Gồm sáu phần: Phổ kính tam bảo, Niệm thập phương Phật, Niệm Phật Thích-ca, Niệm Phật A-di-đà, Niệm Phật Di-lặc, Niệm Phật tam-muội.
1. Lời dẫn
Đức Phật có tướng bình đẳng, đệ tử có đức ngợi khen. Cho nên các Đức Phật ở mười phương đều ra đời trong cõi “bùn lầy dơ bẩn”, các bậc Chính Giác đủ ba thân đều ngự trên đài sen báu; chúng sinh nhớ tưởng đến tướng nào của Phật, cũng đều được lợi ích cả. Nghĩa là từ lúc mới xuất gia, đến lúc thành Chính giác và khoảng giữa ngồi cội bồ-đề hàng ma, đến Lộc Dã thuyết pháp.., mỗi mỗi đều đầy đủ tướng quí, vẻ đẹp phát ra ánh sáng rực rỡ. Sắc thân thanh tịnh giống vàng ròng, diện mạo tươi đẹp tựa trăng tròn sáng; răng trắng như ngọc như tuyết, tóc nhuận sáng xoăn như vỏ ốc; mắt ví với sen xanh, mày sánh cùng liễu biếc; giọng nói ngân vang, muôn tướng ung dung, ngũ nhãn[8] sáng tinh, lục thông siêu việt; hùng biện như thác đổ, luôn chỉ dạy hợp căn cơ; thành tựu Phật thân trọn tam điểm[9], chứng được pháp thể đủ ngũ phần; đem pháp quyền và pháp thật cứu giúp chúng sinh, tùy chân thân và ứng thân để hóa độ mọi người. Có lúc Ngài quạt gió từ bi rộng khắp, có lúc tuôn mưa chính pháp tầm tã, giúp cho ruộng thân nhuần thấm, kế đó lại nhả mầm vô thượng, mọc lên cội tâm tươi tốt, lá xanh mướt um tùm. Như Lai không có tướng đến mà đến, không có tướng hiện mà hiện, [01c] vì chúng sinh nên tùy duyên ứng hiện. Tôi nguyện hầu hạ mười ức Như Lai trong mười phương, được phụng sự các Đức Phật trong ba nghìn đại thiên thế giới, gieo ruộng phúc mãi mãi, tu cúng dường rộng khắp, bứng rễ tà vạy, nhổ gốc tham sân, tu nhân niệm Phật để cảm quả thấy Phật.
Luận Bảo tính ghi: “Vì tam bảo có sáu nghĩa nên phải tôn kính:
1. Hiếm có: giống như vật báu ở đời, người nghèo cùng không thể có được. Tam bảo cũng như thế, chúng sinh phúc mỏng trải qua trăm nghìn vạn đời cũng không gặp được, cho nên gọi là bảo.
2. Lìa cấu bẩn: giống như vật báu thật ở đời không có tì vết, tam bảo cũng như thế, do lìa các phiền não, nên gọi là bảo.
3. Có năng lực: giống như vật quí giá ở đời có năng lực mạnh xóa nghèo, khử độc, tam bảo cũng như thế, có đủ sáu sức thần thông không thể nghĩ bàn, nên gọi là bảo.
4. Trang nghiêm: giống như vật quí báu ở đời có thể dùng trang điểm thân, giúp người được xinh đẹp, tam bảo cũng như thế, hay giúp trang nghiêm đức hạnh cho mọi người, giúp thân được thanh tịnh, nên gọi là bảo.
5. Tôn quí nhất: giống như vật quí báu hơn mọi vật trên đời, tam bảo cũng như thế, thù thắng hơn tất cả mọi thứ trong đời, nên gọi là bảo.
6. Không biến đổi: giống như vàng ròng ở đời, bị đốt, đập, mài, luyện, mà vẫn không thay đổi tính chất, tam bảo cũng như thế, không bị tám pháp [10]ở đời làm thay đổi, nên gọi là bảo.
Tam bảo còn nên được tôn kính bởi có đủ sáu ý sau:
1. Phật hay dạy bảo mọi chúng sinh, Pháp là thuốc hay, Tăng có thể truyền đạt lời Phật, tất cả đều làm lợi ích cho ta. Vì đền các ơn đó, nên ta phải tôn kính tam bảo.
2. Trong đời ác mạt pháp, việc truyền pháp không dễ dàng, cần nhờ oai lực tam bảo gia hộ, nên phải tôn kính.
3. Tam bảo khiến chúng sinh khởi lòng tin và vâng theo, nên phải tôn kính.
4. Phật dạy tăng ni nghi thức thờ kính tam bảo, cho nên phải tôn kính.
5. Tam bảo khiến mọi người ưa thích cúng dường để chính pháp hiện diện ở đời lâu dài, cho nên phải tôn kính.
6. Vì Phật thị hiện tướng thù thắng, nên phải tôn kính tam bảo”.
Do đó, luận Thành thật ghi: “Tam bảo có tướng tốt lành nhất, cho nên ta đặt ở đầu kinh”.
2. Niệm thập phương Phật
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Vào thời quá khứ xa xưa cách đây vô số đời, có Đức Phật Bảo Uy Đức Thượng Vương ra đời. Lúc ấy, có vị tì-kheo cùng chín đệ tử đến tháp lễ lạy tượng Phật. Nhìn thấy một bức tượng Phật quí, đẹp, đáng ưa nhìn, họ liền lễ lạy, chiêm ngưỡng và nói kệ khen ngợi. Về sau, họ ngồi kết-già qua đời, được hóa sinh trong hoa sen lớn ở cõi Phật Bảo Uy Đức Thượng Vương. Từ đó về sau, họ thường được gặp Phật, tịnh tu Phạm hạnh ở chỗ Phật, [02a] chứng Niệm Phật tam-muội, được Phật thụ ký tất cả sẽ thành Phật ở khắp mười phương. Phật Thiện Đức ở phương đông chính là vị thầy, chín đệ tử làm Phật ở chín phương kia: Phật Vô Ưu Đức ở phương đông nam, Phật Chiên-đàn Đức ở phương nam, Phật Bảo Thí ở phương tây nam, Phật Vô Lượng Minh ở phương tây, Phật Hoa Đức ở phương tây bắc, Phật Tướng Đức ở phương bắc, Phật Tam Thừa Hạnh ở phương đông bắc, Phật Quảng Chúng Đức ở phương trên, Phật Minh Đức ở phương dưới. Mười vị Phật này nhờ nhân duyên đời quá khứ lễ tháp, quán tượng, đọc một bài kệ khen ngợi Phật, nên ngày nay các vị ấy được thành Phật ở mười phương”.
