Trong giáo lý đạo Phật, 37 phẩm trợ đạo là thành phần rốt ráo nhất giúp hành giả đoạn diệt mọi tham chấp phiền não, vô minh. Thành phần này là con đường chính trong Tứ Diệu Đế mà được biết là đạo đế; 37 phẩm trợ đạo được chia ra như:
– Tứ Niệm Xứ
– Tứ Chánh Cần
– Tứ Như Ý Túc
– Ngũ Căn – Ngũ Lực
– Thất Bồ Đề Phần
– Bát Chánh Đạo
Đối với pháp môn Tịnh Độ, 37 phẩm trợ đạo lại được xem là phương tiện trợ duyên tác động thêm năng lực cho người niệm Phật. Vì tu niệm Phật phải có đủ ba tư lương là Tín, Nguyện, Hạnh và để có được tín tâm vững chắc làm nền tảng cho Nguyện và Hạnh hẳn phải thông hiểu phần nào thành phần 37 phẩm trợ đạo làm căn bản trên đường tu niệm.
Sau đây xin đi vào từng thành phần một, trong cái hiểu đại cương của người niệm Phật.
1) Niệm Phật với Tứ Niệm Xứ
Tứ Niệm Xứ được đức Phật dạy là pháp môn quan trọng, giúp hành giả quán xét được tính chất của kiếp sống con người về thân và tâm.
Nghĩa của Tứ Niệm Xứ là bốn điều ghi nhớ, quan sát hay còn gọi là bốn lãnh vực cần ghi nhận.
Bốn điều ấy là:
– Quán thân bất tịnh
– Quán tâm vô thường
– Quán pháp vô ngã
– Quán thọ thị khổ
a) Quán thân bất tịnh để đừng quên niệm Phật
Trong kinh Vô Lượng Thọ đức Phật có giảng cho các hàng đệ tử nghe về y báo và chánh báo ở cõi Cực Lạc. Nói về chánh báo là hình tướng thân thể của các bậc thượng nhơn, tất cả đều được hóa sanh từ ao sen thất bảo, đầy đủ cả ba mươi hai tướng tốt, thân tâm thường nhu nhuyễn thanh tịnh. Lại theo lời nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng tức tiền thân của Phật A Di Đà trong quá khứ: “Ví con được thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước con nếu chẳng được thân kim cương Na La Diên, thời con không thành bậc chánh giác (26).” Nay thì Ngài đã thành Phật tính hơn đã mười kiếp theo trong kinh A Di Đà. Vậy điều nguyện của Ngài đều đã thành tựu và tất cả là sự thật.
Sắc thân kim cương, trang nghiêm thanh tịnh như thế hẳn phải khác rất nhiều so với thân thể con người ở cõi Ta Bà được kết tinh bằng tinh huyết của cha mẹ tạo thành. Như thế suy ra được thân thanh tịnh vậy là do phước báo, phát sanh từ sự tu hành, thanh lọc ba nghiệp thân khẩu ý.
Chúng ta mang xác thân máu mủ này là cũng do phước báo, nghiệp báo mà ra. Nghiệp báo có thiện có ác, nghiệp thiện là sự may mắn ta vẫn còn mang được thân người, vì trong lục đạo (thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) thân người khó được, mà nay ta đã được. Nghiệp ác là ta đã vụng tu trong muôn kiếp, để phải trôi nổi mãi cho đến nay mới thức tỉnh nhận ra thân người là khổ là ô uế.
Vậy để tìm phương pháp xa lìa thân bất tịnh này, ta hãy nghĩ về thân kim cương, thanh tịnh của các vị thượng thiện nhơn ở cõi Cực Lạc. Nghĩ mong được như thế chỉ có cách là phải sanh về nước đó, và con đường về Cực Lạc đã được đức Phật Thích Ca chỉ bày; lại có đấng từ phụ A Di Đà đang đưa tay đón nhận, chúng ta chỉ việc cất bước đi thôi.
Trì danh niệm Phật, thật tướng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật… là phương tiện vận chuyển cho chúng ta sanh về đất Phật.
Đối với pháp quán thân bất tịnh ai cũng thấy hiểu, rõ ràng thân người chứa đựng cả một túi đồ dơ ghê tởm. Chính sự nhận ra việc thân bất tịnh này mà nên nhàm chán cầu cho được thân thể bằng chất kim cương trong sáng. Để được như vậy phải nhiếp tâm niệm Phật, quán chiếu về thân thể. Quán chiếu để thấy rằng thời kỳ hư hoại, bệnh chết của thân đang dần dần phát triển trong thân thể, và nay mai đây một điều chắc chắn thân ta sẽ bệnh, sẽ chết, sẽ sình ươn, hôi thối, ghê tởm không ai dám nhìn.
Quán sát nhận hiểu được như vậy, câu niệm Phật của ta mới phát được định lực. Mỗi khi thân di động, đi, đứng, nằm, ngồi ta đều rõ biết. Rồi lấy câu niệm Phật để giữ gìn mỗi động tác, khiến cho thân đi trong câu niệm Phật, đứng trong câu niệm Phật, nằm trong câu niệm Phật, ngồi trong câu niệm Phật. Niệm một câu Phật ta nhận ra rằng thân này là bất tịnh. Niệm hai câu Phật ta hiểu được rằng thân này là một đảy đựng đồ dơ, và càng niệm nhiều câu Phật, ta càng thấy rõ cái thân sống này toàn là thứ ô trược không có gì đáng ưa muốn.
Khi thấy lẽ thật đó rồi, ta càng chí tâm niệm Phật mạnh hơn nữa để cầu mong đạt được thân kim cương bất hoại.
Lòng chí thành tha thiết đó tạo cho việc định tâm, nhiếp niệm thêm vững vàng. Bây giờ ta chỉ còn một niệm ở vào câu Phật cho đến bất loạn. Nhờ vậy t hân tâm ta sẽ đi vào câu niệm Phật một cách nhẹ nhàng nhất tâm.
b) Quán tâm vô thường để tinh tấn niệm Phật
Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay vì ôm chấp cái giả dối, hư vọng của muôn sự muôn vật. Xem tâm này là thật có, là bất diệt… Vì sự ngoan cố bám chặt c ho tâm là thật là trường tồn, trường cửu. Từ đây sinh ra bảo thủ, chấp chặt sở kiến của mình, rồi phân biệt mọi người đều có tâm riêng biệt không thể hoán chuyển được. Do đó tạo ra muôn nghiệp. Nghiệp quá khứ chưa trả hết, nghiệp hiện tại lại chất chồng rồi tiếp tục làm nhân cho nghiệp tương lai. Cứ thế mà trôi lăn không sao thoát ra được vòng kiềm tỏa của sinh tử.
Để phá vỡ sự mê lầm vọng chấp về tâm là thật có, Phật dạy về phép quán tâm vô thường. Hiểu tâm vô thuờng để thấy rằng tâm con người ta luôn luôn chuyển dời, biến đổi tạo ra không biết bao tư tưởng sai biệt. Nay nghĩ này mai nghĩ khác. Khi gặp cảnh đẹp việc vui tâm sanh mừng ham thích. Gặp cảnh xấu việc buồn tâm buồn giận, sầu lo. Trong một ngày tâm khơi động không biết bao nhiêu lần cứ lăng xăng, rộn ràng như khỉ gặp rừng cây, như ngựa sẩy cương trên đồng trống. Kìm hãm được sự giao động, nhộn nhịp của tâm là việc rất khó. Cũng vậy mà trong kinh Mạ Ý dạy rằng: “ Làm trăm ngôi chùa Phật không bằng làm sống một người. Làm sống người trong mười phương thiên hạ không bằng gìn giữ tâm ý một ngày (27).”
Nay muốn dừng lại cái tâm lăng xăng, vô thường ấy ta phải tìm về cái chân tâm, thực tại. Dùng câu niệm Phật để nhiếp phục những giao động của vọng tâm, gột sạch những vọng tưởng điên đảo mà từ lâu nay đã dung dưỡng trong tâm, tự cho cái ta này là thật có, lại nghĩ rằng mọi người đều có một số mạng an bày…
Khi chí tâm niệm Phật, ta sẽ ngừng lại nhịp đập của vọng tâm, cùng theo đó những ác tâm trong ta sẽ mờ dần cho đến khi mất hẳn. Bấy giờ trong tâm ta chỉ cò n câu niệm Phật. Vậy thì dùng câu niệm Phật chẳng những gạt bỏ được việc điên đảo vọng tưởng của tâm mà còn huân tập vào tâm thức chủng tử Phật.
Như thế quán tâm vô thường để tự dứt trừ tri chướng chấp vào bản ngã là trường tồn, và rồi sẽ quay về với bản tâm chân thật bằng sự nhiếp niệm vào hồng danh Phật. Cuối cùng hòa nhập vào tự tánh chơn thường không sanh không diệt như đi vào tâm Phật.
c) Quán pháp vô ngã để nhiếp tâm niệm Phật
Pháp được hiểu là mọi sự mọi vật, những gì có hình tướng, tên gọi hay cả nh ững việc không nhìn thấy được, rờ mó được mà chỉ nhận thức bằng tư duy, tất cả cũng đều gọi là pháp.
Con người chúng ta sở dĩ có vui buồn, thương ghét, yêu, giận… là do sự nhận thức sai lầm về các pháp. Nhìn nhận pháp thật có là nguyên nhân tạo ra phiền nã o, bởi phải sống chết với sự mất còn của chúng.
