Kinh bạch Sư Ông
Thật hạnh phúc khi cảm nhận được sư hân vui trên khuôn mặt các Vị nhận quà.
Kính bạch Sư Ông: Qua Phật sự trên mà Hằng Phụng và Hằng Chân nương vào lực của Sư Ông, con có những tư duy sau:
1. Con có thể nói là sự phổ hiện Pháp Hoa tam muội từ Sư Ông?
2. Con có thể nói sự hiện thân của Đức Quan Âm khi Hằng Phụng và Hằng Chân tụng vô văn cú Phổ Môn Kinh?
3. Con có thể nói các Vị nhận quà hiện nhiều cảnh ngộ để trang nghiêm đạo tràng cho Hằng Phụng và Hằng Chân tụng kinh?
4. Sau cùng, con có thể nói sự hiện thân của Ngài Phổ Hiền để khuyến phát qua sự cúng dường và hồi hướng của Hằng Phụng và Hằng Chân không ạ?
Kính thưa Sư Ông không biết tư duy này của con có gì không đúng Phật pháp không ạ, kính xin Sư Ông từ bi giảng dạy và chỉ bảo cho con.
Con kính chúc Sư Ông nhiều sức khỏe và trường thọ để luôn phổ chiếu ánh sáng Pháp Hoa tam muội để độ vô lượng chúng sanh cùng nhập Pháp Hoa tam muội.
Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ tát
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiến Bồ tát
Nam mô Thường Bất Khinh Bồ Tát
Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ tát
Đáp
Chúng ta sẽ phân tích lần lượt, phân tích 4 câu hỏi.
1. Có 2 hình thức hoằng truyền chính pháp.
Thứ nhất in kinh ấn tống, tụng niệm cầu nguyện theo truyền thống xưa nay. Lối này chỉ lưu truyền kinh sách và sự van vái cầu xin cho người tụng, xét ra công dụng của kinh quá thấp kém¹, nên chỉ là "thiểu thiện căn phúc đức nhân duyên" không thể đủ công đức sinh về cõi Phật.
Thứ hai trì tụng viên mãn, vừa bằng văn tự vừa bằng y giáo phụng hành. Bằng cách tụng y giáo phụng hành, kinh điển sẽ thực dụng hơn, biến chữ nghĩa thành hành động, khiến kinh điển bàng bạc khắp nơi và trở thành mối sinh hoạt nhật thường trong đời sống của người trì tụng, mà không còn chỉ giới hạn trong một cuốn sách², nhờ vậy người trì tụng sẽ phát sinh trí huệ, thành tựu công đức vô lượng, muôn loài đều được ân triêm công đức của kinh điển và cho đến muôn đời sau sẽ không còn bị cháo lú xóa sạch sành sanh, lại phải làm lại từ đầu³.
Chính nhờ trì tụng bằng y kinh giáo phụng hành mà cảm hóa hành động của mọi người hữu duyên, khiến họ phát tâm thực hành và thành tựu công đức⁴.
2. Bồ tát hiện thân theo căn cơ hoàn cảnh của chúng sinh để cứu giúp, không có nghĩa lúc nào cũng hiện thân người nữ áo trắng⁵ (như trong trí tưởng tượng của đồ chúng) đến cứu. Ngài có 33 ứng tùy hình hiện thân, tôi thường xem kritter klub thấy rất nhiều hoàn cảnh bi đát của súc sinh đã được nhiều người cứu và cưu mang, cho chúng một hậu vận tốt đẹp, tôi tự nhủ bồ tát của những con vật kia chính là lòng thương xót, tâm cứu độ của các thí chủ nọ. Đôi khi trong chính cuộc sống, chúng ta gặp nạn được ai đó xa lạ cứu giúp, chúng ta đâu thấy chút liên hệ nào giữa người ấy với bồ tát, đó cũng do nơi chúng ta chấp bồ tát là một thực thể có hình tướng như tướng ngã, tướng người, tướng chúng sinh và tướng thọ mạng, chúng ta chỉ thấy bồ tát qua căn và thức, mà không hiểu rằng các thứ ấy chỉ là hóa hiện thuộc về 33 ứng hóa thân. Còn thật thân bồ tát chính là "đại bi tâm", là thanh tịnh pháp, vốn "Không thân".