Kinh Quán Phật tam-muội lại ghi: “Vào thời quá khứ xa xưa, có Đức Phật ra đời hiệu là Không Vương. Sau khi Ngài nhập diệt, có bốn vị tì-kheo cùng học chính pháp của Phật ấy, nhưng lòng lại đầy phiền não, không thể giữ vững kho báu Phật pháp, tạo nhiều nghiệp bất thiện, sắp đọa đường ác. Bỗng trên không trung có tiếng bảo các tì-kheo ấy: ‘Không Vương Như Lai tuy đã vào niết-bàn, không còn ai cứu được những tội các ngươi đã phạm, nhưng các ngươi có thể vào tháp quán tượng Phật. Như thế, khác gì lúc Phật còn tại thế’. Sau khi nghe tiếng nói trên không, họ vào tháp quán tướng bạch hào[11] của tượng Phật, và nghĩ: ‘Thân tướng và hào quang của Phật lúc còn tại thế đâu khác với tượng này. Nguyện tướng đại nhân của Phật trừ tội cho con’. Nghĩ xong, gieo năm vóc mạnh xuống đất như ngọn Thái sơn lở sụp, sám hối các tội lỗi. Nhờ nhân duyên vào tháp quán tướng bạch hào của tượng Phật, trong tám mươi a-tăng-kì kiếp họ không bị đọa vào đường ác, đời đời thường được gặp chư Phật trong mười phương, ở chỗ chư Phật thụ trì pháp Niệm Phật tam-muội sâu xa. Sau khi được tam-muội, họ lại được chư Phật khắp mười phương hiện trước mặt thụ kí, nay họ đều thành Phật. Vị tì-kheo thứ nhất thành Phật hiệu là A-súc ở nước Diệu Hỉ, thế giới phương đông. Vị tì-kheo thứ hai thành Phật hiệu là Bảo Tướng ở nước Hoan Hỉ, thế giới phương nam. Vị tì-kheo thứ ba thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, ở nước Cực Lạc, thế giới phương tây. Vị tì-kheo thứ tư thành Phật hiệu là Diệu Thanh, ở nước Liên Hoa Trang Nghiêm, thế giới phương bắc. Dựa theo nhân duyên ấy, hành giả phải nên phát nguyện quán Phật như thế”.
Kinh Ca-diếp ghi: “Vào thời quá khứ xa xưa cách đây hàng a-tăng-kì kiếp, có Đức Phật Quang Minh ra đời. Sau khi Ngài vào niết-bàn, có một bồ-tát tên Đại Tinh Tiến mười sáu tuổi, thuộc dòng dõi Bà-la-môn, dung mạo đẹp không ai sánh bằng. Bấy giờ, có một tì-kheo vẽ hình Phật trên một tấm vải nhung trắng, đem cho Tinh Tiến. Thấy hình Phật, [02b] Tinh Tiến rất vui mừng, nói: ‘Hình ảnh Như Lai còn đẹp tuyệt như thế, huống gì thân Phật thật. Nguyện trong đời vị lai tôi cũng thành tựu được thân vi diệu như thế’. Nói xong, Tinh Tiến lại suy nghĩ: ‘Nếu ta ở nhà thì không thể được thân như thế’. Thế rồi, Tinh Tiến xin cha mẹ cho xuất gia. Cha mẹ Đáp: ‘Chúng ta nay tuổi đã già, mà chỉ có một mình con. Nếu con xuất gia thì chúng ta sẽ chết’. Tinh Tiến thưa: ‘Nếu không cho phép con xuất gia thì từ hôm nay trở đi con không ăn, không uống, không ngủ nghỉ, cũng không nói năng nữa’. Thề như thế xong, Tinh Tiến nhịn ăn một ngày, cho đến ngày thứ sáu. Bấy giờ, cha mẹ, tám mươi bốn nghìn người quen biết và các mỹ nữ đều khóc thương. Cha mẹ liền cho phép Tinh Tiến xuất gia. Được xuất gia rồi, Tinh Tiến mang bức tượng Phật vào núi, lấy cỏ làm tòa, ngồi kết-già trước tượng, nhất tâm quán kỹ, thấy tượng vẽ không khác gì Như Lai. Tượng Như Lai chẳng giác, chẳng tri; tất cả các pháp cũng như thế, vô tướng, lìa tướng, thể tính rỗng lặng. Quán như thế qua một ngày một đêm, Tinh Tiến thành tựu ngũ thông, đầy đủ biện tài vô ngại, chứng Phổ quang tam-muội, thân có hào quang rực rỡ. Tinh Tiến dùng thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy a-tăng-kì Phật ở phương đông, dùng thiên nhĩ thanh tịnh nghe được hết mọi điều chư Phật nói. Suốt trọn bảy tháng, ngài dùng thiền duyệt thực, tất cả chư thiên đều rải hoa cúng dường. Sau đó, ngài rời khỏi núi, đến các xóm làng giảng pháp cho mọi người nghe. Có hai vạn chúng sinh phát tâm bồ-đề, vô lượng người trụ trong công đức của thanh văn và duyên giác, cha mẹ và người thân đều được không lui sụt trong đạo Vô thượng bồ-đề.
Khi ấy, Đức Phật bảo ngài Ca-diếp:
- Bồ-tát Đại Tinh Tiến ngày xưa chính là Ta, nhờ quán tượng Phật như thế, nên nay Ta được thành Phật. Nếu có người nào hay tu học phép quán như thế thì đời vị lai hẳn sẽ thành tựu Vô thượng đạo”.
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Vào đời quá khứ xa xưa, có Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời. Sau khi Ngài diệt độ, có một vương tử tên Kim Tràng, tính tình kiêu ngạo, tà kiến, không tin Phật pháp. Bấy giờ, một vị tì-kheo tên Định Tự Tại bảo vương tử:
- Trên đời này, tượng Phật thường được trang trí bằng các vật báu rất đẹp. Ông hãy thử vào tháp ngắm tượng Phật xem!
Vương tử ấy liền theo vị tì-kheo vào tháp. Nhìn thấy tượng đẹp, vương tử bảo vị tì-kheo:
- Tượng Phật còn đẹp như thế, huống gì là thân thật của Phật.
Vị tì-kheo bảo:
- Nay ông nhìn thấy tượng Phật mà không lễ thì phải nên chắp tay và xưng nam-mô Phật.
Vị vương tử liền chắp tay và xưng nam-mô Phật.
Khi về đến cung, vì nhớ tưởng mãi về pho tượng Phật trong tháp, [02c] nên đêm ấy vị vương tử nằm mộng thấy tượng Phật. Sau giấc mộng ấy, vị vương tử lìa bỏ tà kiến, qui y tam bảo. Nhờ căn lành vào tháp xưng nam-mô Phật, nên lúc vị vương tử ấy qua đời, liền được gặp chín trăm vạn ức na-do-tha Phật, ở chỗ chư Phật mau chóng chứng Niệm Phật tam-muội. Do được tam-muội, nên vị ấy được chư Phật hiện đến trước mặt thụ ký, từ đó về sau, trải qua trăm vạn a-tăng-kì kiếp không đọa vào đường ác, cho đến ngày nay chứng được đại định Lăng-nghiêm sâu xa. Vị vương tử ngày xưa ấy chính là bồ-tát Tài Thủ ngày nay. Theo nhân duyên ấy, người hiểu biết phải nên học niệm Phật như thế”.
Hơn nữa, kinh Pháp hoa có bài kệ:
Nếu người tâm tán loạn,
Vào bên trong chùa, tháp,
Xưng mô Phật một lần,
Đều đã thành Phật đạo.
