Home > Khai Thị Phật Học
Đời Trước Và Đời Sau
Đại Sư Thích Ấn Thuận | Hòa Thượng Thích Pháp Chánh, Việt Dịch


Sự lưu chuyển ba đời của sinh mệnh, người đời cảm thấy khó tin nhận, đây quả là một vấn đề nan giải. Nếu như dùng những sự ghi chép trong kinh sách xưa nay ở trong cũng như ngoài nước để chứng minh sự thực về đời trước và đời sau, thì bọn họ lại cho rằng đó là truyền thuyết khó tin, chưa từng thấy qua. Có người từ trong bộ Nhị Thập Tứ Sử trích lục những sự tích liên quan đến đời trước và đời sau thì lại không được mọi người xem trọng. Sự bí ẩn của sinh mệnh trong dòng lưu chuyển vô tận, vốn có thể y vào thiền định, dẫn phát thần thông lực – thân tâm sinh khởi những kinh nghiệm siêu thường, mới có thể thấy rõ quá khứ và vị lai. Thế nhưng, người đời chưa từng trải qua sự tu tập, không có những loại kinh nghiệm siêu thường này, cho nên cũng không có biện pháp nào miễn cưỡng họ tin nhận. Đối với những người này, ngay cả đức Phật cũng không biết phải làm sao.

Thuở trước, khi có người hoài nghi về ba đời, hỏi đức Phật về đời trước đời sau. Đức Phật bèn vì kẻ ấy nói một thí dụ: Ví như phía bên kia của dãy núi có một tàng cây cao lớn, cành lá xum xuê. Nếu như chịu trèo qua đỉnh núi thì có thể thấy được. Nếu như chỉ nhìn qua một bên, hoặc nhìn xuống chân núi, không chịu y theo con đường đã được chỉ dẫn mà đi tìm, thì làm sao thấy được? Cho nên người đời, đang một mực theo đuổi ngoại cảnh, không nghe lời chỉ dẫn, không chịu tu tập thiền định, không đạt được tịnh tín, chỉ dựa vào sự hiểu biết của các cảm quan mắt thấy tai nghe, phủ định sự lưu chuyển ba đời, sự thực về sinh mệnh, cho đó là mê tín, thì cũng giống như người điếc cho rằng không có âm thanh, mắc phải bệnh nặng mê lầm nên không tin!

Lý do mà người đời không dễ dàng tiếp nhận quan niệm về dòng sinh mệnh ba đời, chủ yếu là quá tin tưởng vào kinh nghiệm (về thực tại) của ngũ quan, có khuynh hướng duy vật. Các nhà Duy vật cho rằng vật chất là nguồn gốc tối sơ, dòng ý thức của sinh mệnh chỉ là do vật chất phát sinh, không thể tách rời khỏi vật chất mà tồn tại. Cho nên sau khi thân xác chết đi, ý thức không còn hiện khởi, bọn họ (duy vật) bèn cho rằng hoàn toàn không còn gì. Nhưng y theo Phật pháp mà nói: Vật chất sinh diệt không ngừng. Cái “diệt” trong sinh diệt, không có nghĩa là trở thành hoàn toàn không còn gì, mà có nghĩa là tồn tại dưới một trạng thái khác. Tất cả hiện tượng vật chất, đều là đang ở trong tiến trình thành hoại. Vật chất, bất luận là tập hợp hoặc phân tán, trong sự chuyển hóa giữa “vật chất” và “năng lượng”, mọi người đều biết rằng vật chất là bất diệt (ý nghĩa của “tồn tại” không có nghĩa là không có hiện tượng sinh diệt). Tâm thức của hữu tình, không phải do vật chất sản sinh, chẳng qua là nương tựa vào vật chất để hiện khởi tác dụng của chúng. Con người chết đi, sau khi các cơ cấu sinh lý bị giải thể, cái tâm thức sinh diệt không ngừng đó, tuy không còn sinh khởi tác dụng, nhưng không có nghĩa là hoàn toàn diệt mất. Khi nhân duyên hội hợp (trở lại), cái tâm thức (bị diệt) trước kia, lại do duyên mà dẫn khởi sự tiếp tục sinh diệt của tâm thức (ở một thân xác mới). Từ định luật “vật chất bất biến”, phô bày kiến giải sai lầm của Duy vật luận, và tin nhận sự “bất diệt” của tâm thức. Diệt nhưng không phải là hoàn toàn không có gì, “diệt”, nhưng làm nhân “năng sinh” cho sự sinh tồn. Như vậy, đối với sự diên tục không ngừng của sinh mệnh, có thể dựa vào lý luận mà sinh khởi lòng tin vững chắc. Sau khi có tín niệm về sự diên tục của sinh mệnh, tự mình có thể gầy dựng một nhân sinh quan sáng sủa, tràn đầy sinh lực, từ đây nỗ lực sáng tạo sinh mệnh mới cho chính mình.