Thử nhìn xem cõi Tà Bà này mọi vật đều ở trong vòng tương đối, giả tạm, vô thường. Tất cả đều nương nhau để hình thành, tồn tại nhưng rồi cũng phải tan vở để tiếp tục tồn tại bằng dạng thức khác cứ như vậy mãi đến vô cùng. Tìm đâu thấy sự vật, sự việc nào là thật có, khi chúng phải trải qua bốn thời kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không (sanh ra, có được, tồn tại thời gian nào đó, thời kỳ hư hại, tan rã mất đi) .
Ngày xưa khi Ngài Xá Lợi Phất còn là ngoại đạo, chỉ nghe q ua câu nói của Tỳ Kheo A Thị Thuyết lập lại từ lời dạy của đức Phật “Các pháp do nhân duyên sinh, và cũng lại do nhân duyên diệt” mà giác ngộ tức thời. Phải chăng câu nói ấy quá đầy đủ để không còn gì biện minh cho cái giả dối của các pháp.
Luận Trí Độ cũng đã nói “Các pháp từ nhân duyên sinh, không có bản tánh, không có tự tánh nên rốt ráo là không. Đã rốt ráo là không, thì các căn bản từ xưa đến nay là không, đó chẳng phải Phật làm, cũng chẳng phải người khác làm (28).”
Vậy thì xưa nay vì không hiểu các pháp, hay nói rõ là mọi sự, mọi vật là giả cho nên chúng ta phải đau khổ khi bị lệ thuộc với chúng quá nhiều. Nói một cách sâu hơn nữa, ngay chính giáo pháp chúng ta học đây cũng không là tuyệt đối. Vì Phật đã dạy hãy xem như chiếc bè đưa qua sông, hãy xem như ngón tay chỉ mặt trăng. Chỉ khi qua đặng sông mới là thật, cũng như nhìn mặt trăng mới là tự tánh.
Nhận được cái giả của pháp rồi, chúng ta sẽ không còn kẹt nhiều vào sự đối đãi, và khi thực hành một việc nào, ta vẫn xem đó là phương tiện để đạt đến cứu cánh thanh tịnh.
Với công phu niệm Phật dựa vào tướng pháp vô ngã, ta sẽ dễ định tâm, không còn phải lo lắng quan tâm đến những vọng động, lăng tăng nhảy múa trong tâm tưởng xen vào câu niệm Phật hay những ngoại cảnh âm thanh khuấy động, rộn ràng lấn át đi tiếng niệm Phật. Từ đó công phu niệm Phật dễ dẫn đến nhiếp tâm hơn.
d) Quán thọ thị khổ để tha thiết niệm Phật hơn
Chân lý của khổ đến từ nguyên nhân thọ mạng này. Hễ có thân là có khổ, vì khổ do sự thọ nhận của thân. Dù là một niềm vui một điều hạnh phúc, một việc dễ chịu cũng vẫn là khổ. Bởi vì sự vui, hạnh phúc, dễ chịu kia không thể kéo dài lâu được. Nên khi mất đi sẽ để lại đau khổ. Nói đúng ra ngay trong lúc vui đã ngấm ngầm có mặt sự khổ trong đó.
Trong kinh Tương Ưng Bộ III, Phẩm Gánh Nặng Phật dạy “Này các Tỳ kheo, thế nào là gánh nặng? Năm thủ uẩn là câu trả lời. Thế nào là năm? Sắc thụ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này các Tỷ kheo, đây gọi là gánh nặng (29).”
Việc thọ nhận lớn nhất là mang thân này, mà đức Phật đã dạy là một gánh nặng. Chính gánh nặng này đã làm xao động tâm tư gây ra bao xung đột trong tâm thức.
Vậy quán thọ thị khổ cho chúng ta hiểu rằng, sự khổ đến từ sự thọ lãnh, thọ nhận. Việc thọ nhận thân ngũ ấm đã đành là khổ rồi, chúng ta còn lãnh t họ biết bao sự việc chung quanh, chẳng hạn của cải, địa vị, công danh…những lãnh thọ này làm cho gánh nặng của ta vốn đã nặng lại càng thêm nặng.
Người thực hành pháp niệm Phật, dùng câu niệm Phật làm hành trang, mà không phải mang theo những gánh nặng của trần cảnh Ta Bà. Lại quán tưởng đến cảnh giới Cực Lạc trang nghiêm, nơi ấy không có sự lãnh thọ, thọ nhận những gánh nặng ô trược ở cõi Ta Bà nơi ta đang ở. Quán tưởng và niệm Phật luôn luôn để gánh nặng trong ta, ngoài ta được nhẹ nhàng thanh tịnh. Thực hành được như vậy sẽ thấy an vui trong câu niệm Phật như lời Phật dạy tiếp theo: Phẩm Gánh Nặng “ Này các Tỳ Kheo thế nào là đặt gánh nặng xuống? Đây là sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ. Này các Tỳ Kheo, đây gọi là đặt gánh nặng xuống (30).” Do đó quán thọ thị khổ để thức tỉnh diệt đi sự tham muốn, là làm vơi đi gánh nặng của kiếp người như Phật đã dạy. Và ở đây câu niệm Phật lại là hành trang thay thế tất cả để hướng về một thế giới thanh tịnh trang nghiêm hơn.
2) Niệm Phật với Tứ Chánh Cần
Tứ Chánh Cần là bốn phương pháp siêng năng bỏ ác, làm lành đúng theo chánh pháp. Bốn pháp ấy là:
– Siêng năng ngăn chặn điều xấu ác chưa phát sanh
– Siêng năng dứt trừ điều xấu ác đã phát sanh
– Siêng năng làm phát sanh những điều tốt chưa phát sanh – Siêng năng tiếp tục làm phát sanh các điều lành đã phát sanh
a) Niệm Phật ngăn chặn điều xấu ác chưa phát sanh
Tâm ý con người hằng ngày trong đời sống thường hay bị vọng động, vì luôn phải đối diện mọi lo toan, mưu cầu cho cái sống. Từ cái lo lắng này, chúng ta đã ít nhiều chứng kiến hay kinh nghiệm bản thân qua những phiền não trong đời. Tác ý phiền não đó, len lỏi vào trong tâm tư, tư tưởng tạo thành một hòm chứa đầy toan tính, lo liệu. Tuy nhiên cũng có ý niệm tốt lẫn lộn trong ý niệm xấu. Dữ kiện rối ren đó chỉ chờ thời cơ hay được phép, tức thời sẽ bộc phát. Do vậy càng chứa nhiều toan tính trong đầu, sự bộc phát càng có dịp nhảy xô ra. Nhưng chứa đựng nhiều tư tưởng, ý nghĩ đẹp lành thì tốt, ngược lại ng uy hiểm vô cùng.
Chúng ta hay nghĩ rằng, đây chỉ là một ý niệm xấu thoáng dấy lên đầu, có chi mà lo sợ! Điều này không đơn giản như vậy. Vì nếu để ý niệm kia nằm mãi trong đầu thì một lúc nào đó chắc chắn sẽ bộc phát và biến thành hành động. Nhìn xem trong cuộc sống, chẳng có gì xảy ra mà tự nhiên cả. Mọi việc đều có thời có lúc, có nguyên nhân. Chẳng hạn nhà văn sĩ muốn viết một tác phẩm, trước hết nhà văn phải bắt đầu có manh nha, nhen nhúm trong đầu những hình ảnh mình cố đặt ra. Rồi cố nuôi giữ mãi cho đến khi chín muồi để bày tỏ lên trang giấy .
Như thế ở điều đầu tiên trong bốn phép Chánh Cần chúng ta phải cố gắng làm sao ngăn chặn những ý niệm xấu ác vừa mới tượng hình trong đầu hay điều sai lầm tội lỗi nào mà trước đây ta chưa bao giờ phạm, lại cố gắng diệt trừ ngay khi nó vừa chớm nở.
Với người thực hành pháp niệm Phật, thì danh hiệu Phật là phương tiện ngăn chặn ý tưởng bất thiện. Cố làm sao câu niệm Phật tuôn chảy mãi như nước trong nguồn không đứt đoạn, như vậy mảng đá xấu ác sẽ bị xoáy mòn, không có cơ hội tồn tại.
Ta cũng nên hiểu quan niệm ác theo căn bản đạo Phật không chỉ là hành động đánh đập giết chóc… mà ác chính ngay ở ba độc Tham, Sân, Si. Từ ba độc này tạo ra nghiệp tội.
Một lời nói, một sự im lặng cũng có thể là thiện và cũng có thể là ác. Nói lời đâm thọc, chỉ trích khiến người phải đau khổ dẫn đến quyên sinh. Im lặng không phản ứng, thông cảm, chia xẻ như trách cứ, trút hết nỗi thống khổ lên đầu người cũng đưa đến sự bứt tử, chết oan… Do đây việc ác cũng có thể xảy ra từ một hành động xem rất thường như vừa kể. Thế nên dùng câu Phật hiệu để chế ngự ba độc, thanh lọc tư tưởng diệt đi xấu ác đang ngấm ngầm nẩy sinh trong ta.
b) Niệm Phật dứt trừ điều xấu ác đã phát sanh
Đã là người ai cũng có lỗi, và ít nhiều hơn một lần gây ra phiền hà, đau khổ cho người hay chính mình. Nhưng con người quý nhất ở việc biết sám hối, biết hổ thẹn để chuộc lại lỗi lầm. Có sám hối, biết hổ thẹn, chúng ta mới dễ chịu, nhẹ nhàng thân tâm khi đã tự nhận tội lỗi của mình. Kinh Tâm Địa Quán nói “Nếu như pháp mà sám hối thì tất cả phiền não thảy đều tiêu trừ. Cũng như lửa kiếp làm hoại thế gian, thiêu đốt núi Tu Di luôn biển cả. Sám hối có thể thiêu đốt rừng phiền não. Sám hối có thể vãng sanh về cõi thánh. Sám hối có thể được vui tứ thiền. Sám hối là mưa bảo châu ma ni. Sám hối có thể sống lâu như kim cang. Sám hối có thể vào được cung điện thường lạc. Sám hối có thể ra khỏi ngục tam giới. Sám hối có thể làm hoa Bồ Đề nở. Sám hối có thể được gương tròn lớn của Phật. Sám hối có thể đến chổ bảo thành (31).” Riêng nói về người không biết sám hối, ăn năn sẽ phải đau khổ mãi vì không ai thông cảm, thương hại. Cũng như chính bản thân sẽ bị dày vò, dằn vặt đến cả cuộc đời.
