Quan  m v.v., dùng tâm từ bi phổ độ cứu tế chúng sinh, việc làm không thể nghĩ bàn. Một phần hạnh nguyện khác của Bồ tát ghi trong chuyện Bổn sinh là hóa thân của một giai đoạn này. Tuy có hai bậc lớn là chưa chứng ngộ và đã chứng ngộ; nhưng trước khi chứng ngộ, Bồ tát vẫn đem tâm từ bi làm lợi cho người, quyết không có một chút ý niệm nào tìm cầu giải thoát để lợi cho mình. Do vậy, căn cứ vào ý nghĩa căn bản của Bồ tát hạnh để thảo luận, người đưa ra chất vấn nghi ngờ trên hoàn toàn xuất phát từ hiểu biết sai lệch, nên căn bản không thành vấn đề. Bồ tát Quan Thế  m v.v., nghe tiếng cầu cứu khổ liền đến cứu giúp, là việc làm của Bồ tát đại địa; nhưng không phải hành giả Bồ tát sơ học ở thế gian không cần hành vi thực tiễn đem từ bi làm lợi cho người.
Chẳng qua một bộ phận đại thừa thuộc thời kì sau tự xưng là đại thừa tối cao trong đại thừa, Thượng thừa tối cao Thượng thừa, đốn ngộ viên mãn tối cao, là tối tôn tối thượng. Không còn là bậc căn khí chậm lụt mà là chóng thành tựu trong một ý niệm. Bấy giờ, các thuật ngữ với ý nghĩa cao siêu lưu hành rộng rãi như: “hoành xuất”, “đốn siêu”, “nhất sinh thủ biện”, “tam sinh viên chứng”, “tức thân thành Phật”, “tức tâm tức Phật” v.v.. “Sinh tử chưa dứt, đau khổ vô cùng”; “Sinh tử là việc lớn, vô thường đến nhanh chóng”, một loại trạng thái tâm yểm ly này của Thanh văn lại sục sôi trong tâm của hành giả đại thừa đốn ngộ viên mãn tối cao. Từ đó, xu hướng tịnh tu trong núi rừng được tán thán là pháp tu chân chánh của Bồ tát, mà không còn hướng đến “kinh đô thành ấp xóm làng‟ nữa.
Trong loại tư tưởng trên, điều hoài nghi của người nghi vấn tự nó cũng không thành vấn đề. Bởi vì tất cả công đức làm lợi cho người vốn đã thành tựu viên mãn, không cần phải hướng ngoại tìm cầu. Nếu như trong một niệm được chứng ngộ tức thì đầy đủ sáu ba la mật, công đức vô biên, một mảy may cũng không thiếu khuyết. ứng về phương diện lý luận hoặc tâm cảnh, đương nhiên cho đây hợp với đạo lý, lập luận có căn cứ. Nhưng trong con mắt bình thường của mọi người, cho rằng công đức làm lợi ích cho người của Bồ tát như vậy chỉ là nội dung trong tâm của tín đồ tôn giáo. Còn căn cứ biểu hiện trong thực tế, chỉ thấy lợi ích cho mình, chưa phải là lợi ích cho người, nên khó tránh khỏi người khác hoài nghi. Trong thời kì kháng chiến, sau chuyến đi thăm các nước ông Nam, đại sư Thái ư trở về phát biểu: “Giáo pháp ở phương Nam thuộc Tiểu thừa, nhưng hành vi lại thuộc Đại thừa; còn giáo pháp ở Trung Quốc thuộc Đại thừa, nhưng hành vi lại thuộc Tiểu thừa”. Quả thật vậy, giáo pháp ở phương Nam tuy là ba tạng của Thanh văn, nhưng vì mất đi tinh thần chân chánh của Thanh văn, nên hình như không còn tâm tha thiết yểm ly, chuyên tu thiền huệ để hướng về giải thoát. Thiếu đi tâm gấp rút cầu chứng ngộ, ngược lại chú trọng việc giáo hóa thế gian, chú trọng thực hiện công việc văn hóa và từ thiện. Còn ở Trung Quốc, không chỉ giáo pháp thuộc đại thừa tối thượng của đại thừa, mà sự tu trì đốn siêu trực nhập cũng là đại thừa tối thượng của đại thừa. Tự xưng đại thừa tối thượng của đại thừa, xác nhận là Phật giáo đại thừa nhưng lại sống bằng tinh thần của Thanh văn, tức là gấp rút tìm cầu lợi ích cho mình, cầu gấp rút chứng nhập. Bỏ đi tinh thần chân chánh của đại thừa là “đem tâm từ bi cứu giúp chúng sinh làm việc trước tiên‟, khi ấy, những việc cứu tế chúng sinh của đại thừa chỉ có thể nương vào lý huyễn hóa của duy tâm mà thôi!