Kinh Thí dụ ghi: “Ngày xưa, có một ông vua giết cha mình để tự lên ngôi. Bấy giờ, có một vị a-la-hán biết ông vua ấy không quá bảy ngày nữa sẽ chết, sau khi chết chắc chắn sẽ đọa địa ngục a-tì[12] chịu khổ trong một kiếp. Vị a-la-hán liền đến hóa độ ông vua ấy, khuyên bảo nên chí tâm xưng niệm nam-mô Phật suốt bảy ngày không gián đoạn. Lúc sắp đi khỏi, ngài còn nhắc nhà vua cẩn thận chớ quên việc niệm Phật ấy. Ngay sau đó, nhà vua liền chắp tay nhất tâm xưng niệm Phật suốt ngày suốt đêm không nghỉ. Vừa sang ngày thứ bảy thì nhà vua bỗng qua đời, thần hồn đi về phía địa ngục A-tì. Nhờ công niệm Phật trước đó, vừa đến cửa địa ngục, thần hồn nhà vua nhận biết đó là địa ngục, liền cất to tiếng xưng niệm nam-mô Phật. Những tội nhân trong địa ngục nghe tiếng niệm Phật, đều cùng một lúc niệm nam-mô Phật. Đám lửa dữ dội trong địa ngục lập tức biến mất. Tất cả tội nhân đều được giải thoát. Riêng nhà vua sinh lại làm người. Về sau, vị a-la-hán lại đến thuyết pháp cho người ấy nghe và người ấy chứng được quả Tu-đà-hoàn. Căn cứ theo nhân duyên ấy, niệm danh hiệu Phật sẽ được công đức lớn vô cùng, không gì có thể ví dụ được”.
3. Niệm Phật Thích-ca
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Ngày xưa, lúc còn tại thế, Đức Phật đã từng giảng kinh Quán Phật tam-muội cho vua cha và mọi người nghe. Đức Phật có ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp, thân màu vàng ròng, hào quang rực rỡ. Bấy giờ, dưới pháp tòa của Phật có năm trăm người thuộc dòng họ Thích, vì tội chướng, nên thấy thân Ngài xám đen như tro, như một bà-la-môn gầy yếu. Thấy vậy, họ gào khóc, vò đầu bứt tóc, vật mình xuống đất khiến tuôn máu mũi. Đức Phật an ủi:
- Các người chớ nên gào khóc! Hãy nghe Ta nói. Đời quá khứ có Đức Phật hiệu là Tì-bà-thi. [03a] Sau khi Ngài vào niết-bàn, đến thời tượng pháp, có một trưởng giả tên Nguyệt Đức. Ông ta có năm trăm người con thông minh, học rộng, thông hiểu tất cả. Trưởng giả ấy kính tin tam bảo, thường giảng nghĩa Phật pháp cho các con nghe, nhưng những người con ấy lại tà kiến, không có lòng tin. Về sau, khi những người con ấy đều mắc bệnh nặng, trưởng giả đến trước mặt họ, khóc lóc, chắp tay và nói: ‘Các con tà kiến, không tin Phật pháp, nay bị lưỡi dao vô thường cắt xẻ thân thể, biết nhờ cậy vào đâu? Có Đức Phật Thế Tôn tên Tì-bà-thi, các con nên xưng danh hiệu Ngài’. Vì kính trọng cha, sau khi nghe cha nói, những người con đều xưng niệm nam-mô Phật. Ông trưởng giả lại bảo các con xưng niệm pháp và tăng. Xưng niệm xong, những người con ấy đều qua đời. Nhờ xưng niệm Phật, họ được sinh vào cõi trời Tứ Thiên Vương. Khi hết tuổi thọ ở cõi trời, vì nghiệp tà kiến trước kia, nên họ bị đọa vào địa ngục, bị quỉ trong ngục dùng chỉa ba bằng sắt nung nóng đâm mù mắt. Khi chịu nỗi khổ như thế, họ nhớ lời cha dạy trước kia, liền xưng niệm Phật. Nhờ nhân duyên ấy, họ được ra khỏi địa ngục, sinh lại làm người, chịu cảnh nghèo túng, hèn hạ. Về sau, khi Phật Thức-khí ra đời, họ chỉ được nghe danh hiệu, mà không thấy được thân các Ngài. Vào thời những Đức Phật sau là Tùy-diệp[13], Câu-lâu-tần[14], Câu-na-hàm[15], Ca-diếp, họ cũng đều được nghe danh hiệu, nhưng không được thấy hình bóng các Ngài. Nhờ được nghe danh hiệu sáu vị Phật, nên ngày nay họ được sinh cùng dòng họ với Ta. Thân Ta đẹp như vàng diêm-phù-đàn, nhưng các ngươi thấy Ta giống như bà-la-môn gầy yếu, sắc người xám đen như tro, đều vì tà kiến đời trước của các ngươi nên mới như thế. Nay các ngươi nên đỉnh lễ và xưng danh hiệu chư Phật quá khứ, đồng thời xưng tên cha các ngươi, xưng danh hiệu Ta và Phật Di-lặc. Xưng niệm xong, phải lễ sát đất, phát lồ sám hối tội tà kiến với chư đại đức tăng và đại chúng.
Vâng lời Phật dạy, sám hối xong, mọi người đều thấy thân Phật màu vàng ròng như núi Tu-di. Họ liền thưa:
- Nay con thấy Phật có ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, hào quang rực rỡ vô cùng.
Nói như thế xong, họ liền chứng được quả Tu-đà-hoàn, cùng nhau xin Phật cho xuất gia, rồi đều được chứng quả A-la-hán, được đầy đủ tam minh[16], lục thông[17], bát giải thoát[18].
Bấy giờ, Phật bảo các tì-kheo:
- Sau khi Ta diệt độ, nếu ai xưng danh hiệu Ta và xưng nam-mô Phật thì sẽ được phúc đức vô cùng”.
Kinh Đại bi ghi: “Đức Phật bảo A-nan:
- Ông hãy nhìn. Lúc đi đường, Như Lai có thể khiến cho chỗ cao trên mặt đất hạ thấp xuống, chỗ thấp cao lên, tất cả những chỗ cao và thấp đều trở nên bằng phẳng. Sau khi Như Lai đi qua, mặt đất liền trở lại như cũ. Cây cối đều nghiêng mình về hướng Như Lai, thần cây hiện thân cúi mình lễ bái khi Như Lai đi ngang qua. Sau khi Như Lai bước qua, cây cối trở lại như cũ. Tất cả gò đống, hầm hố, chỗ dơ bẩn, rừng cây, ngói, sỏi … đều được dọn dẹp bằng phẳng, sạch sẽ, [03b] hương thơm tỏa ngát, hoa đẹp rải đầy đất để Như Lai bước đi trên đó; khi ấy vật vô tình đều nghiêng mình, huống gì loài hữu tình, mà chẳng cung kính? Vì sao? Vì ngày xưa, lúc tu hạnh bồ-tát, Ta luôn khiêm tốn nghiêng mình lễ kính tất cả mọi người. Sau khi được thành Phật, nhờ nghiệp thiện ấy, lúc Như Lai bước đi, tất cả loài hữu tình và vô tình đều nghiêng mình, cúi đầu lễ bái. Trước kia, Ta từng thành tâm tự tay đem những tài sản thanh tịnh, vi diệu, vừa ý bố thí cho chúng sinh. Nhờ nghiệp báo ấy, khi Như Lai bước đi, mặt đất trở nên bằng phẳng như được tưới quét sạch sẽ, không có gạch sỏi. Ta đã từng ở vô số chỗ của thánh hiền, khi các ngài đi đến đâu, Ta đã quét dọn đường sá, sửa sang nhà cửa đến đó. Ta dùng tâm bình đẳng không phân biệt cao thấp để quét dọn sạch sẽ, thường xuyên cầu bồ-đề, làm lợi ích cho chúng sinh. Nhờ căn lành ấy, nên Như Lai đi đến bất cứ nơi nào thì nơi ấy đường sá tự nhiên sạch sẽ, mặt đất bằng phẳng như bàn tay. Khi Đức Phật vào niết-bàn, ngay cả núi chúa Tu-di cao tám mươi bốn nghìn do-tuần, cắm sâu vào biển cả cũng vậy và núi Thiết Vi cao một trăm sáu mươi tám nghìn do-tuần bằng kim cương cứng rắn, cũng đều nghiêng mình, cúi đầu kính lễ, chẳng hề có việc chúng muốn tránh xa, không muốn nghiêng mình!”.