Hổ thẹn cũng vậy, biết hổ thẹn chúng ta không dám tái phạm những lỗi lầm đã tạo ra. Kinh Di Giáo, Phật dạy “ Người có hổ thẹn thì có thiện pháp, nếu người không biết hổ thẹn cùng với những loài cầm thú không khác chút nào vậy (32).”
Như thế việc ta hiểu rằng, khi đã lỡ tạo ra những sai lầm thì ta phải tự cố gắng sám hối, hứa lấy sẽ không tái phạm nữa. Và một khi tư tưởng có móng lên việc xấu ác ta liền biết ngay đây là việc sai ta đã phạm rồi, nay không dám tạo tác nữa. Thêm một điều giúp ta ngăn chặn và dứt trừ được việc xấu ác là nên suy tìm nguyên nhân, đưa ra hậu quả sẽ xảy ra nếu ta hành động. Vậy trong lúc suy niệm, phán xét chắc chắn có thể kịp thời phá được ý tưởng xấu kia.
Cũng như pháp đầu của Tứ Chánh Cần, dùng danh hiệu Phật để ngăn chặn, tiêu diệt ý tưởng sai lầm, đang chóm nở trong đầu, thì ở pháp thứ hai này ta vẫn duy trì danh hiệu Phật để gội rửa và sám hối những ác nghiệp đã lỡ gây ra trong quá khứ và hiện tại.
c) Niệm Phật để làm phát sanh những điều tốt chưa phát sanh
Trong hai pháp đầu, chúng ta cố gắng ngăn ngừa và dứt trừ, ngược lại ở pháp này và pháp cuối, ta lại gắng làm phát sanh, tạo cho việc này sẽ tiếp tục vậy mãi. Điều gắng làm phát sanh hẳn phải là điều thiện, pháp lành.
Như ta biết tư tưởng có xấu, có tốt chúng được huân tập mãi trong đầu. Vậy nếu được thanh lọc, chọn lựa để tích trữ, ứng dụng thì đây là việc đáng làm kh i chọn điều hay ý đẹp. Có cố gắng sáng tạo những hình ảnh đẹp, hình ảnh lành hợp với Phật pháp; nuôi dưỡng ý niệm thiện lành như thế, thì cơ hội phát sinh thể hiện ra bên ngoài sẽ dễ dàng đối với chúng ta.
Người mà có được ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh hẳn là người luôn nuôi dưỡng và sáng tạo những thiện niệm trong tâm tư. Do đó có thể hiểu rằng làm phát sinh thiện niệm là tự làm cho ba nghiệp mình được an lành trước nhất. Tiếp theo từ sự an lạc đó, ý niệm thiện lại càng tăng thêm.
Với việc niệm Phật lúc này, là động cơ giúp ta phát triển điều lành một cách tích cực hơn. Bởi vì khi niệm Phật có nghĩa là niệm ý tưởng lành. Một câu Phật khởi lên một điều lành được hun đúc. Nhiều câu Phật phát sanh, nhiều niệm lành sanh khởi, và cứ như vậy điều lành sẽ được thể hiện qua tâm niệm Phật giống như tâm nghĩ thế nào thì hành động như thế đó.
d) Niệm Phật để luôn tiếp tục làm phát sanh những điều lành đã phát sanh
Có lẽ không có ai tự hào rằng tôi đã làm quá nhiều việc tốt lành, và đời tôi không có chi là xấu ác. Nếu người nào được như vậy bằng sự thật thì người đó phải là Thánh nhân. Nhưng thật ra các vị Thánh nhân cũng vẫn thấy việc làm lành hướng thượng cũa các Ngài vẫn chưa đủ. Như vậy so với chúng ta những phàm nhân, chậm lụt đâu lẽ nào dám ngưng việc làm lành hướng thượng, hay tự cho mình đã làm đủ rồi! Nhìn ngược về quá khứ, chúng ta đã từng nghe nói các vị Thánh nhân, đức trọng luôn luôn tinh tấn siêng năng cho đến cuối cuộc đời. Trong Luật Sa Di có nhắc Ngài Hiếp tôn giả cả một đời không đặt lưng dính chiếu . Ở Ấn Độ có Thánh Gandhi hy sinh trọn đời làm việc của ông cho lý tuởng hòa bình, bất bạo động. Ngọn đuốc tràn đầy từ bi, trí tuệ của Hoà Thượng Thích Quảng Đức phải chăng đã đến từ sự đại tinh tấn, hằng nuôi dưỡng dòng thiện niệm, và còn biết bao vị cao tăng ẩn danh cho đến khi lặng lẽ viên tịch ở một nơi nào đó mà không ai hay biết.
Do vậy ở pháp cuối trong bốn pháp Chánh Cần này, Phật dạy chúng ta phải cố gắng phát triển mãi những ý niệm thiện, và chính nhờ sự gia công luôn luôn này, những ác niệm không có chỗ đứng trong đầu của ta; cũng như việc làm lành mới được viên mãn. Và người thực hành công phu niệm Phật sẽ làm luân lưu mãi dòng nước thiện niệm bằng danh hiệu Phật chảy mãi đến cuối cuộc đời trong niềm an lạc hạnh phúc.
3) Niệm Phật với Tứ Như Ý Túc
Tứ Như Ý Túc còn gọi là bốn pháp thần túc, là pháp thiền định làm phương tiện, đạt được như ý muốn cũng như bốn phép thần thông vậy. Bốn pháp ấy là:
– Dục Như Ý Túc
– Tinh Tấn Như Ý Túc
– Nhất Tâm Như Ý Túc
– Quán Như Ý Túc
a) Niệm Phật với Dục Như Ý Túc
Phàm làm người ai cũng có khao khát, mong muốn mọi điều cho cá nhân. Nhưng sự mong muốn, khát vọng này mang lại ý nghĩa thế nào cho bản thân cuộc sống liên quan đến gia đình, xã hội mới là điều quan trọng.
Dục Như Ý Túc là mong muốn, khao khát, ước ao một điều gì cho thành tựu. Đương nhiên điều mong muốn này đối với người Phật tử phải là điều mong muốn chân thật, thanh cao, chớ không phải là sự mong muốn xuôi theo đòi hỏi của dục vọng.
Người để vọng tình ham muốn làm chủ thân tâm, thì dù việc gì cũng dám l àm, không còn nghĩ đến nhân quả, nghiệp báo chi cả. Đây không chỉ nói người không có đạo mà cả luôn người có đạo cũng vậy, cho đến tu sĩ không khác.
Hễ ham muốn sai quấy dẫn đến kết quả xa đọa. Hậu quả có khi lại không đợi đến kiếp sau, đời tới mà ngay lúc hiện tại phải chịu nhiều đau khổ từ sự ham muốn sai lạc mà ra.
Với sự ham muốn thanh cao, tươi sáng hạng người nào cũng được kết quả an vui tươi đẹp. Có khi kết quả lành ấy đến ngay, mặc dù điều mong muốn kia vẫn còn nằm trong tư tưởng. Ví dụ ta chỉ vừa khởi tâm mong muốn giúp người, thì tâm hồn ta ngay lúc ấy đã có niềm hỷ lạc rồi.
Người thực hành pháp môn niệm Phật trong sự mong muốn này lại càng tha thiết hơn. Ví như người thường mong muốn việc gì đã khắc ghi vào tâm khảm, rồi giữ mãi sự khát khao này t rọn cuộc đời, thì người niệm Phật cũng y như vậy. Có thế công phu niệm Phật mới thành tựu như ý.
b) Tinh tấn Như Ý Túc trong pháp niệm Phật
Một khi đã mong muốn ước ao điều gì, chúng ta phải luôn luôn cố tâm đeo đuổi cho bằng được. Người niệm Phật áp dụng vào pháp Tinh Tấn Như Ý Túc, không khác gì thiền định. Phải cố gắng khắc phục nội tâm, ngoại giới nhiếp tâm vào danh hiệu Phật không để gián đoạn.
Nếu pháp thiền định theo dõi được thân tâm trong mọi động tác đi, đứng, nằm, ngồi với chánh niệm; thì người niệm Phật cũng sống thở với danh hiệu Phật trong từng động tác.