4. Ở lâu trong sinh tử làm lợi ích cho chúng sinh
Người (Bồ tát) tu học theo Phật giáo đại thừa, nếu chưa chứng ngộ vẫn chưa có khả năng giải thoát tự tại, vậy ngay trong đêm dài sinh tử làm sao họ có thể tu tập? Không sợ thất bại hay sao? Nếu không có khả năng tự mình làm chủ, phải chăng giống với hàng phàm phu thường tình bị đọa ác đạo, hoặc sinh vào cõi trời Trường Thọ? Tự mình không biết bơi, làm sao cứu người bị nước cuốn? Không sợ mình bị cuốn trôi theo dòng nước hay sao? Một số người tu học chỉ chú trọng tín nguyện, mong cầu tín tâm không thoái chuyển; hoặc chú trọng sự chứng đắc bằng trí huệ, có khuynh hướng mong cầu nhanh chóng được giải thoát, cầu nhanh chóng thành Phật; những trường hợp đó đều không ra ngoài sự ảnh hưởng của nguồn tư tưởng này.
Đương nhiên, mình không biết bơi thì không thể nhảy xuống nước cứu người. Nhưng bản thân mình ở trên bờ thì làm sao cứu người bị nước cuốn trôi? Hàng Thanh văn mong cầu nhanh chóng chứng ngộ, giải thoát khỏi sinh tử, ngay khi tất cả phiền não đoạn trừ, tức thì “cách biệt với sinh tử‟, và lại không có khả năng phát tâm bồ đề, tức là không ở lâu dài trong sinh tử tu tập Bồ tát hạnh.
Tuy trong kinh điển đại thừa tiến đến còn kết luận rằng những vị Thanh văn này vẫn có thể bỏ Tiểu thừa hướng về đại thừa (hồi Tiểu hướng đại), nhưng họ bị chê trách là thuộc hàng “tiêu nha bại chủng‟ (hạt giống bị hư thối), phải mất bao nhiêu phương tiện giáo hóa, mới khiến họ hướng về đại thừa? Họ phải tiếp tục tu tập tín tâm đại thừa trong bao nhiêu kiếp mới lên đến giai vị Bồ tát? Giả sử họ hồi nhập Bồ tát thừa, do vì tập khí cầu lợi cho mình đã tích tập trong quá khứ khó thay đổi, cũng không được thuận lợi bằng người trực tiếp hướng đến đại thừa mà tinh tấn tu tập. Do đó, trong kinh đại thừa, sự thối thất tâm bồ đề bị cho là phạm giới trọng của Bồ tát; từ bi và nguyện lực không đủ mạnh sẽ rơi vào sự chứng đắc cầu lợi cho mình, nhất định đánh mất tâm bồ đề. Không chú trọng từ bi nguyện lực, không tích tập các loại công đức làm lợi cho người, mà nhất tâm nhất ý làm lợi cho mình, cho rằng có thể mau chóng thành Phật; thì thật sự đáng thương cho tinh thần chân chánh của đại thừa đã bị mai một!
Muốn cứu người bị chìm trong nước không thể đứng trên bờ mà cứu được. Còn muốn biết bơi thì phải ở trong nước học bơi mới được. Bồ tát phải ở lâu dài trong sinh tử để tu tập hạnh Bồ tát, tự nhiên phải học tập ở trong sinh tử, phải ở lâu dài trong sinh tử để có bản lĩnh làm lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sinh.
Bản lĩnh của Bồ tát ở lâu dài trong sinh tử để làm lợi ích cho chúng sinh, ngoài “tín nguyện kiên định” và “trưởng dưỡng từ bi” ra, điều quan trọng nữa là “liễu ngộ về tánh hông‟ (thắng giải Không tánh). Họ quán chiếu tất cả pháp như huyễn như hóa, hiểu được nó không có tự tánh, đạt được chánh kiến vô ngại nơi Thế tục đế và Thắng nghĩa đế, đó là điều cực kì quan trọng. Do đó, trong kinh dạy: “Dù ở trong thế gian, người có chánh kiến tăng thượng, tuy trải trăm ngàn đời, quyết không đọa vào đường ác”. Duy chỉ người thấu rõ được Sinh tử và Niết bàn đều là như huyễn như hóa, thì mới không giống như phàm phu luyến tiếc sinh tử; cũng không giống Tiểu thừa cho rằng “Ba cõi như lao ngục, sinh tử như oan gia” mà yểm ly thế gian, gấp rút cầu giải thoát khỏi nơi này. Đó mới có thể không như phàm phu lo sợ Niết bàn, mà có khả năng hiểu sâu công đức của Niết bàn; cũng không như Tiểu thừa cầu nhanh chóng đạt được Niết bàn.
