Home > Khai Thị Phật Học
Đức Thích Tôn Trước Khi Thành Đạo
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm


Tiết mục:

I.   Bồ-Tát giáng thần
II.  Bồ-Tát nhập thai
III.  Bồ-Tát trụ thai
IV.  Bồ-Tát đản sanh
V.  Tiên-nhơn xem tướng
VI.  Thái-tử học tập văn võ
VII.  Mấy cuộc nhàn du
VIII.  Thái-tử xuất-gia
IX.  Thái-tử hỏi đạo

Pháp Tạng trích dẫn:  Kinh Phật-Bản-Hạnh, Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả, Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự, Kinh Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm, Kinh Phật-Thuyết-Thập-Nhị-Du, Kinh Vị-Tằng-Hữu, Kinh Thoại-Ứng, Kinh Tu-Đạt-Noa, Phật-Học-Đại-Cương.

Đề yếu:  Toàn chương viết phỏng theo nửa đoạn của thuyết “Tám tướng thành đạo”, từ lúc Bồ-Tát giáng thần cho đến khi Thái-tử xuất-gia, nhưng có thêm mấy tiết:  năm, sáu, bảy và chín, để cho sự tích thêm phần đầy đủ.  Đại khái trong chín tiết, kể những sự trạng từ khi Bồ-Tát giáng thần, vào thai, ở trong thai, lúc đản sanh, được tiên-nhơn xem tướng, lớn lên học tập văn võ, có gia đình, rồi nhân đi chơi thấy cảnh già, bệnh, chết, mà xuất-gia tìm đạo.  Đây là nửa đoạn đời về trước của Ðức Thích-Tôn.

Thuyết “Tám tướng thành đạo” theo Đại-thừa là:  Đâu-Suất giáng-thần, Nhập-thai, Trụ-thai, Đản-sanh, Xuất-gia, Thành-đạo, Chuyển-pháp-luân và Nhập niết-bàn.  Trong tám điều nầy, Tiểu-thừa thêm tướng Hàng-ma mà không lập tướng Trụ-thai, vì cho trụ thai gồm trong thác thai; còn Đại-thừa thì không lập tướng Hàng-ma, vì biết rõ ma chính là Phật.

Trong chương nầy có vài điểm mà theo quan niệm thế gian, người ta cho là xa với thực tế.  Nhưng theo quan niệm Phật-giáo, thì các pháp đều như huyễn, huyễn pháp tùy theo nghiệp duyên thiện ác mà biến hiện không lường, huống nữa với Thái-tử Tất-Đạt-Đa, một vị Bồ-Tát đã từng nhiều kiếp tu chứng Lục-ba-la-mật.  Vậy không nên đem tâm tư thế gian mà đoán định.

Theo các kinh Trung-Hoa phiên dịch, thời gian Phật đản sanh nhằm ngày mùng tám tháng tư.  Nhưng gần đây, quyết nghị của Hội-Phật-giáo-thế-giới xin các nước Phật-giáo lấy ngày 15 tháng 4 (â.l.T.H.) làm ngày kỷ niệm Phật-đản.  Vì thế nên trong đây sửa lại ngày ấy làm ngày trăng tròn.

Lại, theo quyết nghị chung, Phật-giáo-thế-giới năm 1952 đã đồng ý lấy năm Đức-Phật niết-bàn, tức là 544 năm trước kỷ nguyên, làm năm kỷ niệm “Phật-lịch” thống nhất của Phật-giáo.  Thế thì Ðức Thích-Tôn giáng sinh vào khoảng thời gian 624 - 544 năm trước tây-lịch.  Hiện nay năm Phật-lịch là 2508 - 1964.

Tiết I:  Bồ Tát Giáng Thần

Hộ-Minh Bồ-Tát từ nơi pháp hội của Ðức Ca-Diếp-Thế-Tôn, giữ gìn cấm giới, phạm hạnh trong sạch, sau khi mạng chung, chánh niệm sanh lên cõi Đâu-Suất-Đà-thiên.

Sau khi vãng sanh, Bồ-Tát trụ nơi nội-viện thiên-cung.  Các cung điện ở cõi Đâu-Suất ánh sáng huy hoàng, sự trang nghiêm tốt đẹp vô lượng vô biên.  Đó đều do sức công đức oai thần của Hộ-Minh đại-sĩ mà tự nhiên hóa hiện.  Các Đại-Phạm-thiên-vương và hàng A-tu-la oai đức lớn, đều vân tập nơi cung trời Đâu-Suất, vây quanh Bồ-Tát, thưa thỉnh pháp âm.  Vô lượng chúng-sanh khi sanh lên cõi Đâu-Suất, thấy sự vui ngũ dục nhiệm mầu, phần nhiều đều mê nhiễm, không nhớ bản nguyện và hạnh tu đời trước.  Bồ-Tát tuy thấy cảnh ngũ dục thắng diệu, song vẫn không mê hoặc, lại nhớ đến nhân duyên của mình vì dẫn dạy chúng-sanh nên mới ứng hiện nơi cõi nầy.  Thọ mạng của chư thiên cõi Đâu-Suất đến bốn ngàn năm.  Bồ-Tát vì hàng chư thiên ấy thuyết pháp giáo hóa, chỉ rõ pháp tướng, khiến cho đại chúng đều hoan hỷ.  (Kinh Phật-Bản-Hạnh)

Khi vận kỳ gần đến, sắp phải giáng sinh thành Phật, Bồ-Tát quán sát năm việc:

1.  Căn duyên của chúng-sanh đã thuần thục hay chưa?

2.  Đã đến thời kỳ hóa độ chưa?