Sự công phu vào những giờ giấc thiền, niệm nhất định chưa thể gọi trọn vẹn là sự Tinh Tấn Như Ý Túc. Tinh Tấn Như Ý Túc là phải luôn luôn đeo đuổi, như con đeo mẹ, như mèo rình chuột. Kinh Di Giáo Phật dạy “ Ví như giọt nước chảy luôn có thể soi thủng phiến đá. Nếu như tâm của hành giả thường thường biếng nhác bỏ bê chẳng khác nào kéo lửa chưa nóng mà ngưng, tuy muốn được lửa, lửa cũng khó được (33)”
c) Nhất tâm như ý túc trong pháp niệm Phật
Dù làm bất cứ công việc gì, muốn được thành tựu như ý thì phải chú tâm. Việc hành trì Phật pháp lại càng nhất tâm hơn nữa. Huống chi tâm là nguyên nhân, nguồn gốc sanh ra các pháp. Kinh Tâm Địa Quán, Phật dạy “… Ba cõi lấy tâm làm chủ. Người hay quán sát tâm mình thì được Niết Bàn rốt ráo. Kẻ không hay quán sát tâm mình thì sẽ chìm đắm trong biển khổ …(34)” Vậy quán sát, nhiếp tâm vào chánh định là thực hành được Nhất Tâm Như Ý Túc. Người niệm Phật cũng thế, nắm giữ danh hiệu Phật ngày đêm không xao lãng, không phân tâm với ngoại cảnh duyên trần. Hành trì như thế đến khi nhất tâm, sẽ không còn thấy tâm mình khác tâm Phật như kinh Quán Phật có dạy “ Nếu hay chí tâm giữ niệm, nội tại đoan chánh quán sắc thân Phật, cùng với Phật không khác, tuy ở trong phiền não cũng không bị điều ác che lấp, ở đời vị lai mưa pháp vũ lớn (35).”
d) Quán Như Ý Túc trong pháp niệm Phật
Đến đây pháp còn lại của Tứ Như Ý Túc là Quán, nghĩa là chiêm nghiệm, tư duy quán sát các pháp. Nhờ trải qua ba pháp đầu: mong muốn, siêng năng, nhất tâm không loạn, cho nên việc quán sau có phần lưu thông. Nếu không có được ba pháp đầu thì không làm sao quán được. Điều này có nghĩa ta cần có trí tuệ từ việc định tâm chuyên nhất, tinh tấn mà ra.
Quán sát các pháp sinh diệt để đạt đến thật lý vô thường của vạn pháp. Từ đây sẽ giúp cho hành giả thấu rõ vững chắc nơi pháp mình đang tu.
4) Niệm Phật với Ngũ căn, Ngũ lực
Ngũ căn là năm căn, năm phần căn bản, cội rễ phát sinh ra thiện pháp. Năm phần đó là:
1. Tín căn
2. Tinh tấn căn
3. Niệm căn
4. Định căn
5. Huệ căn
a) Niệm Phật cần có Tín căn
Trong năm căn, Tín căn được đặt trước tiên, điều này cho thấy tin là bước đầu tiên hành trì mọi pháp. Trong kinh Phạm Võng có nói “ Tất cả các hạnh lấy tin làm đầu. Tin là cội gốc của các công đức (36)”. Cũng không kể là pháp sâu cạn, cao thấp nếu không có lòng tin việc tu hành sẽ không thành đạt. Kinh Tiểu Địa Quán dạy “Vào biển Phật Pháp, lòng tin là gốc…(37)”. Nhưng lòng tin ở đây phải đến từ lý trí sáng suốt, hiểu biết minh mẫn, hẳn không phải là tin càng, tin bướng một cách mù quáng, vô minh. Kinh Niết Bàn dạy “Tin mà không hiểu vô
minh thêm nhiều. Hiểu mà không tin, tà kiến thêm lớn (38).”
Ở pháp Tín căn đây, nhắc người Phật tử trước khi vào biển Phật phải có niềm tin căn bản. Niềm tin căn bản này là tin ba ngôi Tam Bảo, là Phật, Pháp, Tăng.
Tin Phật: Là đấng vẹn toàn về đức tánh Hùng lực, Từ bi, Trí tuệ. Ngài không phải là vị thần linh, ban ơn, giáng họa hay bậc Thánh thần để ta thờ cúng van xin, mà chỉ đơn giản tin rằng Phật chỉ là một con người thanh tịnh, giác ngộ hoàn mỹ. Tin như vậy để thấy rằng chúng ta cũng có tánh giác như Phật, nhưng chỉ khác Phật ở chỗ chúng ta chưa được hoàn mỹ mà thôi.
Tin Pháp: Trí huệ của Phật là siêu việt thì giáo pháp, lời dạy của Phật phải là chân lý. Hơn nữa giáo pháp Ngài dạy không phải của riêng Ngài, giáo pháp ấy bàng bạc trong không gian vô tận và thời gian vô thỉ vô chung. Đức Phật chỉ là người giác ngộ từ giáo pháp ấy rồi dạy lại chúng ta. Do vậy giáo pháp đó là chân lý không phải thần kỳ, huyền hoặc.
Tin Tăng: Những đại đệ tử của Phật thật tu thật chứng nhiều vô số. Các Ngài đã thay Phật đem ánh sáng giác ngộ trải rộng đến muôn người muôn vật. Và cũng chính nhờ vậy mà giáo pháp muôn thuở ấy mới tồn tại mãi đến ngày nay.
Lược qua ba đức tin căn bản, người Phật tử sẽ vững vàng bước đi vào đạo mà không sợ vấp ngã.
Đối với pháp niệm Phật ở Tín căn, người niệm Phật phải xem đây là điều kiện tiên quyết. Bởi niệm Phật có nhất tâm hay không là do ở niềm tin xác đáng. Nay ta đã tin Phật Thích Ca, thì phải tin Phật A Di Đà, vì lời Phật dạy không bao giờ sai dối; và đã tin Phật A Di Đà thì lời nguyện tiếp dẫn của Ngài (Phật A Di Đà) hẳn phải là sự thật. Người niệm Phật tin được như thế, dẫn đến sự trì niệm thâm sâu hơn.
b) Tín căn trong pháp niệm Phật
Việc học, việc làm ở thế gian có được thành công, là do siêng năng cần cù, nhẫn nại không nản chí, thì việc học Phật là việc cao thượng tinh tế khó hành, không thể thiếu tánh đức siêng năng được.
Khi đã có được lòng tin vững chắc về ba ngôi Tam Bảo, người Phật tử phải tiếp theo dùng nghị lực tinh tấn của mình mà thực hành theo giáo pháp; nếu không niềm tin ấy chẳng mang một ý nghĩa gì. Vậy tính căn là sự siêng năng không ngừng nghỉ trên con đường đạo. Trong kinh Bồ Tát Bổn Hạnh, Phật dạy rõ ràng về lợi ích của tinh tấn. “… Người tại gia mà biết tinh tấn thì ăn mặc đầy đủ, sự nghiệp rộng lớn, xa gần được người tán thưởng khen ngợi. Người xuất gia mà biết tinh tấn, thì thành tựu được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dứt được trôi lăn sinh tử, được đến bến bờ Niết Bàn an vui (39).”
Niệm Phật đối với tính căn lại càng được đặt nặng hơn hết. Bởi vì rốt ráo việc niệm Phật là mong sao được nhất tâm trong câu niệm Phật, mà muốn được vậy phải luôn luôn tinh tấn niệm niệm tương tục; có nghĩa làm cho câu niệm kết nối nhau như dòng nước chảy không đứt đoạn. Và trong câu niệm đó chẳng những không mống khởi điều xấu ác, mà điều thiện lành cũng không có mặt. Niệm được như thế mới là tấn tu trong niệm Phật. Do vậy ta thấy rằng dù người Phật tử tại gia hay xuất gia đều phải tinh tấn hành đạo. Không gia công tinh tấn, thì mọi pháp môn tuyệt diệu, cao siêu nào đi nữa cũng là hư vọng. Ngược lại quyết tâm bền chí, tinh tấn pháp môn nào khó đến đâu cũng dễ thành công. Do đó tinh tấn là tối quan trọng là tối căn bản của người Phật tử
c) Niệm căn trong niệm Phật
Cuộc sống rối ren, hỗn độn hằng ngày ảnh hưởng rất nhiều vào tâm niệm con người. Từ đây là nguyên nhân sanh ra những thao thức, bất an chập chờn trong tâm thức. Ở xã hội văn minh không ai lại không ít nhiều bị lôi cuốn vào cuộc sống rối ren này.
Muốn dừng lại tâm niệm lăng xăng để hướng về tâm niệm đơn thuần, chúng ta chỉ có cách chuyển tạp niệm thành nhất niệm.
Niệm căn là niệm tưởng căn bản quy về thiện niệm, là sự ghi nhớ thuần chất quy về thiện pháp. Sự ghi nhớ này về một đối tượng thanh cao trong sáng đẩy lùi tạp niệm xấu xa. Hình ảnh đức Phật, giáo lý giải thoát là mục tiêu để tăng trưởng niệm căn được thành tựu.
Hành trì niệm Phật là hợp nhất với pháp niệm căn thanh tịnh, vì niệm Phật là ghi nhớ pháp lành, là trau dồi ý tưởng đạt đến trạng thái trong sáng ở tâm h ồn.
Ghi nhớ niệm Phật còn được chư Phật hộ niệm, giao cảm như lúc nào cũng gần gũi với Phật. Trong kinh Niết Bàn Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: “ Nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ thường hay chí tâm chuyên niệm Phật, hoặc ở núi rừng, hoặc ở thôn xóm, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc ngồi hoặc nằm, các đức Phật Thế Tôn thường thấy người này như trước mặt (40)”.
d) Định căn trong niệm Phật
Khi niệm căn được thuần thục, khắc ghi vào tâm các pháp lành ý thiện. Tâm thức của chúng ta bây giờ sẽ ngừng lại những lăng xăng, loạn động chỉ còn lại sự chuyên nhất vào pháp thanh tịnh. Giữ được trạng thái an lạc nhất như này gọi là định căn. Công năng của định căn đào luyện con người có được tính tập trung, khả năng chịu đựng, sự nhận định sáng suốt. Kinh Di Giáo Phật dạy “… Nếu người nhiếp tâm thì tâm ở trong định, nên có thể biết được pháp tướng sanh diệt trong thế gian. Thế nên các ông phải thường tinh tấn tu các thiền định, nếu được định rồi thì tâm không còn tán động. Ví như người giữ nước, khéo giữ đê điều. Cũng thế hành giả vì nước trí huệ, khéo tu thiền định khiến cho không bị chảy mất .(41).”