Kinh Phổ diệu ghi: “Do Như Lai trong quá khứ tâm thanh tịnh, xa lìa nhiễm ô, không hại chúng sinh, cho nên khi Ngài bước đi, chân không bị bẩn, không làm tổn hại các loài côn trùng”.
Kinh Xứ xứ ghi: “Khi Như Lai đi, chân không chạm đất, bởi có ba nguyên nhân: một, vì Ngài khiến người tu hành bớt ham muốn; hai, vì Ngài hiện tướng bánh xe dưới bàn chân; ba, vì Ngài khiến người trông thấy được vui vẻ. Khi Phật bước đi, chân luôn cách mặt đất bốn tấc[19], bởi ba nguyên nhân: vì Phật thấy trên mặt đất có côn trùng v.v..; vì trên mặt đất có cỏ cây sinh sống; vì Phật hiện thần biến.
Phật cũng muốn khiến tâm ý mọi người được ngay thẳng, nên khi Phật đi, những chỗ lồi lõm trên mặt đất đều trở nên bằng phẳng, bởi ba nguyên nhân:
1. Phật vốn thực hành tứ đẳng tâm[20], nên muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều được an ổn, tất cả các thần, các loài côn trùng, kiến… ở trên mặt đất, trên mặt nước hay dưới nước khi gặp chân Phật, đều được an ổn, tâm ý bình thản. Vì thế, mặt đất dưới chân Ngài, chỗ thấp trở thành cao, chỗ cao trở thành thấp.
2. Các trời, quỉ, thần tu phúc bằng cách quét dọn mặt đất để Phật đi, do đó, những chỗ lồi lõm trở nên bằng phẳng.
3. Khi còn là bồ-tát, Đức Phật đã khai thông đường sá, cầu, đò giúp mọi người, do đó, Ngài được cái phúc mặt đất lồi lõm trở nên bằng phẳng khi Ngài đặt chân xuống. Phật muốn tâm mọi người cũng được như thế”.
Luận Đại trí độ ghi: “Đức Thế Tôn có thân tướng tốt đẹp, da mỏng và mịn, không bám bụi đất, giống như lá hoa sen không dính bụi và nước. Nếu bồ-tát kinh hành trong núi đất khô, cũng không bị đất bám chân. Dù có cuồng phong thổi ngọn núi đất ấy tan thành vô số bụi mịt mù, [03c] thì ngay cả một hạt bụi nhỏ cũng không bám vào thân Phật. Nếu bồ-tát đưa thức ăn vào miệng, hai bên yết hầu ngài liền có cam lộ chảy ra hòa hợp các vị thức ăn thành một vị thanh tịnh, cho nên gọi là được thượng vị trong các vị”.
Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Người không có tâm cung kính Phật sẽ sinh làm rồng, rắn. Những người mới từ loài rồng, loài rắn đời quá khứ thụ sinh, thì nay vẫn không cung kính Phật, ngủ nhiều và ngu si”.
Luật Tứ phần có bài kệ:
Ai kính trọng trưởng lão,
Người ấy hay hộ pháp,
Đời này được danh tiếng,
Tương lai sinh đường thiện.
4. Niệm Phật A-di-đà
Hỏi: Tại sao gọi là Tịnh độ?
Đáp: Sạch sẽ và sáng sủa gọi là tịnh, nơi ở thanh tịnh gọi là Tịnh độ. Do đó, Nhiếp luận ghi: “Cõi nước không có năm thứ trược[21], trong sạch như pha-lê-kha gọi là thanh tịnh độ”. Luận Pháp hoa ghi: “Chỗ ở của chúng sinh không còn phiền não gọi là tịnh độ. Có bốn tịnh độ khác nhau:
1. Pháp tính độ: lấy chân như làm thể. Do đó, Lương nhiếp luận[22] ghi: “Lấy liên hoa vương làm thí dụ cho cõi Tịnh độ, pháp giới chân như làm thể của cõi ấy”.
2. Thật báo độ: Nhiếp luận ghi: “Cõi này lấy nhị không làm cửa, tam tuệ[23] làm đường ra vào, sa-ma-tha[24] và tì-bát-xá-na[25] làm xe, lấy căn bản vô phân biệt trí[26] làm dụng”. Đó là căn cứ vào báo công đức mà trình bày thể của cõi này.
3. Sự tịnh độ: cõi này làm bằng bảy thứ báu quí nhất, tức năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc là tính chất của cõi này. Do đó, Nhiếp luận ghi: “Đó là trụ xứ bằng bảy báu và tràn đầy ánh sáng của Phật”. Kinh Hoa nghiêm cũng ghi: “Trong cảnh giới chư Phật có trang hoàng nhiều thứ báu đẹp xen lẫn nhau”, cho nên, luận Tịnh độ ghi: “Tịnh độ có đầy đủ các thứ trân bảo, đầy đủ vẻ đẹp vi diệu”. Kinh Đại bồ-tát tạng (bản dịch mới) ghi: “Giả sử lửa lớn đốt cháy tất cả mọi vật trong các thế giới trên, nhưng nếu Như Lai lại thị hiện đi, đứng, ngồi, nằm trong các thế giới ấy, thì các nơi ấy sẽ xuất hiện loại nước có đầy đủ tám tính chất[27]”.
4. Hóa tịnh độ: Năm trần bằng bảy báu do Đức Phật biến ra, là của Hóa tịnh độ. Do đó, kinh Niết-bàn ghi: “Do thần lực của Phật, mặt đất mềm mại, không có gò đống, cát, sỏi, đá, [04a] tất cả đều giống như thế giới Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ ở phương tây”. Ngoài ra, luận Đại trang nghiêm ghi: “Do trí tự tại, tùy sự mong muốn của chúng sinh, Đức Phật có thể biến hiện ra các thế giới bằng thủy tinh, hoặc lưu li v.v…”. Kinh Duy-ma-cật ghi: “Phật ấn ngón chân xuống đất, mặt đất liền hiện các việc thanh tịnh”. Kinh Thập địa ghi: “Vì thuận theo tâm ưa thích nhìn của chúng sinh, mà Đức Phật thị hiện …”. Như vậy, các kinh luận này đều căn cứ nghĩa tịnh độ được hóa hiện thành, do Đức Phật dùng thần lực hóa hiện mà có, thâu lại thì không, do đó, gọi là Hóa độ.