Bơi lội ở trong sinh tử, do bởi tín nguyện và từ bi, đặc biệt là năng lực liễu ngộ tánh Không, mà họ dần dần trấn áp điều phục phiền não, cho dù phiền não còn hiện khởi chút ít nhưng có thể không bị nhiễu loạn. Họ chưa đoạn dứt phiền não, cũng không tạo nghiệp ác lớn, luôn luôn xem nỗi thống khổ của chúng sinh như của chính mình, lấy lợi ích an lạc của chúng sinh làm an lạc lợi ích của chính mình, ngã kiến mỗi ngày mỏng dần, từ bi ngày càng sâu dày, thì sợ gì đọa lạc? Chỉ có ai chuyên tính toán lợi ích cho bản thân thì lúc nào cũng lo sợ bị mất mát. Sự phát nguyện ở trong sinh tử, thường được thấy Phật, thường được nghe pháp, “đời đời thường thực hành pháp của Bồ tát”; đây là ý nghĩa chung của đại thừa thời kì đầu, cũng là ý nghĩa chung của hai tông Trung Quán và Du già. Trong kinh, đức Phật dạy: “Ta xưa kia hay thường trụ ở tánh Không, nên chứng được Vô thượng Chánh đẳng giác”. Điều này rất khác với Thanh văn, họ thường quán chiếu “Sinh tử là vô thường cho nên khổ‟, từ đó tâm sinh quá yểm ly thế gian. Kinh điển đại thừa chỉ rõ “Tất cả pháp đều Không”, khiến hành giả không trụ ở sinh tử, không trụ ở Niết bàn, tu tập hạnh
Bồ tát làm đại phương tiện thành Phật. Sự liễu ngộ về tánh Không này, hoặc gọi là “Thấy Không chân thật‟(Chơn không kiến), phải từ văn huệ và tư huệ mà tiến đến tu tập, lấy tín nguyện và từ bi để hỗ trợ cho thành tựu. Hãy luôn luôn ghi nhớ rằng “Hiện tại là lúc tu học, không phải lúc chứng ngộ” (bi nguyện chưa đầy đủ mà chứng tánh Không, thì sẽ rơi vào cái không của Tiểu thừa). Như vậy mới có khả năng ở lâu dài trong sinh tử, nhẫn chịu các khổ nạn của sinh tử, nhẫn chịu các sự bức hại của chúng sinh, mà không thoái tâm bồ đề. Ở trong sinh tử, Bồ tát sử dụng Tứ nhiếp pháp gồm bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự, làm lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sinh. Tự mình chưa được giải thoát mà có thể thực hành việc khổ khó làm với tâm từ bi cứu giúp chúng sinh. Tuy nhiên, việc này không phải ai ai cũng có khả năng làm được, nhưng pháp tu chân chánh của Bồ tát quả thật là như vậy.
5. Người thực hành Bồ tát hạnh lấy tinh thần từ bi làm gốc
Bồ tát siêu việt phàm phu và cũng siêu việt Nhị thừa. Phàm phu có tâm và hành vi bị dính mắc thế gian, đây là việc bình thường của thế gian; như nước từ nơi cao chảy xuống nơi thấp là quy luật tự nhiên, không cần học cũng biết. Còn hàng Nhị thừa tu tập vượt thoát sinh tử, lại quá thiên về sự yểm ly ngũ dục thế gian, nghiêng lệch về một bên, cũng là chuyện không quá khó. Duy chỉ việc làm không đắm trước thế gian cũng không xa lìa thế gian của Bồ tát mới là khó nhất trong các việc khó!
Sự thật quả là như thế, tâm và hành vi của phàm phu hình như đều là vậy. Trong chúng hội của Phật Thích ca, có Hiền Thánh Tiểu thừa, có việc làm không dễ, cũng có việc làm không quá khó. Bồ tát, chỉ có Bồ tát Thích ca và Bồ tát Di lặc, đây là sự thật lịch sử của nhân loại. Có thể thấy thực hành tâm nguyện của Bồ tát thật sự không dễ dàng, giống như đoá hoa sen xanh ở trong hầm lửa.