Người niệm Phật chuyên tâm vào hồng danh Phật cũng sẽ được chánh định không khác gì thiền quán. Bởi vì lìa tán loạn an trú vào một chỗ đạt đến thanh tịnh là được chánh định, mà niệm Phật là niệm pháp lành, pháp thiện để đạt được định tâm cho nên không khác vậy. e) Niệm Phật với tuệ căn
Từ ghi nhớ các pháp lành (niệm căn) đến được an tịnh (định căn), tới đây tư tưởng sẽ bừng sáng, trong lành không còn ô nhiễm, do đó dẫn đến tuệ căn.
Tuệ căn là căn tánh trí tuệ tinh khiết, sáng suốt trong đó không có sự phân biệt mê lầm vọng động. Vì thế với tuệ căn sáng suốt ta có thể thực hành quán sát nhận chân ra mọi việc thật hư, liên quan tới việc giải thoát sinh tử như kinh Trường A Hàm có dạy “Dùng trí huệ quán sát việc sống chết… (42)” Lại kinh Di Giáo đức Phật đã nhấn mạnh việc hệ trọng của người có trí huệ và không trí huệ “ Tỳ kheo các ông! Nếu người có trí huệ thì không có tham trước, thường tự tinh sát (suy xét) không để sanh ra tội lỗi. Thế là ở trong pháp của ta có thể được sự giải thoát. Nếu chẳng vậy, đã chẳng phải là bậc đạo nhân, lại cũng chẳng phải là kẻ bạch y (cư sĩ), không biết gọi là gì! Người có trí huệ chân thật, ấy là chiếc thuyền tốt có thể vượt qua biển già, bịnh, chết; cũng là ngọn đèn sáng chiếu phá cảnh tối tăm, mờ ám; là món thuốc hay trị tất cả các chứng bệnh, là lưỡi búa bén chặt đứt cây nghiệp phiền não… (43)”
Do vậy trí tuệ phải là quan trọng đối với người tu Phật. Người niệm Phật cũng cần có trí tuệ sáng suốt. Phải niệm Phật trong niềm tin vững chắc, phải xác nhận việc sinh tử là gốc luân hồi, và quan trọng hơn phải biết pháp tu niệm Phật viên dung cả lý và sự. Về lý: nên hiểu rằng tâm Phật và tâm ta không khác nhưng vì ta luôn sống trong động, nên chơn tâm không phát lồ được. Và khi đã thanh tịnh nhất tâm thì việc niệm Phật chỉ là việc khơi dậy Phật tánh mà thôi. Cũng như cõi Cực Lạc Tây Phương có cách xa cõi Ta Bà bao nhiêu cũng chỉ trong một niệm của ta. Do vậy trang nghiêm tâm niệm cũng là trang nghiêm cõi Tịnh Độ.
Về sự: Nếu cõi Ta Bà ta sống đây là thật, là huyễn thì cõi Cực Lạc cũng không khác, và việc sinh về Cực Lạc lại không khác gì việc con người bị luân hồi trở lại cõi Ta Bà này. Cũng thế, trở lại cõi Ta Bà do tâm niệm, thì được sanh về Cực Lạc cũng do tâm niệm mà ra. Cho nên cõi Cực Lạc cách đây mười vạn ức Phật độ vẫn là một cõi thực có.
5) Niệm Phật với ngũ lực
Ngũ lực là năm năng lực hùng mạnh có thể tạo dựng nên thiện pháp và phá trừ ác pháp. Năm sức mạnh này phát sinh ra là do sự vun bồi của năm căn (tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn), hay nói rõ hơn năm lực là sức mạnh của năm căn. Năm lực đó là: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và Tuệ lực.
Muốn thành tựu năm căn không thể thiếu năm lực. Trong kinh Ấm Trì Nhập (thuộc Đại Tạng Kinh) có nói về ngũ lực như sau: “…Có năng lực làm lợi lạc đạo ngày một thêm, ân đức gội nhuần đến khắp mọi loài chúng sanh ngày một rộng lớn. Lực nghĩa là dám làm như vào chỗ ma binh không hề hấn một mảy lông của Bồ Tát. Đạo lực hàng phục được ma vương, nên dám làm không sợ sệt… (44)”
Qua đó hiểu rằng ngũ lực là phương tiện hùng mạnh giúp ta thành tựu trên đường đạo. Với người niệm Phật, Ngũ lực là con thuyền vững chắc đạp sóng, lướt gió vượt tới bờ bên kia. Như thế phần nội dung, tính chất của ngũ lực chính là thần lực, sức mạnh của ngũ căn. Do đây có thể tóm tắc như sau:
a) Niệm Phật với tín lực
Nhờ vào năng lực hùng mạnh, niềm tin xác đáng, người niệm Phật sẽ kiên cố, vững chãi trong việc thực hành. Cũng như phá tan đi những nghi hoặc, phiền não làm lui sụt đạo tâm.
b) Niệm Phật với tấn lực
Sức hành trì tinh tấn không thối chuyển, người niệm Phật vượt qua mọi sự giải đãi, hôn trầm, dã dượi và dần dà đạt tới chỗ nhất tâm. c) Niệm Phật với niệm lực
Năng lực khắc ghi vào tâm trí những thiện niệm có công năng phá trừ ác niệm. Người niệm Phật vững bền mãi với danh hiệu Phật trong tâm tưởng, do đó sẽ dẫn đến nhất niệm không rối loạn.
d) Niệm Phật với định lực
Sức tập trung tăng trưởng phá trừ được vọng tưởng, loạn động. Người niệm Phật không còn bị một chướng ngại nào kéo lôi, do vậy danh hiệu Phật được nhiếp niệm dễ dàng vào tâm ý.
e) Niệm Phật với huệ lực
Nguồn năng lực trí huệ sáng suốt, đạp phá hết vô minh tà vọng. Người niệm Phật dễ dàng đi sâu vào câu niệm Phật một cách rốt ráo.
6) Niệm phật với Thất Giác Chi
Thất Giác Chi cũng gọi là Thất Bồ Đề Phần, Thất Giác Ý, Thất Giác Phần nghĩa của pháp này là bảy phần tánh giác đưa người đạt đến quả Bồ Đề. Bảy phần ấy như sau:
1. Trạch pháp giác chi
2. Tinh tấn giác chi
3. Hỷ giác chi
4. Khinh an giác chi
5. Niệm giác chi
6. Định giác chi
7. Xả giác chi
Trong bảy phần này, phần Niệm, Tinh tấn, Định, mang ý nghĩa tương tự giống các pháp Niệm, Tinh tấn, Định trong Tứ Như Ý Túc, Ngũ căn, Ngũ lực. Do đó chỉ lược lại ý mà thôi.
a) Niệm Phật với trạch pháp
Như việc chọn lựa nghề nghiệp mưu sinh giải quyết nhu cầu căn bản cần có của đời sống, thì ở đây Trạch pháp cũng thế. Trạch pháp là sự lựa chọn một phương pháp tu hành đúng với lẽ đạo, chân lý. Nếu ai đó thất bại về việc chọn lựa sai lầm công việc, thì người làm đạo cũng sẽ mất hết công đức tu hành khi không có trí huệ phân biệt giữa chánh tà, chân vọng. Người đời chọn sai việc làm có thể thất bại trong một ngày, một năm, tùy theo công việc; gia sản có thể hao kiệt dẫn đến nghèo đói v.v… Nhưng người hành đạo nếu không trí huệ, tu hành lẫn lộn với chánh tà, không rõ chân lý thì hậu quả sẽ gấp muôn lần nghèo đói. Vì một kiếp tu sai dẫn đến muôn kiếp đọa.
Người hành trì pháp niệm Phật đối với sự phân biệt chân vọng cần nên hiểu rõ. Tự tin chắc rằng pháp niệm Phật là do đức Phật nói ra, không phải từ một vị tổ, vị sư nào biết được để bày nói. Phân biệt lựa chọn bằng trí huệ sáng suốt như vậy, việc hành đạo mới không gặp trở ngại và con đường đạo sẽ được rút ngắn.
b) Niệm Phật tinh tấn
Một khi việc làm đã được hoạch định, phần còn lại chỉ cần cố gắng siêng năng đeo đuổi với công việc cho đến thành công. Người học đạo khi đã chọn lựa dò xét kỹ càng pháp tu; điều tiếp đến là phải tinh tấn công phu không gián đoạn, được như thế dù pháp môn có khó cũng hóa ra dễ. Ở kinh Di Giáo lời cuối cùng của Phật cũng chỉ là nhắc đi nhắc lại việc tinh tấn là tối hậu, là quyết định sanh tử cho người hành đạo. “ Này các Tỳ kheo, ngày thì chuyên cần tu tập các pháp lành chớ để thời giờ luống mất. Đầu đêm cuối đêm cũng chớ nên bỏ phế. Nửa đêm lấy sự tụng kinh làm ngủ nghỉ. Chớ vì nhân duyên ngủ nghỉ để một đời luống qua khiến không được gì. Phải nhớ đến lửa vô thường thiêu đốt thế gian, sớm cầu tự độ, chớ khiến cho ngủ nghỉ, các giặc phiền não thường rình rập giết người, nhất là oan gia. Các thầy có thể an ổn ngủ nghỉ, không tự cảnh tỉnh vậy ư? Rắn độc phiền não đang còn ngủ trong lòng các ông. Thí như rắn đến ngủ trong nhà ông, phải dùng lưỡi câu trì giới để sớm cầu trừ sạch đi. Rắn ngủ ra rồi mới có thể yên ngủ. Như thế là người không còn có gì hổ thẹn nữa vậy (45).”