Tóm lại, vừa rồi tuy trình bày Tịnh độ có bốn loại, nhưng cốt yếu thì có hai loại là Báo độ và Hóa độ, cũng gọi là lý độ và sự độ.
Báo độ: cõi nước khi Phật ra đời, thể của các điều thiện đều là vô lậu, không thuộc Tam giới. Cho nên, luận Tịnh độ ghi: “Xét thấy tướng của thế giới kia thù thắng hơn tam giới”. Luận Trí độ cũng ghi: “Có tịnh độ vi diệu vượt ngoài tam giới”. Nhưng trụ xứ của Phật là vô trụ xứ, vượt ngoài mười phương thế giới. Hoặc căn cứ vào pháp thân mà thiết lập tịnh độ, cho nên luận nói: “Phật Thích-ca Mâu-ni còn có thế giới thanh tịnh giống như cõi nước của Đức Phật A-di-đà. Đức Phật A-di-đà cũng có thế giới nghiêm tịnh và thế giới không nghiêm tịnh giống như cõi nước của Phật Thích-ca”. Ngoài ra, kinh Niết-bàn ghi: “Ta thật sự không rời khỏi cõi Diêm-phù-đề”. Kinh Pháp hoa cũng có bài kệ:
Ta thường tại Linh Thứu[28],
Và các trụ xứ khác.
Chúng sinh thấy kiếp tận,
Lửa lớn đốt thế giới.
Cõi Ta đây an ổn,
Trời, người thường đầy đủ,
Vườn, rừng, gác, lầu, nhà,
Các thứ báu trang nghiêm.
Thêm nữa, kinh Hoa nghiêm ghi: “Tịnh độ của Như Lai hoặc ở trên mão báu của Như Lai, hoặc ở trên khuyên tai, hoặc ở chuỗi ngọc anh lạc, hoặc ở hoa văn trên y của Ngài, hoặc ở lỗ chân lông của Ngài”. Như thế, lỗ chân lông của Ngài đã chứa cả thế giới. Do đó, luận Thập trụ ghi: “Đức Phật nhấc một bước thì vượt qua vô số tam thiên thế giới”.
Hóa độ: Hóa độ không có nơi chốn riêng, chỉ căn cứ vào Báo độ mà Phật khởi tướng thô, hoặc ở khắp mười phương, hoặc ở ngay cõi này mà tiếp dẫn trời và người thuộc tam thừa. Như Phật A-di-đà Thế Tôn vì tiếp dẫn chúng sinh phàm phu và Tiểu thừa ở cõi kham nhẫn này, mà thiết lập cõi nước; hoặc ở cõi uế mà hiện tịnh độ, như ấn ngón chân thì hiện tịnh độ. Tịnh độ như thế không khác gì cung trời. Hoặc cõi nước ấy do chủng tử khí thế giới, cộng tướng của chúng sinh cảm được, [04b] trong đó hiện cảnh giới nhơ uế hoặc thanh tịnh khác nhau tùy vào sự thấy bất đồng của chúng sinh trong lục đạo. Đây đều là do nhân huân tập chủng tử danh ngôn bên ngoài, mà thức chủng thành tựu, cảm được hình bóng khí thế giới hiện ra. Hình bóng này là tướng phần của Bản thức[29], do chủng tử cộng tướng và hình ảnh, có thức hiện tướng làm nhân duyên tạo thành. Tức cộng tướng này do sức của tăng thượng duyên nội báo, mà cảm được các sự khổ vui khác nhau như thế.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Bấy giờ, đại bồ-tát Tâm Vương bảo các bồ-tát:
- Này Phật tử, một kiếp ở thế giới Ta-bà của Phật Thích-ca Mâu-ni bằng một ngày một đêm ở thế giới An Lạc của Phật A-di-đà. Một kiếp ở thế giới An Lạc bằng một ngày một đêm ở thế giới Thánh Phục Tràng của Phật Kim Cương. Một kiếp ở thế giới Thánh Phục Tràng bằng một ngày một đêm ở thế giới Bất Thoái Chuyển Âm Thanh Luân của Phật Thiện Lạc Quang Minh Thanh Tịnh Khai Phu. Một kiếp ở thế giới Bất Thoái Chuyển Âm Thanh Luân bằng một ngày một đêm ở thế giới Vô Cấu của Phật Pháp Tràng. Một kiếp ở thế giới Vô Cấu bằng một ngày một đêm ở thế giới Thiện Đăng của Phật Sư Tử. Một kiếp ở thế giới Thiện Đăng bằng một ngày một đêm ở thế giới Thiện Quang Minh của Phật Lô-xá-na Tạng. Một kiếp ở thế giới Thiện Quang Minh bằng một ngày một đêm ở thế giới Siêu Xuất của Phật Pháp Quang Minh Thanh Tịnh Khai Phu Liên Hoa. Một kiếp ở thế giới Siêu Xuất bằng một ngày một đêm ở thế giới Trang Nghiêm Tuệ của Phật Nhất Thiết Quang Minh. Một kiếp ở thế giới Trang Nghiêm Tuệ bằng một ngày một đêm ở thế giới Cảnh Quang Minh của Phật Giác Nguyệt. Này Phật tử! Như thế lần lượt cho đến trăm vạn a-tăng-kì kiếp thế giới, một kiếp ở thế giới sau cùng bằng một ngày một đêm ở thế giới Thắng Liên Hoa của Phật Hiền Thủ, các đại bồ-tát như Phổ Hiền,v.v… ở khắp trong đó”.
Ngoài ra, luận Ưu-ba-đề-xá[30] có bài kệ:
Quán tướng thế giới kia,
Trội hơn cả tam giới,
Rốt ráo như hư không,
Rộng lớn không ranh giới.
Chính đạo đại từ bi,
Sinh căn lành xuất thế,
Ngập ánh sáng thanh tịnh,
Như nhật nguyệt, gương trong.
Hạng phàm phu và Nhị thừa trong uế độ thấy được Đức Phật A-di-đà, còn các bồ-tát ở Tịnh độ cũng thấy Đức Phật A-di-đà. Căn cứ hai điều ấy thì Báo độ luôn luôn thuần tịnh, Ứng độ vừa có nhiễm, vừa có tịnh.