Vì vậy bằng tâm thương xót cứu vớt, bồ tát "không thân" cứu khổ ở mọi nơi, mọi quốc độ "vô sát bất hiện thân" (không nơi nào không hiện thân) bất luận nơi ấy không có Phật giáo hay chỉ thuần là ngoại đạo. Bồ tát cứu bằng cách "kích hoạt" sự bi mẫn tiềm ẩn trong tâm của mọi loài (tôi từng xem hình ảnh trâu nước tấn công cá sấu để cứu nai, hay đàn khỉ cứu hươu thoát khỏi nanh vuốt báo đốm...), đó là đại bi tâm "không thân" thị hiện "thân súc sinh" để cứu. Bồ tát thị hiện ngay cả thân ngoại đạo hay ma quỷ để cứu độ chính họ, hay dùng bi tâm nơi họ để cứu kẻ khác.
Nếu nhận ra thật bồ tát là "Không thân"⁶, ngài từ "không thân" quan sát khổ thế gian mà hiện "thành mọi thân" cứu độ, thì sẽ thấy bồ tát hiện khắp mọi nơi, mà ngài không chỉ đứng im lặng bất động lâu nay trong các chùa chiền, hay trên bàn thờ tại gia.
3. Khi đã nhận ra bồ tát chân thật hiện hữu khắp nơi, bồ tát giả (phi thật) thì có mặt rất giới hạn và thường bất động, chúng ta sẽ nhận ra phúc điền của mình cũng bao la vô tận, không chỉ có cúng các bậc tôn kính như chư Phật, bồ tát, sư trưởng cha mẹ mới có công đức, hay công đức nhiều hơn cả, mà tâm cúng dường hay bố thí đó trên thật pháp thì bình đẳng, trên giả pháp thì có hơn kém.
Trên giả pháp tức có "người quý kẻ hèn" thì cúng cho người quý phúc báo nhiều hơn, nhưng nhớ đó chỉ là phúc báo "quý hèn tính toán" nên là "giả phúc" tức phúc hữu lậu. Còn "như thật pháp" cúng thì "Phật tính bổn vô sai biệt" nên thành tựu phúc đức chân thật tức "công đức vô lậu".
Nhìn theo nhục nhãn của chúng sinh thì luôn phân biệt và tính toán lợi ít nhiều nên sự cúng hay bố thí đó mang tính bất tịnh, do đó chúng sinh không thể nào hành được điều "nguyện tu nhất thiết thiện". Làm thiện đầy tính toán lại rất giới hạn nên chúng sinh luôn thuộc loại "phúc mỏng nghiệp dầy".
Nhìn bằng thật nhãn sẽ thấy bố thí cho cùng tử khất cái cũng công đức như cúng Phật. Thường bất Khinh không dám coi thường chúng sinh, vì chúng sinh sẽ là Phật tương lai. Hơn nữa y lời Phật dạy bố thí chúng sinh đó chính là cúng dường Phật. Kinh Hoa nghiêm phẩm Phổ Hiền gọi đây là một trong bẩy pháp cúng dường có công đức vô thượng.
Vì vậy khi bố thí nên trân trọng tri ân cho người nhận bằng cách hồi hướng cho họ bằng nhân duyên với chúng ta hôm nay⁷, nguyện nhiều đời sau họ sẽ cùng ta kết thành bạn lữ cùng hành bồ tát đạo.
Với tâm nguyện hồi hướng ấy của chúng ta sẽ biến họ những người khốn khổ thành hàng thánh chúng thi ân và ban cho chúng ta công đức hôm nay, và cho chúng sinh trong tương lai. Nơi nào tịnh pháp được thực thi nơi ấy là thanh tịnh đạo tràng⁸.
4. Từ bi là nền tảng độ sinh của đạo Phật, nói cách khác mọi hành động của Phật giáo đồ đều phải mang bóng dáng của từ bi.