3.  Trong châu Diêm-Phù-Đề, quốc hộ nào ở chính giữa?

4.  Trong các chủng tộc, tộc tánh nào quí thạnh?

5.  Về nhân duyên quá khứ, ai là bậc chân chánh, đáng làm cha mẹ mình?

Sau khi quán sát năm việc ấy xong, Ngài biết rõ:  Hiện nay các chúng-sanh do mình giáo hóa từ khi mới phát tâm, thiện căn đã thuần thục.  Đã đến thời kỳ những kẻ hữu duyên có thể lãnh thọ pháp mầu thanh tịnh.  Trong cõi Đại-thiên-thế-giới nầy, nước Ca-Tỳ-La-Vệ ở giữa châu Diêm-Phù-Đề.  Trong các chủng tộc, có họ Thích-Ca thuộc dòng Cam-Giá là quí thạnh nhất.  Về nhân duyên quá khứ, Bạch-Tịnh-Vương và Ma-Gia hoàng-hậu là bậc hiền lương chân chánh, có thể làm cha mẹ mình.  (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)

Tiết II:  Bồ Tát Nhập Thai

Bấy giờ, Hộ-Minh Bồ-Tát xem xét con bạch tượng ở cõi trời, thấy nó mạnh mẽ vững vàng như sư tử chúa; cưỡi tượng vương nầy giáng sinh, tất không còn có sự rối loạn sợ hãi, tâm được an điềm.  Ngài day lại bảo chư thiên rằng:  “Các vị nên biết, đã đến giờ ta giáng sinh.  Đây là lần thọ thân sau rốt của ta”.

Khi ấy nơi thành Ca-Tỳ-La, Ma-Gia hoàng-hậu trong giấc mơ, thấy có một vị Bồ-Tát cưỡi con bạch tượng sáu ngà, đầu voi ửng sắc đỏ, ngà trang nghiêm bằng vàng, từ hư không đi xuống, chun vào hông bên hữu của mình.  (Kinh Phật-Bản-Hạnh)

Tiết III:  Bồ Tát Trụ Thai

Có những chúng-sanh, khi nhập thai không thể chánh niệm; hoặc khi nhập thai chánh niệm, khi trụ thai không thể chánh niệm, hoặc khi nhập thai, trụ thai đều chánh niệm, khi xuất thai không thể chánh niệm.

Lại các chúng-sanh khác, khi trụ thai hoặc có lúc ở bên trái, có lúc ở bên mặt, làm cho người mẹ chịu rất nhiều sự nhọc nhằn đau đớn.  Bồ-Tát khi trụ thai thường ở bên mặt, không di động, không làm tổn đến người mẹ.

Các chúng-sanh khác, khi trụ thai tất bị nhiễm các thứ không sạch trong thân người mẹ.  Bồ-Tát khi trụ thai, không có sự kinh sợ, không bị nhiễm chất dơ, ví như bình báu lưu ly được áo trời gói kín, dù đem để chỗ dơ cũng không bị ô nhiễm.

Các chúng-sanh khác khi trụ thai, người mẹ thường chịu sự nặng nề, nhọc mệt, thân thể không an.  Bồ-Tát khi trụ thai, người mẹ thân không mỏi mệt, khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, nghỉ đều được an vui.

Các chúng-sanh khác khi trụ thai, người mẹ hoặc làm những tạp hạnh, hoặc dục tâm hừng thạnh, hoặc thèm các mùi vị, hoặc tham lam bỏn xẻn, hoặc giận hờn độc ác, hoặc thân thể suy yếu, vàng võ gầy gò.  Bồ-Tát khi trụ thai, người mẹ ưa giữ giới hạnh, không có lòng dục nhiễm, không tham đắm các mùi vị, ưa bố thí, hằng thương xót không làm tổn hại mọi loài, thân thể mạnh khỏe, dung sắc tươi vui.

Trên đây là những pháp vị tằng hữu của hàng Bồ-Tát.  (Kinh Phật-Bản-Hạnh)

Tiết IV:  Bồ Tát Đản Sanh

Hoàng-hậu Ma-Gia mang thai đã gần đủ ngày tháng (bấy giờ bà đã 45 tuổi).  Khi ấy, Thiện-Giác trưởng-giả (Anusàkya - A-Nâu-Thích-Ca) sai sứ qua thành Ca-Tỳ-La tâu với Tịnh-Phạn-Vương, xin y theo cổ tục đem con gái về quê ngoại là xứ Câu-Ly (Koly - Câu-Lợi) an dưỡng để chờ ngày sanh.  Tịnh-Phạn-Vương y lời, sai quan Hữu-Tư sửa sang con đường từ thành Ca-Tỳ-La đến thành Đề-Bà-Đà-Ha (Devadaha - Thiên-Tý-thành) cho bằng phẳng, trừ bỏ gai gốc sạn đá, quét dọn sạch sẽ.  Vua lại bảo quan quân thể nữ sắp đặt xe báu, rải hương hoa, tấu các thứ âm nhạc, đưa Ma-Gia phu-nhân về quê.