[04c] Do đó, luận Tịnh độ ghi: “Có năm loại quốc độ:
1. Thuần tịnh độ: cõi này chỉ dành cho bậc chứng quả vị Phật.
2. Tịnh uế độ: cõi nhiều sự thanh tịnh, ít sự nhơ uế, là cõi của bậc bồ-tát Bát địa trở lên.
3. Tịnh uế bình đẳng độ: cõi của bậc bồ-tát từ sơ địa đến thất địa.
4. Uế tịnh độ: cõi có nhiều sự nhơ uế, ít sự thanh tịnh, là cõi của hàng bồ-tát trước Thập địa.
5. Tạp uế độ: cõi của hạng phàm phu chưa nhập tính[31].
Hạng người thứ năm chỉ thấy được cõi sau cùng, không thấy được bốn cõi trước. Hạng người thứ tư thấy được hai cõi sau, không thấy được ba cõi trước. Hạng người thứ ba thấy được ba cõi sau, không thấy được hai cõi trước. Hạng người thứ hai thấy được bốn cõi sau, không thấy được một cõi trước. Bậc thứ nhất là Phật thấy và biết được cả năm cõi”.
Kinh A-di-đà Cổ âm Thanh Vương đà-la-ni ghi: “Bấy giờ, Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Thế giới An Lạc ở phương tây hiện đang có Đức Phật hiệu A-di-đà. Nếu có tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào có thể thụ trì chân chính danh hiệu Phật kia, nhờ công đức ấy, khi lâm chung, Phật A-di-đà và thánh chúng hiện đến trước người ấy, khiến họ được nhìn thấy, khởi tâm vui mừng, giúp công đức tăng gấp bội. Nhờ nhân duyên ấy, hễ sinh ở nơi nào, người ấy cũng vĩnh viễn xa lìa thân trong bào thai dơ uế, chỉ tự nhiên hóa sinh ở trong hoa sen báu tươi đẹp, được đầy đủ sáu thần thông, ánh sáng rực rỡ, cùng ở một nơi với Phật A-di-đà và các thanh văn. Cõi nước của Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri ấy tên là Thanh Thái. Vua nước ấy ở trong tòa thành, ngang dọc mỗi bề dài mười nghìn do-tuần, trong thành ấy có rất nhiều người dòng Sát-đế-lợi. Cha của Phật A-di-đà là Chuyển luân thánh vương Nguyệt Thượng, mẹ Ngài tên Thù Thắng Diệu Nhan, con tên Nguyệt Minh, đệ tử hầu hạ tên Vô Cấu Xưng, đệ tử trí tuệ tên Hiền Quang, đệ tử thần túc tinh cần tên Đại Hóa. Bấy giờ, ma vương tên Vô Thắng, Đề-bà-đạt-đa tên Tịch Tĩnh”.
Kinh Vô lượng thọ cũng ghi: “Phật bảo ngài Di-lặc:
- Giả sử thế giới tam thiên đại thiên bị nạn lửa dữ thiêu đốt, nhờ niệm danh hiệu Phật A-di-đà, cho nên muốn đi vào trong đó cũng không có gì khó”.
Kinh Phật A-di-đà ghi: “Phật bảo các thầy tì-kheo:
- Vua A-xà-thế ấy và năm trăm người con của các trưởng giả trong vô số kiếp về sau đều sẽ làm Phật như Phật A-di-đà. Vua A-xà-thế ấy và năm trăm người con của các trưởng giả trụ trong Bồ-tát đạo đến nay đã vô số kiếp, [05a] mỗi người đều đã cúng dường bốn trăm ức Phật, nay lại đến cúng dường Ta. Vua A-xà-thế ấy và năm trăm người con của các trưởng giả vào thời Phật Ca-diếp đều là đệ tử của Ta, nay lại gặp nhau ở trong hội này”.
5. Niệm Phật Di-lặc
Kinh Di-lặc bồ-tát sở vấn bản nguyện ghi: “A-nan bạch Phật:
- Ngài Di-lặc chứng Pháp nhẫn lâu đến như thế, tại sao chẳng mau đến đạo Vô thượng bồ-đề thành bậc Tối Chính Giác?
Đức Phật bảo A-nan:
- Bồ-tát ấy vì bốn việc nên không giữ ngôi Chính giác. Đó là tịnh hóa cõi nước, hộ trì cõi nước, tịnh hóa tất cả và hộ trì tất cả. Thuở xưa, lúc cầu làm Phật, bồ-tát Di-lặc vì bốn việc ấy nên không giữ quả vị Phật. Xưa kia, lúc cầu làm Phật, Ta cũng có bốn việc này. Ngài Di-lặc phát tâm Bồ-đề trước Ta ba mươi hai kiếp. Tuy vậy, trong kiếp Hiền này, nhờ rất tinh tiến, Ta vượt qua chín kiếp, chứng được đạo Vô thượng chính chân, thành bậc Tối Chính Giác. Nhờ mười việc, nên Ta mau chóng trở thành bậc Tối Chính Giác. Đó là:
1. Tất cả mọi thứ Ta đều không tiếc nuối.
2. Không tiếc nuối vợ.
3. Không tiếc nuối con cái.
4. Không tiếc nuối tay chân.
6. Không tiếc nuối đất nước.
7. Không tiếc nuối của cải, châu báu.
8. Không tiếc nuối tủy, não.
9. Không tiếc nuối máu, thịt.
10. Không tiếc nuối mạng sống”.
Hỏi: Phàm phu tại gia xuất gia ở trong cõi Dục phải thực hành nghiệp thiện gì để được quả báo sinh lên trời Đâu-suất trong cõi Dục?.
Đáp: Kinh Vị tằng hữu ghi: “Thập thiện hạ phẩm thì trong một niệm, thập thiện trung phẩm thì trong khoảng một bữa ăn, thập thiện thượng phẩm thì từ sáng đến trưa; tâm nhớ nghĩ hạnh thập thiện và dừng mười việc ác thì được vãng sinh. Do đó, loài dã can khởi tâm nhớ nghĩ thập thiện trong bảy ngày không ăn, đã sinh lên trời Đâu-suất”.
Kinh Thượng sinh ghi: “Sau khi Ta diệt độ, tứ chúng[32] và bát bộ[33] muốn sinh lên tầng trời thứ tư, phải trong một ngày cho đến bảy ngày luôn luôn nhớ nghĩ cõi trời ấy và giữ gìn giới cấm của Phật chế, tư duy về thập thiện và thực hành thập thiện đạo, rồi hồi hướng công đức ấy, nguyện được sinh trước mặt Phật Di-lặc. Thực hành như thế, sẽ được vãng sinh như nguyện”.
Bảy ngày tức là thời gian ngắn còn cảm được quả báo ở cõi trời kia, huống gì cả đời tu mà chẳng đạt được sao?
Kinh Thượng sinh ghi: “Nếu ai lễ kính Phật Di-lặc thì trừ được tội sinh tử trong trăm ức kiếp, cho đến đời vị lai được gặp Phật Di-lặc nơi cội cây long hoa”. Kinh cũng ghi: “Sau khi Ta diệt độ, nếu bốn chúng và tám bộ nghe danh hiệu bồ-tát ấy mà lễ bái, khi qua đời sẽ sinh lên cõi trời Đâu-suất. [05b] Nếu người nam hay nữ phạm các cấm giới và tạo các nghiệp ác, nghe được danh hiệu Đại Từ của bồ-tát ấy, thành tâm sám hối tất cả nghiệp ác, thì tâm chóng được thanh tịnh. Nếu có ai qui y bồ-tát Di-lặc, người ấy được bất thoái chuyển, đến khi bồ-tát Di-lặc thành Phật, người thấy ánh sáng của Ngài liền được thụ ký.