Người niệm Phật không nói ra cũng đủ hiểu tinh tấn là hàng đầu. Vì không tinh tấn thì không thể niệm Phật nhất tâm được. c) Niệm Phật hoan hỷ
Ai cũng thấy rằng đời sống con người vui ít khổ nhiều. Vui chỉ móng lên tồn tại đôi chút rồi bao nhiêu còn lại là niềm đau buồn lo khổ. Tuy nhiên niềm hoan hỷ, lạc vui trong đời cũng không phải là việc khó tìm. Niềm vui có thể có mặt khắp nơi và lúc nào cũng tùy do ta mà hiện hữu. Nếu người biết sáng tạo thì hỷ lạc vẫn tràn ngập ở tâm hồn.
Niềm vui hỷ lạc lại có thể sanh ra điều thiện và điều bất thiện. Vui với hành động yêu thương mang đến sự an lành cho người, hay chia sẻ nỗi vui với người khác thì gọi là vui thanh cao, thánh thiện. Ngược lại là bất thiện, nếu vui trên sự đau khổ của người, hay vui trong thỏa thê dục vọng. Vậy phần hỷ trong Thất Giác Chi này là hoan hỷ với niềm vui thiện; niềm vui hướng tới sự thành tựu giải thoát. Với người niệm Phật, niềm hoan hỷ cần phải thực hành. Bởi danh hiệu Phật phải được phát xuất ra từ tâm hoan hỷ không chứa chấp phiền não; cũng như tâm đã hoan hỷ thì tâm niệm lúc đó mới là thật niệm. d ) Khinh an trong niệm Phật
Thân tâm đã hoan hỷ cho nên sanh ra nhẹ nhàng an ổn đây gọi là khinh an. Đối lại khinh an là sự trì trệ, phiền trược nặng nề của phiền não. Người muốn giải thoát hệ lụy này phải làm sao thanh lọc thân tâm được thanh tịnh, trong sáng.
Qua ba phần giác chi nói trên chúng ta thấy tuần tự từ việc chọn lựa pháp môn chánh đáng rồi tinh tấn hành trì; sau đó hoan hỷ trong niềm an lạc của đạo, từ đây là nguyên nhân dẫn đến khinh an (nhẹ nhàng an ổn). Vậy thì nhận định và thực hành đúng với chánh pháp thì niệm khinh an sẽ tự có mặt trong ta mà không phải cần tìm kiếm nơi đâu. Thời Phật còn tại thế các tu sĩ ngoại đạo hay ngạc nhiên với tăng chúng của Phật, do đâu mà tâm hồn các Ngài luôn nhẹ nhàng, tha nh thoát trong khi ngày chỉ ăn một buổi đêm ngủ ở gốc cây. Đức
Phật trả lời, là do các vị ấy hành đúng với giáo pháp giải thoát; không nối tiếc quá khứ, không trầm tư, ngưỡng vọng đến tương lai. Vì quá khứ đã qua, tương lai chưa đến. Sống như thế hành như thế cho nên các Ngài được khinh an.
Niệm Phật muốn nhất tâm, thì cũng phải tạo cho thân tâm được nhẹ nhàng, an ổn. Có an ổn thư thái danh hiệu Phật mới rõ ràng rốt ráo. e) Niệm giác chi trong niệm Phật
Phần Niệm trong Thất Giác Chi cũng cùng một nghĩa niệm của các pháp trước. Nghĩa là ghi nhớ, khắc ghi vào tâm tưởng các pháp lành, điều thiện. Nhớ nghĩ như vậy mãi sẽ ngăn chặn được tâm buông lung, xằng bậy. Vì buông lung làm tiêu mất thiện pháp, kinh Niết Bàn, Phật dạy “… Buông lung có mười ba điều tội lỗi: Một là vui thích nghiệp bất thiện ở đời. Hai là vui thích nói lời vô ích. Ba là vui thích ngủ nghỉ lâu. Bốn là vui thích nói việc thế gian. Năm là vui thích thân gần bạn ác. Sáu là thường giải đãi biếng nhác. Bảy là thường bị người khinh chê. Tám là tuy có nghe nhưng rồi quên mất. Chín là ưa thích ở chỗ bưng biền biên địa. Mười là không thể điều phục các căn. Mười một là không đủ ăn. Mười hai là không ưa thích chỗ tịch tĩnh. Mười ba là chỗ thấy không chơn chánh. Nếu người buông lung, tuy có được gần Phật và đệ tử của Phật, nhưng cũng đã như xa rồi vậy (46).”
f) Định Giác Chi trong niệm Phật
Phần Định ở đây cũng không khác các Định ở những pháp trước, là cố tập trung điều phục tâm ý vào pháp mình đang tu. Nuôi dưỡng, gìn giữ chuyên nhất về một nơi như vậy, thì tuệ giác phát sinh thành tựu các thiện pháp. Người niệm Phật cũng chuyên nhất về danh hiệu Phật mà đạt tới định tâm hay gọi là nhất tâm bất loạn.
g) Xả Giác Chi trong niệm Phật
Thế giới ô trược, con người đau khổ phần lớn là do tâm tham đắm, chấp trước của chúng sanh. Vì tham đắm nên tạo ra muôn vàn nghiệp duyên, quây quần rối rít, tử tử, sinh sinh. Người học đạo giải thoát trước tiên phải phá trừ tâm tham đắm, chấp nê. Sự tham luyến, chấp chặt vào bất cứ pháp nào, hình thức chi vẫn mang đến đau khổ, ngay cả đến sự chấp vào pháp tu học giải thoát cũng thế. Bởi vì đời là vô thường, mọi pháp đều huyễn hóa. Còn tha thiết, say đắm vào quả vị thì còn dính mắc vào pháp chấp, ngăn trở việc giải thoát tuyệt đối. Ở pháp xả này có nghĩa là lìa bỏ mọi vướng bận trì kéo, dính mắc làm thối chuyển đạo tâm. Tuy thế việc hành xả này không có nghĩa là từ bỏ hết, quên hết để rồi biến thành một người ngây dại sống bất định ở đời. Việc hành xả ở đây vẫn là tinh tấn hăng say vui vẻ tạo thiện, phá ác. Nhưng rồi sẽ không chấp v ào việc làm lành phá ác đó, cũng như biết đời là huyễn nên không tiếc cái thân huyễn mà hành đạo.
Người niệm Phật cũng thế, xem việc trì danh công phu niệm Phật là phương tiện, là huyễn hóa. Và chính vào sự hiểu biết đó cho nên niệm Phật càng nhiếp tâm mà không chi lo sợ phải bị kẹt vào pháp chấp.
7) Niệm Phật trong Bát Chánh Đạo
Bát Chánh Đạo hay còn gọi là Bát Thánh Đạo, là pháp tu nhằm cải tạo thăng hoa đời sống con người đến hoàn mỹ tuyệt đối. Có thể nói cuộc sống được thánh thiện không thể thiếu Bát Thánh Đạo. Người Phật tử học Phật hầu như ai ai cũng nghe nói về pháp tu này. Một pháp tu không gò bó câu nệ, mê tín, được xem như căn bản nhất trong đạo Phật.
Bát Chánh Đạo gồm tám con đường như sau:
1. Chánh kiến
2. Chánh tư duy
3. Chánh ngữ
4. Chánh nghiệp
5. Chánh mạng
6. Chánh tinh tấn
7. Chánh niệm
8. Chánh định
a) Niệm Phật với chánh kiến
Bao việc sai lầm ngang trái xảy ra trong đời sống là do sự thấy biết không thật đúng của con người. Nhìn nhận một vấn đề sai dẫn đến kết quả đen tối, ngược lại là kết quả tươi đẹp khi hiểu biết phán xét đúng sự thật.
Chánh kiến nghĩa là sự thấy, biết, hiểu một cách đúng, hợp với chân lý, lẽ phải, mà không đưa đến ngộ nhận cho người hay chính mình. Nhưng cuộc sống lại đôi khi nằm trong mâu thuẫn, thành kiến thì làm sao ta có thể tự cho mình là chánh kiến! Ở đây điều quan trọng là phải nhìn sâu hơn trong cái nhìn hiểu biết về chánh kiến, có nghĩa phải dung hòa bằng nhiều phương tiện để tự tìm ra lối thoát.
Trong đời sống mưu sinh, con người phải tìm mọi cách để tự gán mình vào khuôn mẫu xã hội, hầu gia nhập vào công lệ thế gian. Từ đó khó có thể tạo cho mình một ý thức độc lập để có sự hiểu biết về cái nhìn khách quan.