Đạo Phật lấy độ sinh làm phương tiện để thành Phật quả, nên ba đời mười phương chư Phật đều phát nguyện độ nhất thiết chúng sinh, hàng tăng lữ chân chính xuất gia chỉ để giải thoát thành Phật, muốn thế cần phải gánh vác chuyện độ sinh, nhất thiết vô ngại. Nếu chỉ lấy việc tụng niệm cầu an cho bản thân và những người nhờ cậy làm công phu tu hành thì vừa là gánh nặng cho Phật pháp, vừa thêm người cho hàng tại gia gánh, thay vì họ phải gánh người tại gia⁹.
Phổ Hiền đại sỹ là vị bồ tát đại hành, khi giải thích về nguyên vương thứ 3 "quảng tu cúng dường", ngài đã chỉ dậy cho đồng tử Thiện tài bẩy thứ "pháp cúng dường" vượt trội mọi thứ cúng dường, có công đức thù thắng bất khả tư nghị, đại sỹ tuyên thuyết:
Trong các thứ cúng dường, cúng dường pháp là tối thắng, đó là:
1. Hành theo lời Phật dạy để cúng dường.
2. Làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường.
3. Chịu khổ cho chúng sinh để cúng dường.
4. Nhiếp thọ chúng sinh để cúng dường.
5. Chăm tu căn lành để cúng dường.
6. Không bỏ bồ tát hành để cúng dường..
7. Không lìa tâm bồ đề để cúng dường.
Đệ tử Phật nên tu học 7 món cúng dường này¹⁰.
Cả 7 món cúng dường này đều mang đậm tính chất từ bi, khác với truyền thống cúng dường phẩm vật, hương hoa, quả trái... đồ chúng đến chùa cúng dường phẩm vật, ra ngoài cúng dường pháp, như vậy mới có công đức lợi mình lợi người.
Hành động bố thí phóng sinh đâu chỉ đơn giản là việc thiện, mà còn là mối liên hệ mật thiết đến tâm đại bi cứu khổ của bồ tát Quan Âm và pháp cúng dường của bồ tát Phổ Hiền nữa¹¹.
Đại chúng ngoài trì tụng phẩm Phổ môn cũng nên tụng phẩm Hạnh nguyện, để thường hành pháp cúng dường lại thêm lòng từ mẫn cứu khổ muôn loài.
Chúng ta hành bồ tát đạo là trì tụng hai phẩm này bằng cả ba nghiệp, khiến các phẩm này biến khắp mọi nơi chúng ta hiện hữu, thông qua mọi sinh hoạt của chúng ta. Thế nên mọi người hãy nỗ lực duy trì hành bồ tát đạo, đừng nghĩ mình không đủ đức nên để dành riêng cho bồ tát hay hòa thượng, sư tăng nào "đủ đức" hành trì.
Đức chỉ có và sẵn đủ nơi hành nguyện, ứng hiện mọi nơi cứu khổ chúng sinh.
PVVT
Báo Ân 2.4.2021
Chú thích câu 1. 1. Dùng khẩu tụng hồi hướng cho tâm tham dục là một hình thức giam cầm chính pháp trong nhà tù của quyển sách, không cho tác dụng công đức hiển bầy ra cuộc sống. Trì tụng kiểu này gọi là tụng chết, vì không có mảy may năng lực và sự sống công đức nào, và quyển kinh sẽ là tử thư, một thứ kinh chết đúng nghĩa.
2. Tụng kinh đúng cách như vậy sẽ hiển bầy ánh sáng trí huệ cho thế gian ngu tối, sẽ đem công đức đến cho cuộc đời điêu linh, và như thế người trì tụng sẽ thành tựu công đức chân thật. Phật pháp được hoằng dương, muôn loài được nhờ ân cứu độ. Thế mới chân chính trì tụng kinh điển, và kinh mới là kinh sống.
3. Đức Phật thường khen trì tụng kinh có công đức vô cùng, thế nhưng tuyệt đại đa số nghi ngờ, họ nào có thấy công đức khi họ thường xuyên trì tụng. Lý do vì họ tụng tử thư kinh chết, và không thực hành như lời Phật dậy. Nếu y lời Phật dậy trì tụng trí huệ và công đức sẽ phát sinh.