Trên quãng đường về, hoàng-hậu ghé vào vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini) để thưởng ngoạn mùa hoa đang nở.  Trong vườn có cây Ba-la-xoa (Sala - Vô-ưu), tàn che rộng rãi, cành rũ thấp bốn bề, hoa lá chen nhau, sắc xanh tím cùng chói dưới ánh triều dương, lộ vẻ muôn phần xinh đẹp.  Hoa của loại cây nầy có mùi hương thanh nhẹ, bay lan theo làn gió thoảng, làm cho người thần trí vui tươi.  Hoàng-hậu dạo xem khắp nơi, rồi lần chẫm rãi bước đến cội Vô-ưu, ngước mắt nhìn lên, đưa cánh tay mặt từ từ vịn cành cây xuống.  (Kinh Phật-Bản-Hạnh)

Khi ấy, ánh sáng rực rỡ bốn bề, cõi đất rung động sáu cách, Ma-Gia phu-nhân đã đản sanh ra Bồ-Tát.  Bấy giờ, trời Đế-Thích đem hoa sen rải theo lối đi.  Bồ-Tát chân đạp hoa sen, nhẹ đi bảy bước, nhìn khắp bốn phương, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, xướng lên rằng:  “Đây là thân sau rốt của ta.  Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quí hơn cả”.  Lúc đó, trên hư không Long-vương phun hai thứ nước:  ấm và mát, để tắm gội cho Bồ-Tát.  (Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự)

Tịnh-Phạn-Vương hay được tin ấy, liền nghiêm chỉnh đốn binh, cùng với quyến thuộc và một ức người Thích-chủng, đi đến vườn Lâm-Tỳ-Ni.  Khi đến nơi, vua thấy Thái-tử tướng lạ trang nghiêm, vô cùng hoan hỷ!

Bảy hôm sau ngày sanh nở, hoàng-hậu Ma-Gia ly trần, sanh lên cung trời Đao-Lợi, hưởng phước tự nhiên, do bởi hoài thai Bồ-Tát, công đức rất lớn.  (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)

Thái-tử ở tại vườn Lâm-Tỳ-Ni đủ bảy ngày, rồi được đưa về thành Ca-Tỳ-La.  Vua Tịnh-Phạn đặt tên cho Thái-tử là Tất-Đạt-Đa (Siddhàrtha - Nghĩa-Thành).  (Kinh Phương-Quảng-Đại-Trang-Nghiêm)

Tiết V:  Tiên Nhơn Xem Tướng 

Sau khi hoàng-hậu qua đời, Tịnh-Phạn-Vương giao Thái-tử cho bà Ba-Xà-Ba-Đề (Prajàpati) nuôi dưỡng.  Ngài lại truyền mời các thầy tướng số vào đền để xem tướng cho Đông-cung.  Khi xem xong, các tướng sư đều thưa:  “Tâu Đại-vương!  Cứ theo sách xưa nói, thì người nào đủ 32 tướng như Thái-tử đây, sẽ có hai việc:  một là được làm Chuyển-luân-thánh-vương, cai trị bốn châu thiên hạ, bảy báu đầy đủ.  Hai là nếu xuất-gia, tất sẽ thành Phật, độ vô lượng chúng-sanh”.  Vua Hỏi:  “Những tướng ấy như thế nào?”  Các tướng sư đều chỉ rành rẽ mỗi mỗi trong 32 tướng.  Tịnh-Phạn-Vương rất vui đẹp.

Trong ngày đó, Thủ-môn-quan lại báo tin có A-Tư-Đà tiên xin yết kiến.  Vua truyền mời vào, đảnh lễ tiên-nhơn, thỉnh ngồi trên bảo tọa, rồi thưa rằng:  “Chẳng hay tiên trưởng đến đây có điều chi dạy bảo?”  Đạo-sĩ Đáp:  “Thưa Đại-vương!  Tôi xem thiên tượng, biết Ma-Nạp-Bà-Tỷ-Giả Bồ-Tát đã vào thành nầy.  Nay nghe Đại-vương mới sanh Thái-tử, nên muốn xin cho được thấy mặt”.

Quan Ngự-thị thưa:  “Thái-tử hiện đang ngủ”.  Tiên-nhơn mỉm cười đọc bài kệ:

Ngựa hay không ngủ nhiều,

Nửa đêm tạm thời nghỉ,

Việc định làm chưa xong,

Sao để say thần trí? 