Sau khi Phật diệt độ, nếu ai siêng năng tu tập các công đức, oai nghi không thiếu, quét dọn và tô đắp tháp Phật, dâng hương hoa cúng dường, thực hành các tam-muội, đọc tụng kinh điển, người như thế chưa trừ sạch phiền não như người đã chứng lục thông, phải nên tập trung tâm ý quán tưởng hình tượng và xưng danh hiệu Phật Di-lặc. Nếu thụ giới bát quan trai và tu các tịnh nghiệp chỉ trong một niệm, khi qua đời liền được vãng sinh trên đài hoa sen ở trời Đâu-suất, đúng lúc sẽ thấy ánh sáng từ tướng bạch hào của Phật phóng ra, liền vượt thoát khỏi tội sinh tử trong chín mươi ức kiếp, tùy theo duyên lành đời trước, sẽ được nghe Phật giảng diệu pháp, nhờ đó được giai vị Bất thoái”.
Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Chúng sinh nào ba nghiệp tạo ác, khi lâm chung nhờ nghĩ đến công đức Như Lai, chắc chắn sẽ lìa xa đường ác, được sinh lên trời. Giả sử có người cực ác, nhờ niệm Phật, người ấy cũng được sinh lên trời”.
Kinh Đại tập ghi: “Nếu ai tu tâm từ, khi bỏ thân mạng, sẽ thấy chư Phật trong mười phương đưa tay xoa đầu mình. Nhờ tay Phật chạm vào nên tâm người ấy an lạc, liền được vãng sinh về cõi Phật thanh tịnh”.
Kinh Phổ hiền quán ghi: “Nếu có người ngày đêm sáu thời lễ bái chư Phật trong mười phương, tụng kinh điển Đại thừa, suy nghĩ ‘đệ nhất nghĩa không’ sâu xa, trong khoảnh khắc liền trừ được tội sinh tử trong vô số kiếp. Người thực hành pháp này đúng là Phật tử, được sinh từ chỗ chư Phật, chư Phật và bồ-tát trong mười phương đều làm thầy truyền giới cho người này. Đó là người đầy đủ giới bồ-tát, không cần yết-ma mà tự nhiên thành tựu, xứng đáng nhận sự cúng dường của tất cả trời và người”.
Kinh Pháp hoa ghi: “Nếu có người thụ trì, đọc tụng kinh Đại thừa, nhớ nghĩ và hiểu đúng nghĩa lý kinh, người ấy lúc qua đời sẽ được nghìn vị Phật đưa tay tiếp dẫn, khiến không sợ hãi, không đọa đường ác, liền sinh về chỗ bồ-tát Di-lặc trên cõi trời Đâu-suất. Bồ-tát Di-lặc có ba mươi hai tướng quí, được các bồ-tát vây quanh, có trăm nghìn ức quyến thuộc thiên nữ. Sinh trong đó có những công đức và lợi ích như thế, do đó, người hiểu biết phải nên nhất tâm tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, thụ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ đúng đắn và tu hành đúng như lời dạy”.
Luận Đại trí độ ghi: “Nếu thiện nam tử nào có thể thực hành bát-nhã ba-la-mật sâu xa này, [05c] nên biết, người ấy đến từ cõi người hoặc cõi trời Đâu-suất. Vì sao? Vì trong ba đường ác có nhiều tội khổ nên không thể thực hành được pháp Bát-nhã sâu xa; các trời Dục giới tham đắm ngũ dục[34] tịnh diệu, tâm thức tối tăm nên không thể thực hành được pháp bát-nhã; các trời Sắc giới vì đắm sâu trong thiền định nên không thực hành được pháp bát-nhã; các trời Vô sắc giới vì không có hình tướng nên không thực hành được pháp bát-nhã; cõi trời Đâu-suất nhờ thường có bồ-tát Nhất Sinh Bổ Xứ, nên các trời thường nghe giảng bát-nhã, do đó, dù có nhiều ngũ dục, song sức Phật pháp mạnh hơn. Bởi thế, nên hai nơi ấy thù thắng hơn hết. Nếu người từ cõi Phật khác sinh đến nơi này thì lại càng thù thắng hơn”.
Trong kinh Xử thai, Đức Phật nói cho Di-lặc nghe bài kệ:
Người ba hội[35] của ông,
Trước do Ta hóa độ,
Chín mươi sáu ức người,
Thụ năm giới của Ta,
Kế là thụ tam qui,
Chín mươi hai ức người,
Một lần xưng mô Phật,
Đều được thành Phật đạo.
Kinh Xử xứ ghi: “Đức Phật nói:
- Bồ-tát Di-lặc không hạ sinh bởi bốn lý do sau:
1. Phúc đức đang ứng ở cõi kia.
2. Con người ở cõi này tâm ý thô kém không thể thụ trì kinh.
3. Công đức chưa viên mãn.
4. Thế gian vẫn có người thuyết giảng được kinh Phật.
Trong tương lai, sau hơn năm mươi ức bảy nghìn sáu mươi vạn năm nữa, bồ-tát Di-lặc sẽ hạ sinh. Vào thời Phật Di-lặc, con người nhìn thấy xa đến bốn nghìn dặm. Con người được phúc báo như thế là nhờ mười nhân duyên đời trước:
1. Không che ánh sáng của người.
2. Không làm tổn hại mắt người.
3. Không che mắt người.
4. Không che giấu việc tốt lành của người.
5. Không nhìn cảnh sát sinh.
6. Không nhìn việc trộm cắp.
7. Không nhìn việc tà dâm.
8. Không nhìn điều riêng tư và khuyết điểm của người.
9. Không nhìn các việc ác.
10. Thắp hương đốt đèn ở chùa thờ Phật”.
Kinh Phật thuyết Di-lặc lai thời ghi: “Lúc Phật Di-lặc chưa ra đời, cỏ cây trên mặt đất và trên núi cõi Diêm-phù-đề đều bị cháy sạch. Hiện nay, mặt đất cõi Diêm-phù-đề có chu vi sáu mươi vạn dặm. Khi Phật Di-lặc ra đời, cõi ấy có chiều đông tây dài bốn mươi vạn dặm, chiều nam bắc rộng ba mươi hai vạn dặm, mặt đất mọc năm thứ quả, không có gò, núi, hang, khe mà bằng phẳng như mặt đá mài, cây cối cao lớn, con người ít tham sân si, dân sống thành nhiều xóm làng. Bấy giờ, có tòa thành tên Phiếm-la-na-di; trong thành có bà-la-môn tên Tu-phạm là cha của bồ-tát Di-lặc, mẹ bồ-tát tên Ma-ha Việt-đề. [06a] Ngài Di-lặc có đầy đủ tướng hảo, cao mười sáu trượng, mắt nhìn thấy xa vạn dặm, ánh sáng quanh đầu chiếu xa bốn nghìn dặm. Bồ-tát Di-lặc đắc đạo khi ngồi ở gốc cây long hoa. Cây này cao ba mươi dặm, tàn lá rộng bốn mươi dặm”. Kinh Đại thành Phật chép: “Cành hoa của cây ấy giống như đầu rồng, nên gọi là cây long hoa. Cũng có truyện khác ghi rằng cây ấy lấy giống từ long cung, nên gọi là cây long hoa. Bồ-tát Di-lặc đắc đạo vào ngày 8 tháng 4, lúc sao Mai mọc. Nhưng sau sáu mươi ức năm nữa, lúc tuổi thọ con người sáu mươi vạn tuổi, Phật Di-lặc mới hạ sinh”.