Cái nhìn khách quan ở đây không chỉ đứng bên ngoài sự việc mà quán xét. Trái lại phải nhập cuộc để gạn lọc, học hỏi rồi tìm ra phương pháp hóa giải vấn đề. Cũng như thế người có chánh kiến không khư khư cố chấp sự hiểu biết của mình mà từ chối tất cả, hay tệ hại hơn cho người khác là sai; vì vấn đề sai đúng còn tùy vào nhiều khía cạnh, như hoàn cảnh, môi trường, thời gian…Thế nên vấn đề tiên quyết là uyển chuyển bằng nhiều phương tiện chuyển hóa, hoán cải để tự nhận ra điều thiện, điều bất thiện. Trong kinh Trung Bộ I, phẩm Chánh Tri Kiến, có nói “ Khi Thánh đệ tử tuệ tri (hiểu biết sáng suốt) được bất thiện và tuệ tri được căn bản của bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bản của thiện, này chư Hiền khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này (47).” Với người niệm Phật pháp chánh kiến phải cần sáng tỏ. Nhận thấy rằng pháp niệm Phật là một diệu pháp hợp xứng với tâm cảnh con người thời nay mà đức Phật đã tuyên dạy. Bằng niềm tin hiểu biết đúng như thế sẽ là nghị lực bất thối, trước mọi hoàn cảnh tình huống để không sợ phải lạc vào tà kiến.
b) Niệm Phật với chánh tư duy
Con người được xem như một sinh vật cao quý, thông minh nhất trên địa cầu. Loài người có thể hầu như làm được tất cả. Biết bao chứng tích lịch sử từ ngàn xưa còn xót lại đã chứng minh được điều này. Cho dù chứng tích đó có thánh thiện hay gian tà cũng nói lên được sức hiểu biết của con người. Nếu so sánh với loài vật khác, sự khác biệt với nhau rất xa. Trí hiểu biết của loài vật hạn hẹp, nhỏ nhoi chỉ thể hiện trong phản ứng sinh tồn, ngoài ra xem như không có gì cả so với con người thật sâu xa siêu việt. Giả như con người không có hiểu biết tư duy thì y như loài vật không hơn không kém.
Tư duy là suy xét, suy tư, suy niệm. Chánh tư duy là điều suy tư nghiệm xét hợp với chân lý lẽ phải. Việc suy tư, xét nghiệm đúng đắn giúp người ta hoàn thành trách vụ công việc tốt trong xã hội. Người học đạo giải thoát có chánh tư duy mới thấy rõ được bản chất, bản thể của các pháp là vô ngã, vạn vật là vô thường và vô minh là đầu mối của sinh tử.
Niệm Phật với chánh tư duy là niệm trong tư duy chánh pháp. Nhận ra Phật hiệu là tự tánh, là Phật tâm, là phương tiện rốt ráo nhất đưa người về nguồn tâm như thật.
c) Niệm Phật với chánh ngữ
Trong luật Sa Di có nói “ Luận việc xử thế ở đời, lưởi búa nằm ngay trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác của chính mình “. Tục ngữ, ca dao cũng nói “ Thần khẩu buộc xác phàm .”, “ Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau .” Tất cả ý nghĩa khuyên ta hãy nên thận trọng lời nói để khỏi phải chịu tai họa. Cố gắng nói sao cho êm đẹp, cho hòa vui hết thảy. Tuy nhiên phải hiểu, lời nói đây phải thành thật, chân tình, không rụt rè nịnh hót, a dua cho được yên thân, thoát nạn.
Đương đầu trong cuộc sống mới thấy khẩu nghiệp là quan trọng. Chẳng hạn cũng một lời nói mà ở vào hai người có địa vị khác nhau, thì hậu quả của nó hoàn toàn sai khác. Người càng có chức vị cao lời nói càng dè dặt. Thế nên thường thấy các vị lãnh đạo, chính khách đều phát ngôn rất chuẩn mực.
Lời nói có giá trị như mạch sống của con người. Người học Phật phải biết lời nói là một trong ba nghiệp quan trọng nhất của người Phật tử, đó là Thân nghiệp, Khẩu nghiệp và Ý nghiệp. Thực hành Bát Chánh Đạo mà xem thường phần chánh ngữ thì không đạt được mục đích chân thiện hoàn toàn.
Chánh ngữ là lời nói đúng với sự thật, chân lý, trái ngược với lời nói vọng, nói ác, nói lưỡng thiệt (nói hai đầu), nói phù phiếm. Chánh ngữ luôn luôn mang tính chất xây dựng, hài hòa, hợp nhất với hành động. Công đức của lời nói thật được nêu ra trong Luận Trí Độ như sau: “ Lời nói chân thật được lợi ích không kém bố thí, trì giới, học vấn, đa văn. Chỉ cần tu lời nói chân thật, cũng được vô lượng phước đức vậy (48).” Ngược lại là hậu quả phải gánh chịu, cũng trong Luận Trí Độ: “ Nói dối có mười tội: Một là hơi miệng hôi thúi. Hai là thiện thần xa lánh, phi nhân tự tiện xâm nhập. Ba là tuy có lời nói chân thật, người nghe không tin chịu. Bốn là người trí nghị bàn, thường không được tham dự. Năm là thường bị người bài báng, tiếng xấu đồn khắp thiên hạ. Sáu là người không kính trọng, tuy có việc dạy bảo, nhưng người không chịu thừa nhận tin dùng. Bảy là thường nhiều lo buồn. Tám là gieo trồng nghiệp nhân duyên hủy báng. Chín là thân hoại mạng chung đọa vào địa ngục. Mười là sanh ra làm người thường bị bài báng (49).”
Niệm Phật với chánh ngữ lại càng tương hợp. Mỗi câu niệm Phật là mỗi lời chánh ngữ, điều tịnh khẩu nghiệp, xa trừ ác ngữ, thanh tịnh nôi tâm. Kinh Bảo Tích dạy rằng “…xưng niệm Nam Mô Phật, khẩu nghiệp sạch không. Khẩu nghiệp như thế gọi là cầm cây đuốc lớn chiếu sáng phá tan phiền não (50).”
d) Niệm Phật với chánh nghiệp
Giá trị hạnh phúc đích thực của con người là sống, hành động phù hợp theo tinh thần đạo đức bỏ ác làm lành, cải thiện đời sống an vui từ trong gia đình ra ngoài xã hội. Nếu vì lý do gì hành động ngược lại tinh thần tâm linh đạo đức, con người sẽ phải gánh chịu kết quả khổ đau từ việc làm của chính mình. Kinh Niết Bàn dạy “ Quả báo thiện ác như bóng theo hình. Nhân quả ba đời tuần hoàn không mất… (51)”
Chánh nghiệp là hành động thiện, hành vi lành hợp với chánh pháp mang lợi ích, điều hòa đến ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý.
Niệm Phật với chánh nghiệp là tạo hành động lành, kiểm soát ba nghiệp, thanh tịnh thân tâm, dứt mọi điều xấu ác. Khi sống thân tâm nhẹ nhàng lúc mãn phần sanh về Cực Lạc. Kinh Pháp Cú “… Người hành ác sanh vào khổ cảnh, người phẩm hạnh tốt sanh vào nhàn cảnh. Bậc không ô nhiễm nhập diệt vào Niết Bàn (52).”
e) Niệm Phật với chánh mạng
Trong xã hội mọi người mang lấy mọi công việc. Tùy vào sự hiểu biết cá nhân cũng như hoàn cảnh môi trường mà việc làm có cao thấp nặng nhẹ. Người ta phải cố làm sao giải quyết việc sinh nhai ấm no, lợi lạc. Từ việc nuôi thân này đôi khi con người vô tình tạo ra những việc làm không hay, bất thiện gây thương tổn đến người khác, và mất đi tính chất hài hòa thiên nhiên với vạn vật. Người Phật tử nguyện sống đời từ bi trí tuệ nên tự chọn công việc nào không tổn hại cho người cho mình và ngay cả đến loài vật. Chánh mạng là sự sinh hoạt với nghề nghiệp lành mạnh, thật thà lương thiện phù hợp với pháp lành lẽ thật. Trong Tăng Chi Kinh III đức Phật đã dạy cho cư sĩ Phật tử bốn pháp về lối sống của một người muốn tìm hạnh phúc an lạc trong sinh hoạt đời sống.
1. Sống đầy đủ tháo vác, tức làm thật giỏi, thật thiện xảo nghề nghiệp của mình.
2. Biết giữ gìn tài sản do nghề nghiệp lương thiện làm ra, không để mất mát lãng phí.
3. Được nuôi dưỡng và sống có đạo đức
4. Không đam mê cờ bạc, không giao du với bạn ác .. .(53)
Người niệm Phật với niệm vãng sanh cầu thành Phật, nên phát lòng từ thể hiện qua việc làm nghề nghiệp, do đây mà thuận hòa với chánh mạng.
f) Niệm Phật với chánh tinh tấn
Với người siêng năng cần cù học hỏi làm việc, đâu đâu thời nào họ cũng hoàn chỉnh, thành công tốt đẹp. Cũng vậy người học Phật có đạt được đạo là do tính tấn tu hành. Do tinh tấn là then chốt nên các pháp trước như Tứ Chánh Cần, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi đã nhắc nhở. Chánh Tinh Tấn trong Bát Chánh Đạo cũng cùng ý nghĩa như vậy. Nghĩa là phải gia công, siêng năng hành động đúng với chánh pháp, lẽ thật có lợi ích đến mọi người mọi vật. Trong gia đình, xã hội nếu biết thực hành Chánh Tinh Tấn thì kết quả tươi đẹp, an bình, giàu mạnh sẽ thấm đượm trải tràn lên hoàn cảnh đó. Trong đạo giáo giữ gìn mãi hạnh Chánh Tinh Tấn thì đạo pháp trường tồn quả tu chứng đắc.