Vua truyền bảo cứ vào bồng ra.  Khi quan Ngự-thị bồng Thái-tử vừa đến đại điện, Ngài bỗng mở mắt, vẻ mặt tươi tỉnh.  Đạo-sĩ A-Tư-Đà lặng lẽ xem tướng xong rồi Hỏi:  “Các tướng sư khác nói như thế nào?”  Vua y lời trước thuật lại.  Tiên-nhơn bảo:

Các tướng sư ấy nói chẳng đúng,

Trong đời mạt-pháp không Luân-vương. 

Nếu như bậc chúa hóa bốn châu,

Thì tướng Luân-vương chưa hiện đủ. 

Mà nay có được thắng duyên nầy,

Quyết định về sau sẽ thành Phật. 

Vua Tịnh-Phạn nghe nói Thái-tử sau sẽ tu hành, chứng Cam-lộ-pháp, thì lặng lẽ không vui.  (Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự)

Tiết VI:  Thái Tử Học Tập Văn Võ

Thái-tử lần lần khôn lớn.  Tịnh-Phạn-Vương rất chiều quí con, cấp cho đủ các thứ xe:  voi, ngựa, trâu, dê, và năm trăm kẻ thương đầu như bọn Xa-Nặc...  để theo hầu hạ.  Năm Thái-tử lên bảy tuổi, vua cho thỉnh 500 vị Bà-La-Môn tài đức vào hoàng cung, để dạy con về các môn:  thiên văn, địa lý, toán số, kỹ thuật, nghị luận, văn học, võ nghệ.  Trong các giáo sư, có ông Tỳ-Xa-Mật-Đa-La về văn học tỏ ra xuất sắc, còn ông Sằn-Đề-Đề-Bà thì tinh thông về võ nghệ.  Trí thông minh của Thái-tử rất phi thường không ai sánh kịp.  Học chẳng bao lâu mà Ngài đã thông suốt mọi ngành.  Các thầy dạy của Ngài lần lần đều cảm thấy sự học vấn của mình có hạn, mà chỗ hiểu biết của vị đồ đệ lại sâu rộng vô cùng.  Rốt cuộc các ông vừa tự thẹn vừa khen ngợi bái phục, trở lại tôn xưng Thái-tử là bậc thầy, rồi từ biệt ra về.

Khi Thái-tử được mười bảy tuổi (có thuyết nói 16 tuổi), vua hội quần thần lại để bàn định việc hôn phối cho con.  Một quan-đại-thần tâu:  “Thưa Đại-vương!  Bà-La-Môn Ma-Ha-Na-Ma thuộc dòng họ Thích, có một người con gái tên Gia-Du-Đà-La (Yasodharà - Đặc-Dự), trí huệ thông minh, tư dung xinh đẹp, tài hạnh hơn người.  Cô ấy có thể làm vị nguyên phối của Thái-tử”.  Vua sai người đến nhà trưởng-giả Ma-Ha-Na-Ma, quan sát trong bảy ngày, thấy quả đúng như thế, liền cho sứ-giả sang làm lễ thông vấn, rồi lựa ngày tốt để nghinh hôn.  Sau khi kết hôn, Thái-tử đối với Gia-Du công-nương, trong khi đi đứng trò chuyện vẫn sánh đôi cùng nhau, nhưng thường lãnh đạm không có niệm thế tục.  Ban đêm thanh vắng, Ngài thích tĩnh tọa chuyên tu thiền quán.  (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)

Công-nương Gia-Du-Đà-La cũng có hiệu là Cù-Di, cha là Ma-Ha-Na-Ma tức Xá-Di trưởng-giả (Thủy-Quang), mẹ là Nguyệt-Nữ phu-nhân.  Khi Cù-Di mới sanh, mặt trời sắp lặn, ánh tịch dương phản chiếu khắp trong nhà sáng rỡ, nhân đó công-nương lại có hiệu là Minh-Nữ.  Ngoài Cù-Di là bạn nguyên phối, Thái-tử lại có hai bà phi khác là Gia-Duy-Đàn, con của Di-Thi Bà-La-Môn, và Lộc-Dã, con của Thích trưởng-giả.  Vua Tịnh-Phạn xây cất cho ba vương-tức ba tòa điện các, mỗi điện có đến hai vạn thể nữ.  (Đối chiếu các Kinh:  Phật-Thuyết-Thập-Nhị-Du, Vị-Tằng-Hữu, Thoại-Ứng, Tu-Đạt-Noa)

Tiết VII:  Mấy Cuộc Nhàn Du

Một hôm, Thái-tử nghe các cung nữ hát những bài vịnh cảnh vườn cây tươi tốt, ngọn suối reo thanh, bỗng động ý nhàn du.  Ngài suy nghĩ:  “Nếu ta cứ ở mãi trong cung, làm sao biết được cảnh vật bên ngoài thế nào?”  Nghĩ xong, Thái-tử tâu với Phụ-vương xin ra ngoài thành du ngoạn.  Vua Tịnh-Phạn nghe nói vui vẻ ưng thuận, sai quan quân cùng đi với Đông-cung.