Hễ là “tồn tại” thì không thể tách rời khỏi đặc tính của thời gian. Thời gian giống như đầu của mũi tên, một bên chỉ về phía trước, một bên chỉ về phía sau. Thời gian là tên gọi khác của tính chất “trước sau”, không thể tách rời khỏi quá khứ, hiện tại và vị lai. Bất kỳ sự vật nào đều không thể ra khỏi phạm vi của thời gian tính. Nếu như không có quá khứ mà chỉ có hiện tại, hoặc tuy có hiện tại mà không có vị lai, đây là điều không hợp lý. Vật chất không tách rời khỏi ba đời, sự tồn tại của tâm thức và sinh mệnh, tương tự, cũng quán triệt ba đời. Một vật, lúc chưa có sự hiện khởi (hiện tại), hoặc sau khi hiện khởi liền diệt mất, dù cho không thể quán sát sự tồn tại của nó, nhưng nó vẫn là có (hiện hữu). Không thể từ “không có gì” mà xuất hiện (thành có), mà cũng không từ “có” mà biến thành “hoàn toàn không có gì.” Cho nên, nếu như không tin sinh mệnh và tâm thức tương thông cả ba đời (trước sau), tức là mất đi đặc tính của thời gian, cũng giống như đã phủ định sự tồn tại của chính mình. Thế nhưng, chúng ta không thể phủ nhận sự tồn tại hiện thực của chính mình, thì làm sao có thể không có quá khứ và vị lai?

Nhân quả, trong thế tục đế, đều được mọi người công nhận. Nhân quả mà Phật pháp nói đến, tuy cũng có nhân quả đồng thời, nhưng chủ yếu là nói về loại nhân quả trước sau (cái trước sinh khởi cái sau, cái trước ảnh hưởng cái sau). Như làm một việc gì, nói một lời gì, sẽ đưa đến một sức ảnh hưởng, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc đúng hoặc sai, đây là nhân quả. Như trong gia đình, những lời nói hoặc việc làm, hoặc chánh đáng, hoặc sai lầm, đều ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình, hoặc một người nào đó trong gia đình. Người trong gia đình bị ảnh hưởng bởi lời nói và hành vi, tạo tác một hành động nào đó, lại ảnh hưởng đến xã hội, quốc gia, nhưng điều chốt yếu nhất vẫn là ảnh hưởng chính mình. Thế nhưng, người ở đời lại rất xem thường vấn đề này. Nên biết, mỗi một hành động, không những hướng ngoại ảnh hưởng đến kẻ khác, mà lại còn hướng nội ảnh hưởng đến chính mình. Chẳng hạn, một hành động sai lầm về quân sự, chính trị của một nước, không những ảnh hưởng đến quốc tế, mà cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với trong chính quốc gia họ. Như vậy, một vấn đề trong gia đình, có thể ảnh hưởng xã hội, ảnh hưởng quốc gia, nhưng lại càng ảnh hưởng mạnh đến chính gia đình đó. Tương tự, lời nói hành động của một cá nhân, đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến gia đình, xã hội, quốc gia, nhưng chắc chắc sẽ ảnh hưởng đến tự thân. Tất cả những lời nói hành động thiện ác của chúng ta, đều do sự hoạt động nội tâm mà dẫn khởi hoạt động của thân thể lời nói. Lúc đang ảnh hưởng kẻ khác, thì cũng đồng thời dẫn khởi sự ảnh hưởng đến tự thân tâm, trở thành một tiềm lực, trở thành nhân duyên cho tương lai. Nếu như có thể tin sâu việc thân tâm của mình sẽ sinh khởi ảnh hưởng đối với chính mình, thì có thể tin hiểu cội nguồn của động lực khai sáng sinh mệnh đời sau. Chúng ta có hành động ý thức, hoặc thiện hoặc ác, tất nhiên ảnh hưởng chính mình, do tự thân nhận thọ hậu quả của chúng, chết rồi không phải là hết, mà những nghiệp lực thiện ác đã tạo từ đời trước vẫn phải là do chính mình gánh chịu. Do đây không thể không thừa nhận sự diên tục của sinh mệnh, từ đời trước đến đời sau. Nếu không, không thể nào an lập trách nhiệm đạo đức.