Người con Phật phải cần tinh tấn mãi trọn đời. Trong kinh Hoa Nghiêm có dạy “ Bồ Tát chuyên cần tinh tấn tối thắng, nên không bị những tham dục, giận tức, ngu si, kiêu mạn, não hại, đố kỵ bỏn sẻn, hiềm hận, dua nịnh, không biết hổ thẹn làm não loạn. Bồ Tát thường phải nghĩ như vầy, ta không muốn làm chúng sinh não phiền, nên ta tinh tấn. Vì rõ biết chúng sinh phân biệt nên tinh tấn.Vì biết tất cả chúng sanh chết đây sống kia nên tinh tấn. Vì biết chư Phật thật pháp nên tinh tấn. Vì biết bình đẳng pháp mà tinh tấn… (54)”
Pháp Chánh Tinh Tấn đã quan trọng cho đường tu vậy, thì người niệm Phật cần chuyên nhất gia công hơn. Niệm niệm bất thối, niệm niệm quy nhất về tâm, dừng nghỉ tất cả vọng tâm ô nhiễm, gội sạch phiền não, tâm niệm bây giờ chính là niệm Phật chánh tinh tấn vậy.
g) Niệm Phật với chánh niệm
Trong đời sống hằng ngày con người đã phải đương đầu, đối diện biết bao vấn đề. Từ vấn đề đơn giản đến phức tạp, từ việc vui đến việc buồn. Tất cả ít nhiều đã khuấy động tâm hồn, khiến cho tâm trí con người dễ bị cuốn lôi sai xử. Người nào với trí sáng suốt lọc lừa; nhận ra điều nào đáng ghi đáng bỏ thì hậu quả ảnh hưởng của sự khuấy động sẽ giảm đi. Ghi nhớ điều tốt việc lành làm tâm hồn tươi mát, sinh ra hành động hợp với lẽ đạo làm người. Ngược lại không loại bỏ những tạp niệm xấu, con người dễ đánh mất cá tánh nhân từ đạo đức.
Chánh Niệm là điều ghi nhớ chân chánh hợp với sự thật chân lý, đây cũng tương tự nghĩa niệm ở các pháp trước.
Chánh Niệm lại có hai phần: Chánh Ức Niệm và Chánh Quán Niệm.
– Chánh Ức Niệm là ghi nhớ những gì sai suất, tội lỗi đã qua để gắng công sám hối chừa bỏ. Ghi nhớ những gì ơn ích, ân nghĩa để gắng công đền báo, như tứ trọng ân (ân cha mẹ, tổ quốc, chúng sanh, tam bảo). Phần Chánh Ức Niệm này không khác pháp Tứ Chánh Cần là ngăn chặn điều ác chưa sinh, dứt trừ điều ác đã sanh, làm phát triển điều lành chưa sanh, tiếp tục phát triển những điều lành đã sanh.
– Chánh Quán Niệm là quán sát cuộc đời theo đúng sự thật, chân lý để ghi nhớ răn nhắc chính mình trên đường tu học, cũng như giúp mọi người thấy được lẽ thật này. Chánh Quán Niệm có tính cách sâu xa rộng rãi cả đến nhân loại.
Thực hành niệm Phật với Chánh Niệm là rốt ráo diệt trừ tâm niệm xấu, thanh lọc tư tưởng sai quấy, để thay thế vun bồi vào tâm bằng ý niệm lành qua danh hiệu Phật.
h) Niệm Phật với Chánh Định
Sau khi đã thông hiểu và bước qua bảy con đường, tới đây là con đường cuối, rốt ráo để hoàn thành mỹ mãn thánh thiện thân tâm. Chánh Định là con đường quan trọng nhất của hành giả phải trải qua. Tuy thế chánh định có được là hoàn toàn nhờ thông suốt, thực hành các con đường trước.
Nghĩa của Chánh Định lại là nghĩa của các định ở các pháp đã đề cập. Là tập trung định lực nhất tâm vào chánh pháp. Ngược với Chánh Định là đi sai đường, lạc lối vào tà định, dẫn đến đọa lạc trong ba đường ác Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.
Thực hành pháp niệm Phật đến thuần nhuyễn. Người niệm Phật sẽ có được Chánh Định không khác gì pháp tu thiền vậy.
Qua nội dung 37 phẩm trợ đạo được hiểu một cách sơ lược cho người niệm Phật. Chúng ta thấy rằng niệm Phật sẽ không trở ngại gì khi phải tìm hiểu hay dung hòa các pháp tu khác. Tuy nhiê n cũng còn tùy vào khả năng căn cơ hiểu biết của mỗi người theo mỗi cách tu niệm để lãnh hội. Và điều quan trọng là hành giả phải thật có dụng công tha thiết trong niềm tin chánh tín và chí nguyện chân thành thì dù có hiểu bằng cách nào hành giả sẽ được toại nguyện như ý.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Chú thích:
(1) “Đức Phật và Phật Pháp” Phạm Kim Khánh dịch, trang 256, Đại Nam xuất bản 1987.
(2) Kinh Hoa Nghiêm, trích dẫn lại trong PPYN (Phật Pháp Yếu Nghĩa) của Hòa
Thượng Thích Đức Niệm, tr 52, PHVQT (Phật Học Viện Quốc Tế) xuất bản 1988.
(3), (4) “Phật Pháp Con Đường Giải Thoát” của Jagdish Kasyapa, Tùng Chi Phóng tác, tr 57, 52, PHVQT xuất bản 1984.
(5) Kinh Phạm Võng, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, tr 14, PHVQT xuất bản 1985.
(6) Kinh Pháp Cú, Phạm Kim Khánh dịch, trang 186, xuất bản tại Sài Gòn 1971.
(7) “Buddhism in The Eyes of Intellectuals” (Phật Giáo Dưới Mắt Các Nhà Trí
Thức) by Ven. Dr. K. Sri Dhammananda, Thầy Thích Tâm Quang dịch, tr 55, copyright @ Thích Tâm Quang 1994.
(8) (9) (10) “Phật Học Tinh Yếu” thiên thứ hai của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, trang 247, 189, 190 PHVQT xuất bản 1986.
(11) Kinh Na Tiên Tỳ Kheo, sđd – PPYN trang 194.
(12) Các Tông Phái Đạo Phật, của Đoàn Trung Còn, trang 92, 93, 94, sách ấn tống in tại Kim Ấn Quán (Hoa Kỳ).
(13) Đường Về Cực Lạc của H.T Thích Trí Tịnh, tr kết.
(14) Kinh Pháp Cú, Phạm Kim Khánh dịch, tr 114.
(15) Kinh Thập Nhị Phật Danh, sđd – PPYN trang 192.
(16) Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh dịch, tr 448.
(17) Kinh Quán Vô Lượng Thọ, (18) Kinh Tiểu Địa Quán, sđd – PPYN, trang 191, 48.
(19) Phật Giáo Dưới Mắt Các Nhà Trí Thức, Thầy Thích Tâm Quang dịch, tr 51.
(20) Kinh Vô Lượng Thọ, H.T Thích Chân Thường dịch, sách ấn tống PL 2532, tr 66.
(21) Kinh Thủ Lăng Nghiêm, (22) Kinh Quán Phật Tam Muội, sđd – PPYN trang 160, 193.
(23) Kinh Vô Lượng Thọ, H.T Thích Chân Thường dịch, tr 225.
(24) Kinh Hoa Nghiêm – phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 40, H.T Thích Trí Tịnh dịch, PHVQT xuất bản.
(25) “Pháp Môn Giải Thoát”, chùa Đức Viên (Hoa Kỳ) ấn hành 1993, tr 36.
(26) Kinh Vô Lượng Thọ, H.T Thích Chân Thường dịch, tr 69.
(27) Kinh Mạ Ý, (28) Luận Đại Trí Độ, sđd – PPYN trang 168, 36.
(29) (30) Kinh Tương Ưng Bộ III, phẩm Gánh Nặng, H.T Thích Minh Châu dịch, tr 53, 52.
(31) Kinh Tâm Địa Quán, sđd – PPYN tr 154
(32) Kinh Di Giáo, H.T Thích Hoàn Quan dịch, trung tâm PG Hayward ấn hành 1994, tr 22.
(33) Kinh Di Giáo sđd trang 37.
(34) Kinh Tâm Địa Quán, (35) Kinh Quán Phật, (36) Kinh Phạm Võng, (37) Kinh
Tiểu Địa Quán, (38) Kinh Niết Bàn, (39) Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh, (40) Kinh Niết Bàn, sđd – PPYN, trang 160, 192, 52, 48, 48, 82, 191.
(41) Kinh Di Giáo, H.T sđd tr 40
(42) Kinh Trường A Hàm, sđd – PPYN, tr 98
(43) Kinh Di Giáo, sđd tr. 42.
(44) Kinh Ấm Trì Nhập, T.T Thích Bảo Lạc dịch, tr 17.
(45) Kinh Di Giáo, (46) Kinh Niết Bàn, sđd – PPYN, trang 80, 81
(47) Kinh Trung Bộ I phẩm Chánh Tri Kiến, H.T Thích Minh Châu dịch, tr 112.
(48), (49) Luận Trí Độ (50) Kinh Bảo Tích, (51) Kinh Niết Bàn, sđd – PPYN, trang 209, 210, 192, 139.
(52) Kinh Pháp Cú – sđ d tr 126.
53) Tăng Chi Kinh III, “Chánh Pháp và Hạnh Phúc” của H.T Thích Minh Châu ấn hành 1996, tr 213.
(54) Kinh Hcủa H.T Thích Đức Niệm tr 78.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.