Khi đi đến một cánh đồng, Thái-tử trông thấy những người nông phu quần áo lam lũ, làm việc dưới ánh mặt trời nóng bức, xem ra rất là vất vả.  Ngài lại thấy mỗi lần cày đất lên, loài côn trùng lớp bị đứt đoạn, lớp bò ra, những chim muông tranh nhau bay xuống bắt chúng để ăn.  Mục kích cảnh ấy, Thái-tử động lòng thương xót than rằng:  “Cuộc đời là một chuỗi nhọc nhằn, khổ sở, xâu xé lẫn nhau như thế ư?  Ta phải làm thế nào để cứu vớt chúng-sanh thoát ly mọi nỗi khổ?”  Du ngoạn xong, Ngài cùng các quan trở về thành, bên lòng canh cánh một tâm niệm không vui.

Cách ít lâu sau, Thái-tử lại tâu với vua cha xin ra ngoài thành du lãm.  Trước tiên, Ngài cùng quan quân hộ vệ ra cửa thành phía đông.  Đang lúc dạo chơi vui vẻ, Thái-tử bỗng thấy một ông lão lưng còm, tóc bạc, khí lực suy vi, tuy có chống gậy song lối đi đứng xem ra nhọc mệt.  Nhìn qua cảnh đó, Ngài suy nghĩ:  “Bóng thiều quang thấm thoát trôi mau, cái già sẽ đến không mấy lúc.  Ta tuy giàu sang quyền thế, nhưng làm sao tránh khỏi cảnh nầy!  Tại sao người đời không nghĩ đến nỗi khổ sẽ đến với mình mà tìm phương giải thoát, lại an nhiên trong vòng dục lạc?”

Kế đó, Thái-tử ra dạo cửa thành phía nam.  Lần nầy vua Tịnh-Phạn cho người sửa sang, quét dọn trước đường sá.  Dọc theo bên lộ, cách khoảng lại có treo những lọng, phướn và đốt hương rải hoa.  Nhưng không may, trong lúc du ngoạn, Thái-tử thấy một người bệnh gầy yếu vàng võ, tay chân run rẩy, miệng không ngớt kêu rên.  Bệnh nhân do hai người dìu đỡ, đang đi khấp khểnh bên lộ.  Ngài liền bảo quan quân dừng lại, rồi vội vã xuống xe, dùng lời từ ái hỏi thăm an ủi, lại cỡi chuỗi ngọc trong mình ban cho để thân nhân kẻ bệnh lo việc thuốc thang.  Trải qua cảnh ấy, Thái-tử mất hết hứng thú vui chơi, truyền quan hộ vệ đẩy xe về cung.

Lần thứ ba, Thái-tử ra dạo cửa thành phía tây.  Mấy kỳ trước, sau cuộc du ngoạn trở về, vua Tịnh-Phạn thấy con có nét u buồn, hỏi thăm kẻ tùng nhân đã biết rõ duyên cớ.  Vì thế lần nầy vua cho một vị Bà-La-Môn trẻ tuổi, đủ tài thông minh hùng biện, tên là U-Đà-Di, đi theo làm bạn với Thái-tử.  Nơi thành ngoại, vua lại ngầm sai quân ngăn không cho kẻ già, bệnh ra đường.  Chẳng những các lối đi sửa sang trang nghiêm hơn trước, mà ở mấy khuôn viên ngoài thành, Tịnh-Phạn-Vương cũng đặt sẵn những đoàn âm nhạc ca vũ, cho cảnh trí tăng thêm vẻ vui tươi.  Nhưng trong lúc đoàn du ngoạn đang vui bước lần lần dạo chơi ra xa, một đám xác từ đàng kia đi đến.  Theo sau đó, các thân nhân người chết kêu khóc thảm thiết bi ai.  Sau khi hỏi biết đó là đám xác mà người ta đem đi nơi xa vắng để hỏa táng, Thái-tử lộ vẻ buồn bực, truyền quay xe trở về.  Ưu-Đà-Di hết sức khuyên lơn, song cũng không được.

Một thời gian sau, Thái-tử lại xin vua cha cho đi dạo ngoài cửa thành phía bắc.  Tịnh-Phạn-Vương không nỡ ngăn cản, nhưng đã trải qua mấy phen sơ hở trước, kỳ nầy ngài sai quân triệt để ngăn ngừa các nơi ở thành ngoại, không cho Thái-tử thấy một tướng trạng nào có thể gọi là bất tường.  Vua lại cho sửa sang khung cảnh du ngoạn thật bội phần trang nghiêm, và dặn những kẻ tùng nhân khuyên Thái-tử khi dạo chơi nên dùng ngựa để trông thấy rõ cảnh đẹp bốn bề.  Sáng hôm sau, Thái-tử cùng Ưu-Đà-Di và hàng quan thuộc cưỡi ngựa chậm rãi ra khỏi thành.  Khi đến một khu vườn, Ngài cho các tùng giả tản đi dạo chơi xung quanh, rồi xuống ngựa lại gốc cây ngồi yên lặng một mình, vẩn vơ lo nghĩ đến cảnh già, bệnh, chết.  Lúc ấy từ đàng xa, một vị Sa-môn mặc pháp phục, ôm bát, cầm tích trượng khoan thai đi đến.  Thấy tướng trạng an nhàn tự tại đó, Thái-tử bỗng sanh lòng hoan hỷ, đứng lên đón hỏi đạo nhơn về mục đích của sự tu hành.  Vị Sa-môn Đáp:  “Cảnh thế gian đều vô thường giả huyễn, người đời vì mê theo dục nhiễm, nên bị lôi cuốn trong vòng buộc ràng khổ não.  Mục đích tu hành của tôi là trừ lòng tham trước nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đem tâm vào nơi điềm đạm vô vi, lần lần sẽ chứng quả Niết-bàn, thoát nẻo luân-hồi, hằng được an nhàn tự tại.  Khi tự mình đã giải thoát, lại đem đạo mầu mà hóa độ chúng-sanh”.