Đối với sự diên tục của sinh mệnh (niềm tin về sự diên tục từ đời trước đến đời sau), tốt nhất là mọi người nên phản tỉnh một chút: Tự mình hy vọng không có đời sau phải không? Tin rằng mình sau khi chết đi thì không còn gì nữa phải không? Đang lúc nghĩ tưởng đến sự đoạn diệt của chính mình trong tương lai, trong tâm tự nhiên sinh khởi một tâm trạng bức rức về sự trống rỗng và huyễn diệt. Ai ai cũng có sự tham luyến về sự diên tục của sinh mệnh mình, dù cho chúng ta (cho rằng) chết là hết, nhưng nội tâm (hạ ý thức) lại không phải như vậy. Những thanh niên hiện đang khỏe mạnh, đối với vấn đề sống chết không xem là quan trọng. Tự mình sẽ chết! Đây quả thật là vấn đề không thể tưởng tượng (đối với họ).  Thế nhưng, một khi cái chết thực sự sắp đến, thì lại hiện xuất sự bi ai tham luyến sinh mệnh. Một người đang mang bệnh nặng, thường hay hỏi những câu như: Mặt trời mọc chưa? Trời vẫn chưa tối phải không? Bọn họ trong những cơn bệnh triền miên, nhận biết được sự uy hiếp của cái chết, đều hy vọng có thể khỏe mạnh trở lại, hy vọng mạng sống kéo dài thêm một thời gian nữa. Phật pháp nói: Sự luyến ái đối với sinh mệnh của một hữu tình là vượt hơn tất cả. Nếu như sinh mệnh hiện nay kề cận cái chết, thì trong tâm liền cảm thấy vô cùng sợ hãi, sầu não, đặc biệt là những người ác. Đến lúc quả thật không còn có thể sống sót, thì lại hy vọng trong tương lai được tồn tại. Cho nên sự diên tục của hữu tình trong đời vị lai (sau khi chết không phải là hết), đều được cảm nhận bởi tất cả hữu tình. Điều này có sự thực để làm bằng chứng, có sự yêu cầu tâm lý, chẳng qua là bị giải thích một cách sai lạc bởi những nhà Thần ngã luận mà thôi.

Sự triển khai không gián đoạn trong từng mỗi thời kỳ của dòng sinh mệnh, sinh tử chưa cùng tận, liên tục kéo dài vô tận. Phàm phu thì lưu chuyển không cùng, còn các bậc hiền thánh thì tiến hóa không ngừng, mãi cho đến khi thành Phật mới thôi. Như dân gian ở Trung quốc có tục thờ cúng tổ tiên, đây không phải chỉ là con cái kỷ niệm cha mẹ (tổ tiên), mà là phát xuất từ lòng tin ông bà tổ tiên vẫn còn tồn tại. Nếu như chết là hết (không còn gì) thì việc thờ cúng, tưởng nhớ tổ tiên, há chẳng phải là việc dư thừa! Há vẫn còn có thể phổ biến như vậy, tiếp tục lưu truyền dài lâu như vậy hay sao? Cho nên, nếu như có thể phản tỉnh thân tâm, tin chắc sự diên tục của tinh thần và sinh mệnh, quán sát triệt để ý muốn của sự sinh tồn, tin tưởng sinh mệnh quan đối với sự diên tục ba đời. Nếu như tự mình không phải là những kẻ duy vật luận tầm thường, ai mà không tự nhiên thừa nhận (sự diên tục ba đời của sinh mệnh).

Trích từ: Học Phật Tam Yếu