Home > Khai Thị Phật Học
Kinh
| Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch


Gọi đủ là Khế Kinh, tiếng Phạn là Tu Ða La. Khế nghĩa là “khế hợp” (phù hợp, tương xứng), bao hàm ý nghĩa: Trên khế hợp với đạo lý của chư Phật đã nói, dưới khế hợp với căn cơ của tất cả chúng sanh được độ.

Chữ Kinh có năm nghĩa:

- Xuất sanh: Nếu chúng sanh tu hành đúng theo lời Phật dạy thì sẽ sanh khởi được tất cả nhân quả của thiện pháp. Ðấy là ý nghĩa của chữ Xuất Sanh. 

- Hiển thị: Kinh của Ðức Phật thuyết có khả năng chỉ rõ các pháp xuất thế gian, sự, lý, tánh, tướng, nhân, quả, tu, chứng v.v... Ðấy là ý nghĩa của Hiển Thị. 

- Dũng tuyền (suối phun): Mỗi một chữ trong kinh chứa đựng hết thảy pháp, dung hàm vô lượng nghĩa, như nước vọt ra từ mạch suối, dù có dùng bao nhiêu vẫn chẳng cạn. Ðấy là ý nghĩa của Dũng Tuyền.

- Thằng mặc (mực thước): Kinh Phật giảng giải đạo lý khiến cho chúng sanh phân biệt được đâu là tà, đâu là chánh, hiểu rõ sự lý, biết nhân rõ quả, bỏ ác tu thiện, như thợ mộc dùng dây nhúng mực để đo lường sự cong ngay của cây gỗ trước khi cưa đục cho đúng.

- Kết man (kết thành tràng hoa): Kết man là dùng chỉ xỏ các bông hoa thành tràng để tạo ra vật trang sức đẹp đẽ. Kinh Phật xuyên suốt sự, lý, nhân quả, khiến chúng chẳng bị lạc mất. Ðấy là ý nghĩa của chữ Kết Man.

Thông thường, chữ Kinh thường được hiểu theo nghĩa “quán nhiếp thường pháp”:

- Quán là xâu kết lại, dính kết lại theo thứ tự, là thâu tóm, hệ thống hóa, tập hợp lại những pháp đã thuyết giảng, chẳng để bị tản mác.

- Nhiếp là giống như nam châm hút mạt sắt. Kinh điển có công năng thu hút những chúng sanh có khả năng hóa độ chẳng để cho họ bị đọa lạc.

- Thường là đạo lý chẳng biến đổi trong suốt cả ba đời. Những pháp Phật đã thuyết đều phát xuất từ lòng đại bi vô tận, giảng ra những pháp phù hợp với pháp tánh, bàn luận đến những điểm cùng tột vi diệu của chân lý, nên thường gọi là “xứng tánh cực đàm”. Những pháp đức Phật đã giảng đều là lý chân nghĩa thật, dẫu ngàn đời muôn kiếp, vĩnh viễn chẳng thể thay đổi được, nên gọi là Thường.

- Pháp nghĩa là mười pháp giới đều phải tuân theo khuôn phép ấy. 

Kinh còn có thể hiểu là đường lối; nghĩa là Kinh chính là con đường để tu hành thành Phật. Có thuyết nói Kinh còn có nghĩa là thuyền bè, ngụ ý: kinh Phật có thể dẫn dắt, độ chúng sanh vượt khỏi biển sanh tử.

Kinh Phật được gọi là “Khế Kinh” vì gồm đủ bốn điều khế hợp: khế sự, khế lý, khế giáo, khế cơ.

 a. Khế sự:

Ðức Phật dùng Phương Tiện Quyền Trí giảng giải nhân quả của trời người, các pháp tu chứng của Nhị Thừa v.v... đều tương xứng với sự tướng thế tục, nên gọi là Khế Sự.

b. Khế lý: 

Phật dùng Thật Trí giảng ra đệ nhất đế lý. Bất cứ điều nào Ðức Phật đã giảng xét về sự hay lý đều xứng hợp với Ðệ Nhất Nghĩa Ðế nên gọi là Khế Lý.

c. Khế giáo:

Khế giáo là dù thị hiện trong cõi ngũ trược ác thế để thuyết pháp lợi sanh, chúng sanh căn tánh ương ngạnh khó độ, những giáo pháp của Ðức Phật đã thuyết đều hoàn toàn giống hệt như những giáo pháp của mười phương chư Phật đã thuyết.