Nghe mấy lời ấy, Thái-tử cảm thấy sự lo nghĩ từ trước thoạt tiêu tan, nơi trí mở ra lối đi quyết định.  Ngài buột miệng khen:  “Lành thay!  Ở trong đời chỉ có việc nầy là cao quí hơn cả”.  Trên con đường về, Thái-tử luôn luôn lộ vẻ vui tươi; nhưng khi vào đến cửa hoàng thành, gương mặt Ngài bỗng ẩn nét lo buồn.  (Lược thuật theo Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)

Tiết VIII:  Thái Tử Xuất Gia

Sau khi du ngoạn bốn cửa thành trở về, Ưu-Đà-Di thấy Thái-tử hằng trầm tư, sợ Ngài có quan niệm thoát tục, liền lựa dịp khuyên can:  “Đại-vương dạy tôi làm bạn với Thái-tử, để có sự đắc thất thì khuyên nhủ cùng nhau.  Mà đạo bằng hữu kết yếu lại chỉ có ba điều:  1.  Nếu thấy có lỗi phải khuyên can nhau.  2.  Thấy có việc tốt thì mừng cho nhau.  3.  Gặp lúc nguy khổ, không rời bỏ nhau.  Nay tôi đem lời thành thật tỏ bày, mong Thái-tử chớ để tâm phiền trách:  từ xưa đến nay, theo thông lệ, các bậc vương giả đều hưởng sự vui ngũ dục trước, rồi mới xuất-gia.  Song đó chỉ là điều phụ, mà thật ra phần chính là:  nhiệm vụ đối với việc trị nước an dân và bổn phận đối với gia đình, chủng tộc.  Nay tôi xem ý Thái-tử dường như không thích con đường ấy, là bởi tại sao?”  Thái-tử Đáp:  “Ta không bảo rằng thú ngũ dục không vui.  Song thử Hỏi:  Các vị vương giả ấy bây giờ còn chăng?  Và ở đâu?  Hay là do say đắm theo dục lạc, gây nhiều nghiệp duyên tội chướng mà bị đọa lạc rồi?  Ta không bảo việc trị nước an dân là không quan trọng, song địa vị quốc-vương dù không có người nầy, cũng còn lắm kẻ tài đức khác.  Ta cũng không bảo tình nghĩa gia tộc là không thiết yếu, nhưng theo ý ta, đó là một tình thương và nhiệm vụ trong khuôn khổ nhỏ hẹp, sao bằng tình thương khắp cả sinh linh, nhiệm vụ cứu độ muôn loài thoát nẻo luân-hồi đau khổ?”  Ưu-Đà-Di đem hết nguồn biện luận để khuyên ngăn, song rốt cuộc rồi cũng đuối lý.  (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)

Sau khi suy nghĩ kỹ, muốn thoát khỏi nỗi khổ già, bệnh, chết, duy đường lối tu hành là có thể hy vọng, Thái-tử đã quyết chí xuất-gia.

Một hôm, thừa lúc Tịnh-Phạn-Vương vui vẻ, Thái-tử sửa y phục nghiêm chỉnh đến bạch rằng:  “Thưa Phụ-vương!  Giàu sang quyền thế, ngày kia sẽ hết; ân tình hội hợp, có lúc phải chia ly.  Xin Phụ-vương cho con xuất-gia tu hành để độ thoát lấy mình, gia thuộc, và tất cả chúng-sanh”.  Vua Tịnh-Phạn nghe nói, cả mình rung rẩy, uất ức nghẹn lời, một viên đá bị chày Kim-cang đập nát thế nào, thì tâm trạng buồn khổ, thất vọng, rã rời của ngài cũng như thế ấy!  Vua cầm tay Thái-tử, lặng thinh giây lâu mới nói được một câu nho nhỏ:  “Con nên bỏ ý kiến đó đi, đừng làm cho cha sầu não!”  Thái-tử thấy Phụ-vương bi lệ không cho, bèn lạy chào trở về cung, âm thầm suy nghĩ phương pháp thoát ly.