Trong kinh điển đại thừa nói: Có vô lượng vô biên Bồ tát ở trong mười phương, mười phương làm như vậy, nhưng ở cõi này không thường gặp Bồ tát. Cho đến hóa thân của Bồ tát đại địa có thể nhiều nơi đều có, nhưng cõi nhân gian không thể nhận biết được sự kiện đó. Từ vị trí phàm phu còn bị trói buộc ở cõi này mà luận bàn việc làm Bồ tát, giống như căn cứ vào sự tưởng tượng và chuyện thần bí mà bàn luận, khi ấy, việc đúng với sự thật thì không được nhiều. Lại như trong kinh dạy: “Vô lượng vô biên chúng sinh phát tâm bồ đề, một hay hai vị đạt được bất thoái chuyển là điều hy hữu”. Do đó kết luận: “Như ba trường hợp là hoa xoài, trứng cá, và người sơ phát tâm Bồ tát, số lượng ở khoảng đầu và giữa rất là nhiều, nhưng đến kết quả lại chẳng được bao nhiêu”. Đây không mang tính giáo quyền, mà là sự thật.
Việc xuất thế là việc làm của đại trượng phu, mà Bồ tát là đại trượng phu trong hàng đại trượng phu! Nếu một vị phát tâm tu tập thành tựu được quả vị bất thoái chuyển, đối với việc làm lợi ích cho chúng sinh, thật là không thể tính hết; giống như giá trị của viên châu báu ma ni vượt trội so với tất cả báu vật ở cõi Diêm phù đề.
Chúng ta phải nhận thức rõ ràng rằng tên gọi Bồ tát phù hợp với sự thực hành của họ, thì Bồ tát mới là người vĩ đại! Điểm vĩ đại nhất là họ không nghĩ cho riêng mình, xem việc lợi ích cho người là việc lợi cho mình. Điều vĩ đại này, chúng ta nên học tập. Sự hoằng dương pháp đại thừa, kính ngưỡng sự viên mãn của đức Phật và sự nghiệp lớn lao thuộc đại hạnh của Bồ tát, tuy phải trải qua nhiều kiếp tu tập, hoặc giữa chừng tạm thời dừng lại không tiến hành, nhưng một khi tai nghe đến thì vạn kiếp cũng không mất, từ nhân duyên đi đến và cuối cùng cũng từ đó mà thành Phật. Số lượng Bồ tát thành tựu sự bất thoái tuy không nhiều lắm, nhưng có vị đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất, tự họ có thể chân thật phát tâm bồ đề. Tín nguyện, từ bi và sự liễu ngộ tánh Không, là những điều kiện thật tốt đẹp cho Bồ tát ở trong biển sinh tử rèn luyện thân tâm, từ đầu đến cuối không ngừng làm lợi cho mình và lợi cho người.
Một số người tuỳ hỉ, ngưỡng mộ, học tập việc làm của Bồ tát, đó đều trồng xuống hạt giống bồ đề, đều là người hiền triết, bậc thượng sĩ (Bồ tát) ở trong đời. Phàm phu mà có tâm rộng lớn, tích cực làm lợi cho người, vì pháp vì người, cho dù họ là “Bồ tát bại hoại”, cũng mạnh mẽ hơn nhiều so với người chỉ chuyên vì mình!
Người có hạnh Bồ tát lấy từ bi làm gốc. Người mà tâm từ bi còn hạn hẹp thì mong cầu hướng đến Phật thừa, quả thật là người quân tử trong nhân gian, đây gọi là Bồ tát tu thập thiện. Người mà tâm từ bi rộng lớn sâu xa thì luôn nghĩ đến lợi ích cho đời, đó có chí khí đại thừa làm lợi ích cho nhân gian.
Bồ tát từ ngoại phàm, nội phàm, rồi dần dần chứng giai vị Hiền Thánh, chưa được lợi ích cho mình là giải thoát, nhưng có khả năng vì tất cả chúng sinh mà tu học, vì tất cả chúng sinh mà kham nhẫn đau khổ hi sinh. Sự tu học dần dần thâm sâu, từ chánh hạnh của nhân gian mà bước dần lên Phật thừa, đây chính là chánh hạnh trung đạo của Bồ tát. Nếu ai thật sự mang tâm huyết của Bồ tát, có phong cách của Bồ tát, hiểu được tinh thần chân thật lợi ích cho người của Bồ tát, thì làm gì gấp rút mong cầu lợi ích cho mình như thế?
Tinh thần chân chánh làm lợi cho người của Phật giáo bị trói buộc, bị hiểu lầm, bị xuyên tạc; chúng ta phải từ cái gốc để chỉnh sửa các vấn đề này! Phải từ sự nhận định về pháp tu Bồ tát mà nỗ lực chỉnh sửa! Như vậy mới khế hợp với hoài bão của đức Phật và báo đáp ân đức của chúng sinh. Và chỉ có như thế, mới trả lời được sự nghi vấn của mọi người.