4. Người trì kinh chết truyền trao cho nhau nhiều đời thành truyền thống, họ cảm hóa nhau bằng tử kinh, và họ luôn cảm nhận đời và đạo là hai thái cực. Tôi từng nghe một người bảo rằng "sư phụ con nói không lo niệm Phật cầu vãng sinh, nỗ lực kết duyên với chư Phật bồ tát, mà cứ lo kết duyên với chúng sinh nghiệp nặng và đám súc sinh vô minh kia chỉ để tăng duyên phiền não, mà chẳng có công đức, ngoài chút phúc báo nhân thiên cản trở sự giải thoát". Đó chẳng qua là cái thấy phân biệt của vọng thức thuộc về chúng sinh tri kiến, không hiểu thật đạo và cũng không biết "thật hành".
Nếu biết cúng dường pháp bằng y lời kinh dậy thực hành, mọi người chung quanh sẽ được cảm hóa bằng pháp thực hành của hoạt kinh (kinh sống). Mười phương ba đời chư Phật đều trì hoạt kinh mà thành đạo, đức Phật không hề bảo trì tụng tử kinh là kể duyên với ngài bao giờ.
Chú thích câu 2 5. Chúng sinh do vọng thức phân biệt chấp chặt bồ tát với hình tượng nữ nhân áo trắng, đó chỉ là một trong vô số hóa thân tức giả thân, giả tướng để độ sinh nhất thời. Thực tướng vốn "không thân" quán sát căn tính mà "hiện thân". Từ Không hiện mọi Giả, đồng với từ bản thùy tích tất cả đều vì độ sinh, giúp chúng sinh từ Giả về lại Không, từ tích hồi quy bản.
6. Do "không thân" nên tự tại hiện "mọi sắc thân", không là thật tướng của sắc, sắc là giả tướng của không. Tâm kinh nói: "sắc không khác Không, Không chẳng khác sắc, sắc tức là Không, Không tức là sắc". Đó là nghĩa của Trung.
Chú thích câu 3. 7. Nhân duyên hành bồ tát đạo, cũng chính là nhân duyên thực hành pháp "thật bố thí". Bồ tát đạo là thật đạo, nên hành bồ tát đạo chính là hành thật đạo. Tuy nhiên nếu hành bố thí phóng sinh mà vẫn so đo chọn lựa công đức nhiều ít để làm thì không phải thật đạo của bồ tát đạo, vì do chọn lựa nên sẽ bỏ qua nhiều việc thiện, không hoàn thành đại nguyện "tu nhất thiết thiện". Tôi từng nghe nhiều người giảng cúng chùa, cúng tượng Phật có công đức nhất, nên thay vì phóng sinh bố thí, cũng số tiền ấy cúng chùa, tạo tượng có phúc hơn nhiều, thế là nhiều người ham lợi sẽ đổi hướng làm thiện, điều này làm tổn hại lớn cho người nghèo khổ và súc sinh, cướp đi sự lợi lạc được cứu của họ.
Vì vậy nên dạy đồ chúng biết bình đẳng cúng dường bố thí, hành mọi thứ thuộc thiện (tu nhất thiết thiện), khiến muôn loài, muôn nơi đều lợi lạc, tâm cũng trở nên thanh tịnh, vô phân biệt, công đức trí huệ nhờ vậy tăng trưởng.
8. Có 2 thứ đạo tràng.
Thứ nhất là đạo tràng vật chất như chùa chiền, được trang nghiêm bằng hương đăng, hoa quả, dùng vào việc lễ nghi cầu cúng, thuyết pháp giảng đạo. Đạo tràng này được đồ chúng tăng tục cung kính giữ gìn.
Thứ hai đạo tràng lưu động thuộc tâm. Đạo tràng này được trang nghiêm bằng trí huệ, từ bi và công đức. Đức Phật khi xưa thường sử dụng đạo tràng này hơn là Trúc lâm và Kỳ viên. Ngài ngự nơi nào nơi ấy là đạo tràng, chúng ta thường nghe Linh sơn đạo tràng, không do Linh sơn có chùa mà do đức Phật thuyết Pháp hoa kinh.
Với các bậc thánh tăng đạo tràng Linh sơn quan trọng hơn Trúc lâm và Kỳ viên. Một đạo tràng vật chất được lập sẽ trở thành nơi tu học, cầu nguyện hoặc du lịch, nhưng một đạo tràng tâm được thành hình thì sẽ có một thánh tăng xuất hiện cho đến một vị Phật ra đời.