Khi biết Thái-tử có chí xuất trần, vua Tịnh-Phạn cho quân ngày đêm canh giữ hoàng thành nghiêm nhặt.  Ngài lại dặn công-nương Gia-Du-Đà-La và các nội quan trông chừng, nếu thấy Thái-tử có hành động gì khác thường, phải lập tức cho hay.

Một đêm, sau cuộc tiệc vui liên tiếp mấy hôm, tất cả đoàn âm nhạc ca vũ trong cung, cho đến công-nương Gia-Du-Đà-La đều mệt mỏi yên giấc.  Riêng Thái-tử nằm trằn trọc không ngũ, Ngài suy nghĩ:  “Ngày tháng chóng qua, tuổi xuân không trở lại, ta phải sớm thoát ly, không nên dần dà như thế nầy mãi”.  Nghĩ đến đó, Ngài bỗng nghe văng vẳng có tiếng nói:  “Những hạnh nguyện đã tu từ vô lượng kiếp đến nay, hiện đã tới thời kỳ thuần thục.  Thái-tử nên mau xuất-gia, mọi việc đã có chúng tôi giúp đỡ”.  Lúc ấy, công-nương Gia-Du-Đà-La bỗng chợt thức giấc, gọi Thái-tử nói với giọng đầy vẻ sợ hãi:  “Thiếp vừa nằm mộng thấy liên tiếp ba điềm:  Mặt trăng rơi xuống đất, gẫy một chiếc răng và rụng cánh tay mặt, không biết đó là triệu chứng gì?”  Thái-tử an ủi:  “Việc chiêm bao hư huyễn không thật, nàng hãy yên tâm nằm nghỉ”.

Đợi công-nương yên giấc xong, Thái-tử nhẹ bước ra ngoài, gọi kẻ hầu thân tín là Xa-Nặc (Chana) bảo thắng yên cương con bạch mã Kiền-Trắc đem đến, Xa-Nặc nghe nói kinh hãi, trong lòng dụ dự, nửa không dám trái lời vua dặn, nửa lại sợ oai lực Thái-tử, chỉ rơi nước mắt thưa:  “Đang lúc giữa đêm, không phải giờ du ngoạn, cũng không phải vì đem quân ra ngăn giặc, chẳng hay có chuyện chi cấp thiết mà Đông-cung phải cần đến ngựa?”  Thái-tử bảo:  “Ta muốn vì tất cả chúng-sanh hàng phục giặc phiền não, ngươi chớ nên trái ý”.  Biết không thể cưỡng được, Xa-Nặc sắp sửa yên cương, rồi thầy trò vượt ra thành.  Do sức chư thần, nên quân canh gác đều ngủ mê man không hay.  Con Kiền-Trắc chạy mau như gió, vừa lúc bình minh đã đến bờ sông A-Nô-Ma.  Thái-tử xuống ngựa, cắt tóc, đem trân phục nơi thân đổi lấy bộ cà sa của người thợ săn dùng giả trang để bắn thú, hoàn thành hình tướng sa-môn.  Xa-Nặc thấy thế, tỏ vẻ bi ai, quyến luyến!  Thái-tử an ủi:  “Ngươi chớ nên thương buồn, vì người đời có hợp tất có tan.  Như khi ta mới sanh ra bảy ngày thì mẫu-hoàng đã mạng bạc.  Rất đổi mẹ con chí thiết, mà còn có lúc tử biệt vô thường, huống nữa là những tình trường riêng khác!  Thôi ngươi hãy về đem ý ta thuật lại, nói ta có lời xin lỗi cùng phụ-hoàng, di-mẫu và tạm biệt công-nương”.  Nói xong, Thái-tử xây mình chẫm rải bước đi; Xa-Nặc đứng lặng lẽ trông theo cho đến khi Ngài khuất bóng.  (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)

Lúc ấy, nhằm đêm mùng tám tháng hai, Thái-tử được 29 tuổi và đã có con là La-Hầu-La (Ràhula).  (Tỳ-Nại-Gia-Tạp-Sự - theo Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả thì Thái-tử xuất-gia lúc 19 tuổi; khi ấy công-nương Gia-Du mới có thai).

Vua Tịnh-Phạn hay con đã xuất-gia, liền cho năm người tôn thân là:  Kiều-Trần-Như (Àjnàta - Kaundinya), A-Thấp-Bà (Asvajit - A-Thuyết-Thị), Bạt-Đề (Bhadrika), Ma-Ha-Nam (Mahànàma), Thập-Lực-Ca-Diếp (Dasabala Kàsyapa - Bạt-Đà) đi theo Thái-tử để làm thị-giả.  (Phật-Học-Đại-Cương)