Trong hội Hoa Nghiêm, khi chư Bồ Tát trước sự chứng minh của Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca, giảng về thứ tự tu chứng Thập Hạnh, Thập Trụ, Thập Hồi Hướng v.v... xong thì có các đại Bồ Tát nhiều như số vi trần trong bất khả thuyết các cõi Phật ở mười phương, đồng danh đồng hiệu hiện ra tán dương: “Lành thay! Lành thay! Hàng Phật tử các ông! Nói ra những pháp chân thật chẳng dối... Trong cõi nước của chúng tôi cũng thuyết pháp này, thậm chí văn tự, danh tự, câu chữ cũng đều tương đồng”.

d. Khế cơ:

Cơ là căn cơ của chúng sanh. Căn tánh của chúng sanh tuy có đại, tiểu bất đồng, nhưng cứ nương theo kinh tu tập thì không ai là chẳng được lợi ích. Ðấy gọi là “khế cơ”.

Trong tựa đề Phật Thuyết A Di Ðà Kinh đây, Phật là đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là vị đã chứng cực quả, là chủ thể thuyết pháp. A Di Ðà là Cực Lạc giáo chủ, là bậc chứng ngộ cực quả được đề cập đến. Phật Thích Ca và Phật Di Ðà cùng chứng cực quả, vì sao Phật Thích Ca lại phải thuyết ra pháp này để xưng tán Phật A Di Ðà? Ðó là vì cõi Sa Bà uế ác, y báo lẫn chánh báo cõi này đều do vọng tưởng hoặc nghiệp chiêu cảm, huyễn khởi sanh tử vô cùng, khó tìm được chỗ cậy nhờ, nương tựa. Dù đức Phật Thích Ca mẫn niệm ứng cơ nhiếp hóa, nhưng khi duyên hóa độ đã hết, liền nhập diệt, chúng sanh không cách nào gặp gỡ được nữa. Còn y báo, chánh báo cõi Cực Lạc đều là do những công đức sẵn có trong bản tâm thanh tịnh hiển hiện, hữu tình, vô tình cõi Cực Lạc đều thuyết pháp bất tuyệt. Chúng sanh nghe pháp ấy tăng trưởng đạo tâm, phiền não tiêu trừ, quyết chứng Bồ Ðề. Bởi những lẽ ấy, Phật Thích Ca phải tán dương cõi Cực Lạc và Phật A Di Ðà, đấng giáo chủ cõi ấy, để chúng sanh phát tâm ưa thích, nhàm chán sanh tử, phát nguyện vãng sanh, vĩnh thoát khổ hải.
Trích từ: A Di Đà Kinh Hợp Giải


Kinh Sách Liên Quan

 
1.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 1, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
2.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 2, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
3.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 3, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
4.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 4, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
5.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 5, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
6.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 6, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
7.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 7, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
8.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 8, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
9.    A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 9, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
10.    A Di Đà Kinh Yếu Giải, Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc | Hòa Thượng Thích Tuệ Nhuận, Việt Dịch
11.    A Di Đà Phật Thánh Điển, Đại Lão Hòa Thượng Thích Ấn Quang | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
12.    A Di Đà Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn Tập 1, Pháp Sư Thích Cổ Đức | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
13.    A Di Đà Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn Tập 2, Pháp Sư Thích Cổ Đức | Cư Sĩ Như Hòa, Việt Dịch
14.    Kinh Phật Thuyết A Di Ðà Lược Giải, Hòa Thượng Thích Tuyên Hóa | Ban Phiên Dịch Vạn Phật Thánh Thành, Việt Dịch
15.    Phật Thuyết A Di Đà Kinh Hợp Giải, Cư Sĩ Như Hòa
16.    Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Diệu Âm, Việt Dịch