Bảo Chí hòa thượng dạy "nhữ đẳng chung nhật thiêu hương trạch hỏa nhi bất tri thân thị đạo tràng" các vị cả ngày đốt đèn thắp hương (cầu nguyện) mà nào hay đạo tràng chính là các vị.
Trang nghiêm đạo tràng vật chất bằng hương hoa quả trái cũng cần trang nghiêm đạo tràng tâm bằng thanh tịnh pháp, như vậy mới biết tu hành.
Chú thích câu 4. 9. Tăng là một trong tam bảo, không phải do cạo tóc khoác tăng phục mà tự dưng thành bảo, nếu không có đức hạnh thì chỉ là hậu duệ của lục quần tỳ kheo thời đức Phật.
Tăng sở dĩ là bảo nhờ y lời Phật dạy tu và hành theo tinh thần "đương nguyện chúng sinh" gánh vác chúng sinh không hề ngại. Thất chúng đã không nhận ra "thật bồ tát" chỉ biết "giả bồ tát" thì đương nhiên họ cũng chẳng hiểu "thật tăng" là gì, chỉ biết kỉnh trọng "giả tăng".
Giả tăng ở đây không phải là tu sỹ giả mạo, mà giả đây có nghĩa chỉ có hình thức xuất gia, còn nội tâm thì vẫn tại gia. Hạng này bị đức Phật chê trách trong kinh Tâm địa quán.
Một số hậu bối được tôi khuyến khích hành bồ tát đạo lợi lạc chúng sinh, họ đáp "ôn có đức lớn nên mọi người ủng hộ, thành thử ôn làm dễ thôi, còn như tụi con có phúc đức gì đâu, còn cần tu học thêm nhiều năm nữa". Tuy từ khước gánh chúng sinh với lý do đức kém phúc mỏng, thế nhưng khi thọ nhận cúng dường trai tăng, tôi thấy họ y áo chỉnh tề, chuỗi dài trên cổ, chuỗi ngắn đeo tay, còn lần thêm sâu chuỗi hạt to, trông rất trang nghiêm đức độ, thừa phúc dư đức để thọ nhận cúng dường.
Thật tăng là nguyện "không dùng Phật pháp làm thứ nuôi mình, mà dùng chính bản thân mình nuôi dưỡng Phật pháp", thật tăng theo lời Phật dạy gánh vác chúng sinh, nơi nào khổ thì tới, không phải chỉ mò đến chỗ nào được an nhàn như ý.
10. Đọc tụng phẩm Phổ Hiền hành nguyện để hiểu rõ hơn về công đức cúng dường.
Có hai loại cúng dường là cúng dường vật chất và cúng dường pháp.
Cúng dường vật chất như thường làm với chùa chiền, cúng hương hoa, dầu đèn, tô điểm tượng Phật, bằng dát vàng, đính ngọc...
Cúng dường pháp như bồ tát Phổ Hiền nêu lên 7 thứ đều vì chúng sinh. Kinh nói cúng dường vật chất công đức nhiều đến mấy đi nữa cũng không thể nào so sánh được với cúng dường pháp.
Đa số tăng tục đều cho rằng bố thí cứu khổ chúng sinh công đức không bằng cúng chùa, điều này có thể đúng trong phạm vi phúc báo nhân thiên của vọng thức phân biệt. Nhưng nếu trên sự cúng dường pháp hành theo tinh thần bồ tát đạo thì cúng dường vật chất so với cúng dường pháp như cứu giúp chúng sinh thì kém xa vời vợi không đo lường được.
Đồ chúng nên tập cúng dường pháp để lợi mình lợi người, đó mới là công đức nên hành.
11. Đa số tín chúng theo truyền thống chỉ biết bồ tát Quan Âm được phụng thờ khắp mọi chùa, ở mọi nhà, để cầu an diệt khổ, nên chí thú trì tụng phẩm Phổ môn. Ít ai nghĩ đến đọc tụng phẩm Hành nguyện, chính vì vậy tín đồ "dư cầu thiếu hành" biểu hiện của cùng tử nghèo nàn công đức.