Tiết IX:  Thái Tử Hỏi Đạo

Sau khi xuất-gia, Thái-tử đi tìm chỗ ở của Bạt-Già-Bà tiên-nhơn (Bhàrgava) để hỏi đạo.  Khi đến nơi, Ngài thấy những vị ở đây tu nhiều thứ khổ hạnh:  Có kẻ dùng cỏ, hoặc vỏ cây, hoặc lá cây làm y phục.  Có kẻ ăn một ngày một bữa, hoặc hai ngày, ba ngày một bữa.  Có kẻ thờ nước, lửa, hoặc thờ mặt trời, mặt trăng.  Có kẻ đứng co một chân, hoặc nằm dưới đất, trên gai, miểng, hoặc nằm gần bên nước lửa.  Thái-tử hỏi tiên-nhơn rằng:  “Các ông tu khổ hạnh như thế để cầu quả báo gì?”  Bạt-Già-Bà Đáp:  “Chúng tôi cầu sanh lên cõi trời”.  Thái-tử nói:  “Chư thiên tuy hưởng nhiều sự vui, song khi phước hết phải chịu luân-hồi, lạc vào khổ thú.  Lối tu của các ông là đem cái khổ để đổi lấy cái vui giả tạm.  Ví như khách hàng hải vì của báu mới chịu khó nhọc đi ra biển; vị quốc-vương vì đất đai mới đem binh đánh dẹp các nơi.  Nhưng của báu cùng đất đai đâu phải luôn luôn thuộc về mình?  Vậy lý tưởng của các ông không phải là con đường giải thoát cứu cánh”.  (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)

Kế đó Thái-tử lại đi đến chỗ A-Ra-La-Ca-Lan tiên-nhơn (Àràda Kàlàma), ở phụ cận kinh thành Tỳ-Xá Ly (Vaisàlì), mà hỏi về đạo giải thoát.  Sau một hồi đối đáp, Ngài biết vị tiên-nhơn nầy lấy cảnh giới Vô-sở-hữu-xứ làm Tối-thượng-niết-bàn.  Nhưng cảnh giới nầy là quả báo của sự siêu việt tất cả tư tưởng hữu vi.  Khi thọ quả báo ấy, thân tâm tạm nghỉ, nhưng chủ thể của quả báo là cái “ta” do nhân duyên giả tưởng hòa hợp vẫn còn.  Mà còn cái “ta”, tức là còn mầm mống của sự khổ não.  Thái-tử biết đạo lý nầy cũng chưa phải là nguồn cứu cánh giải thoát, nên từ biệt tiên-nhơn ra đi.  (Phật-Học-Đại-Cương)

Sau khi từ giã nơi đây, Thái-tử lại đi đến chỗ tiên-nhơn Uất-Đà-La-Ca-Ma-Tử (UdrakaRàmaputra) ở khu rừng ngoài thành Vương-Xá (Ràjagrha), mà hỏi rằng:  “Làm thế nào để đoạn được sanh-tử?”  Tiên-nhơn Đáp:

Nguồn gốc muôn loài
Do bởi minh sơ
Từ nơi minh sơ
Mà sanh ngã mạn
Từ nơi ngã mạn
Sanh ra si tâm
Từ nơi si tâm
Mới có ngã ái
Từ nơi ngã ái
Sanh năm vi trần
Từ năm vi trần
Mà có ngũ đại
Từ nơi ngũ đại
Sanh tham, sân, si
Rồi do bởi đó
Mới có luân hồi
Sanh, già, bệnh, chết
Buồn, khổ, thương, lo
Nay tôi vì ngài
Nói lược đại khái. 

Thái-tử lại Hỏi:  “Đó là nguồn gốc sanh-tử, theo chủ thuyết của tiên trưởng; còn phương tiện dứt trừ phải làm thế nào?”  Tiên-nhơn Đáp:  “Muốn đoạn trừ sanh-tử, phải xuất-gia, giữ giới, nhẫn nhục khiêm ty, lìa những điều ác, ở chỗ vắng vẻ, tu tập thiền định.  Do công tu tập lâu ngày, tâm yên tĩnh, có giác có quán, được vào Sơ-thiền.  Kế đó trừ giác quán, định tâm thêm thuần, lòng được hoan hỷ, vào Nhị-thiền.  Rồi bỏ hoan hỷ, chánh niệm, được sự vui nhiệm mầu, vào Tam-thiền.  Lại phải trừ tâm khổ vui, được tịnh niệm và xả căn, vào Tứ-thiền.  Nhưng Tứ-thiền chưa phải là giải thoát, phải tiếp tục trừ sắc tưởng, được Không-xứ-định; dứt hữu đối tưởng, được Thức-xứ-định; diệt vô lượng thức tưởng duy quán một thức, được Vô-sở-hữu-định; lìa các thứ tưởng, được Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-định.  Đó là cứu cánh giải thoát, là bỉ ngạn của người tu”.  Thái-tử Hỏi:  “Môn định Phi-phi-tưởng của tiên trưởng nói, có ta hay không ta?  Nếu không ta thì chẳng thể gọi là Phi-phi-tưởng.  Nếu có ta thì cái ta ấy có biết hay không biết?  Nếu không biết tất đồng với gỗ đá, có biết thì tâm phan duyên.  Tâm đã theo duyên tất có nhiễm trước, và đã nhiễm trước thì đâu phải là giải thoát?”

Tiên-nhơn nghe nói lặng thinh.  (Kinh Quá-Khứ-Hiện-Tại-Nhân-Quả)