Home > Khai Thị Phật Học
Bát Nhã Ba La Mật
Long Thọ Bồ Tát | Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Việt Dịch


KINH:   Ðối với hết thảy pháp, tâm không trụ trước, nên đầy đủ Thiền Ba la mật.

LUẬN:  Hỏi:  Thế nào là Bát nhã Ba la mật?

Ðáp:  Chư Bồ tát từ khi mới phát tâm cầu trí Nhất thiết chủng, ở giữa khoảng thời gian ấy tuệ biết rõ thật tướng các pháp, ấy là Bát nhã Ba la mật.

Hỏi:  Nếu như vậy, không nên gọi là Ba la mật, vì cớ sao?  Vì chưa đến bên bờ trí tuệ?

Ðáp:  Trí tuệ của Phật chứng được thật là thật Ba la mật.  Nhân nơi Ba la mật ấy mà sở hành của Bồ tát cũng gọi là Ba la mật; vì là trong nhân nói quả vậy.  Bát nhã Ba la mật ấy, ở trong tâm Phật thì đổi tên là trí Nhất thiết chủng. Bồ tát thực hành trí tuệ cầu đến bờ kia, nên gọi là Ba la mật;  Phật đã đến bờ kia,  nên gọi trí của Phật là Nhất thiết chủng.

Hỏi:  Hết thảy phiền não và tập khí Phật đã đoạn, con mắt trí tuệ thanh tịnh, nên đúng như thật chứng được thật tướng các pháp; thật tướng các pháp tức là Bát nhã Ba la mật. Bồ tát chưa diệt tận các lậu, mắt tuệ chưa thanh tịnh, làm sao có thể biết được thật tướng các pháp?

Ðáp:  Nghĩa ấy sẽ nói rộng ở trong chương sau, nay chỉ lược nói.  Như người vào biển, có người mới vào, có người tận thấu đáy nguồn, cạn sâu tuy khác mà đều gọi là vào.  Phật và Bồ tát cũng như thế.  Phật thời cùng tận đáy nguồn, còn Bồ tát chưa dứt phiền não và tập khí, thế lực ít ỏi, không thể sâu vào.  Như ở trong phẩm sau có nói thí dụ:   Như người ở trong nhà tối đốt đèn chiếu các vật, mỗi mỗi đều rõ ràng, lại có thêm đèn lớn nữa thì lại càng rõ hơn, thời biết bóng tối của ngọn đèn sau chiếu phá cùng với bóng tối của ngọn đèn trước chiếu phá cùng ở trong một chỗ.  Ngọn đèn trước tuy cùng bóng tối ở chung, mà cũng chiếu sáng được các vật.  Nếu ngọn đèn trước không có bóng tối ở chung, thời ngọn đèn sau không ích thêm gì.  Trí tuệ của Phật và Bồ tát cũng như vậy.  Trí tuệ của Bồ tát tuy cùng với phiền não và tập khí hợp một chỗ, mà vẫn có thể biết được thật tướng các pháp, cũng như ngọn đèn trước có thể soi được vật; còn trí tuệ của Phật dứt hết các phiền não tập khí và cũng biết được thật tướng các pháp; như ngọn đèn sau lại càng sáng rõ gấp bội.

Hỏi:  Thế nào là thật tướng các pháp?

Ðáp:  Mọi người đều nói đến thật tướng các pháp,   tự cho là phải.  Trong đây nói thật tướng là không thể phá họai, thường trú không đổi khác, không ai làm ra được.  Như trong chương sau Phật nói với Tu bồ đề:   “Nếu Bồ tát quán hết thảy pháp chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải khổ chẳng phải lạc, chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã, chẳng phải có chẳng phải không v.v...  cũng không tác ý về quán ấy, ấy gọi là Bồ tát thực hành Bát nhã Ba la mật.  Theo nghĩa này là bỏ hết thảy quán, dứt hết thảy ngôn ngữ, lìa các tâm hành, từ xưa lại nay bất sanh bất diệt như tướng Niết bàn.  Tướng hết thảy pháp cũng như vậy, ấy là thật tướng các pháp.  Như bài kệ khen ngợi Bát nhã Ba la mật rằng:

“Bát nhã Ba la mật,

Thật pháp không điên đảo,

Niệm, tưởng, quán đã trừ,

Ðường ngữ ngôn cũng dứt.

Vô lượng tội trừ hết,

Tâm thường nhất thanh tịnh.

Người tôn diệu như vậy,

Thời thấy được Bát nhã,

Như hư không vô nhiễm,

Vô hý, vô văn tự,

Nếu quán được như vậy,

Ấy tức là thấy Phật,

Ðúng như pháp quán Phật,

Bát nhã và Niết bàn,

Ba điều ấy một tướng,

Ðúng thật không sai khác.

Chư Phật và Bồ tát,

Lợi ích cho tất cả,

Bát nhã chính là mẹ,

Hay xuất sanh nuôi nấng,

Phật là cha chúng sanh,

Bát nhã sanh ra Phật,

Bát nhã là tổ mẫu,

Của hết thảy chúng sanh.

Bát nhã là một pháp,

Phật nói ra nhiều tên.

Tùy sức các chúng sanh,

Lập ra danh tự khác.

Nếu người được Bát nhã,

Tâm nghị luận đều dứt.

Như khi mặt trời mọc,

Sương sớm biến tan liền.

Oai đức của Bát nhã,

Lay động hai hạng người:

Kẻ vô trí sợ hãi,

Người có trí hoan hỷ.

Nếu người được Bát nhã,

Thời là chủ Bát nhã,

Ðối Bát nhã không vướng,

Huống gì đối pháp khác.

Bát nhã không đâu đến,

Cũng lại không đi đâu,

Người trí khắp mọi nơi,

Tìm cầu không thấy được.

Nếu không thấy Bát nhã,

Ấy là thời bị buộc.

Nếu người thấy Bát nhã,

Ấy cũng là bị buộc.

Nếu người thấy Bát nhã,

Ấy thời được giải thoát.

Nếu không thấy Bát nhã,

Ấy cũng được giải thoát.

Việc ấy rất hy hữu,

Sâu xa có đại danh,

Thí như vật huyễn hóa,

Thấy mà không thể thấy.

Chư Phật và Bồ tát,

Thanh văn,  Bích chi Phật,

Ðạo giải thoát Niết bàn,

Ðều từ Bát nhã được.

Ngôn thuyết là thế tục,

Vì thương xót hết thảy,

Giả danh nói các pháp,

Tuy nói mà chẳng nói.

Bát nhã Ba la mật,

Thí như ngọn lửa lớn,

Bốn phía không thủ được,

Không lấy cũng chẳng lấy,

(Vô thủ diệc bất thủ).

Một chấp thủ đã xả,

Ấy gọi không thể thủ.

Không thể thủ mà thủ,

Ấy tức gọi là thủ.

Tướng Bát nhã không hoại,

Vượt qua mọi ngôn ngữ,

Vưà không nương tựa đâu,

Ai khen được đức nó,

Bát nhã chẳng thể khen.

Tôi nay được tán thán,

Tuy chưa khỏi đất chết,

Thì cũng đã  được ra”.

o0o