Truyện Tây quốc hành của Vương Huyền Sách ghi: “Năm Hiển Khánh 2 đời Đường, vua ban sắc sai các ông Vương Huyền Sách v.v… đưa ca-sa sang Tây quốc, đến thôn Pha-la-độ nằm phía tây nam nước Nê-bà-la. Phía đông thôn ấy là một khu trũng có hồ Thủy Hỏa, hễ lấy lửa soi vào hồ ấy thì có ngọn lửa bốc lên cháy trên mặt ao, lấy nước tưới lên để dập lửa thì nó càng cháy mạnh thêm. Các sứ thần nhà Hán từng ở chỗ ấy, treo nồi phía trên ngọn lửa ao để nấu cơm. Sứ thần hỏi vua nước ấy. Nhà vua Đáp: ‘Trẫm từng dùng sào xăm xuống ao ấy, chạm phải một cái rương vàng, sai người kéo rương lên, nhưng càng kéo thì nó càng chìm sâu. Tương truyền rằng rương ấy chứa chiếc thiên quan[36] của Phật Di-lặc đang được một con rồng lửa canh giữ và lửa trong ao ấy chính là lửa của con rồng”.
Luận Đại trí độ ghi: “Lúc còn tại gia, bồ-tát Di-lặc tên Bà-bạt-lê, có ba tướng quí: tướng lông trắng giữa hai chặng mày; tướng lưỡi che kín mặt; tướng âm tàng[37]. Những tướng ấy không phải hễ làm bồ-tát thì có được”.
Luận Bà-sa[38], bản tân dịch ghi: “Nghe nói bấy giờ tôn giả Ca-diếp-ba vào thành Vương Xá khất thực lần cuối. Sau khi ăn xong, tôn giả lên núi Kê Túc. Núi ấy có ba ngọn, hình dáng giống như bàn chân gà ngửa lên. Tôn giả vào núi ngồi kết-già thành tâm phát nguyện: ‘Nguyện thân tôi cùng y, bát và gậy trụ mãi, không hư hoại suốt năm mươi bảy câu-chi sáu mươi trăm nghìn năm, đến khi Từ Thị Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác xuất hiện, tôi sẽ theo hầu Ngài’. Lúc tôn giả phát nguyện xong, liền vào niết-bàn, ba ngọn núi ấy bèn hợp lại thành một ngọn che kín; thế là, tôn giả nghiễm nhiên trụ trong đó. Đến lúc Phật Từ Thị ra đời, Ngài sẽ dẫn vô lượng trời và người lên núi ấy và bảo mọi người: ‘Các ông muốn thấy đại đệ tử công đức đầu-đà đệ nhất của Phật Thích-ca Mâu-ni không?’. Mọi người đều Đáp: ‘Chúng con muốn thấy’. Từ Thị Như Lai liền đưa tay phải vỗ vào đỉnh núi Kê Túc. [06b] Ngay lúc ấy ngọn núi tách ra lại thành ba ngọn, tôn giả Ca-diếp-ba mang y, bát và gậy từ trong bước ra, bay lên không trung. Vô lượng trời, người nhìn thấy sự thần biến ấy đều khen là việc chưa từng có, tâm mọi người trở nên nhu hòa. Lúc ấy, Từ Thị Thế Tôn nói pháp, tất cả đều được kiến đế[39]”.
Nếu không có sự giữ hóa thân, tại sao có việc như thế? Cho nên, có thuyết nói rằng có việc giữ hóa thân.
Hỏi: Nếu như thế, tại sao Đức Thế Tôn không giữ hóa thân để sau khi niết-bàn có thể tùy ý duy trì việc thuyết pháp?
Đáp: Bởi những việc nên làm Phật đã làm xong cả, nghĩa là những người cần độ thì Phật đều hóa độ xong, những người chưa được độ thì các thánh đệ tử sẽ độ. Do đó, có thuyết nói không có sự giữ hóa thân.
Hỏi: Nếu như thế, tại sao có việc của tôn giả Ca-diếp-ba?
Đáp: Thân tôn giả được các thiên thần tôn kính ngài giữ gìn.
Có thuyết nói: bấy giờ tôn giả Ca-diếp-ba chưa vào niết-bàn mà chờ đến thời Phật Từ Thị mới diệt độ.
Điều này không hợp lý. Thà nên nói không có việc giữ thân giáo hóa, chứ không nói tôn giả ấy giữ im lặng suông trong một thời gian dài. Bởi nói như thế tức là có việc giữ thân giáo hóa (tức là vô lý). Do đó, tôn giả Đại Ca-diếp-ba đã vào niết-bàn.
Hàng phàm phu ở cõi Ta-bà tâm lực yếu kém, làm nhiều việc ác, đầu tiên học pháp này, sợ sẽ thoái tâm, cho nên cần thường xuyên phát đại nguyện giữ hạnh này đến khi qua đời, tâm không bị phiền não làm chướng ngại, tùy các căn lành đã gieo trồng mà nguyện cùng chúng sinh tự tại vãng sinh, làm nội chúng[40] của Phật Di-lặc, đến trước Phật tùy niệm tu học chứng quả Bất thoái, không nguyện vãng sinh vào ngoại chúng[41] vì sợ sẽ mê đắm ngũ dục, không được giải thoát.
Luận Đại trí độ ghi: “Có người tu một ít phúc nghiệp, nghe nói có cõi phúc, nên nguyện sẽ vãng sinh. Đến khi qua đời, người ấy được sinh vào cõi kia”.
Luận Đại trang nghiêm ghi: “Sinh về cõi Phật là việc lớn, do đó, tu tập một mình không thể thành tựu được công đức, mà cần phải nhờ sức nguyện. Như con bò tuy có sức mạnh kéo được xe, nhưng cần phải có người đánh xe mới đi đến nơi. Cho nên, cõi Phật thanh tịnh nhờ nguyện dẫn mới thành tựu. Nhờ sức nguyện nên phúc đức tăng trưởng, không hư, không mất, thường gặp Phật”.
Luận Thập trụ ghi: “Người dùng ngón tay nhấc đại thiên thế giới đưa lên hư không thì cũng không đáng xem là việc khó. Nếu ai phát nguyện rằng mình muốn làm Phật thì người ấy mới là người hiếm có. Vì sao? Vì tâm người đời yếu kém, không có chí lớn”.
Luận Phát tâm bồ-đề có nêu mười đại nguyện thường phải tu hành:
1. Nguyện đời trước và đời này con gieo trồng được những căn lành gì đều bố thí cho tất cả chúng sinh, hồi hướng công đức ấy về Phật đạo, khiến điều nguyện này của con tăng trưởng trong từng niệm, [06c] đời đời hễ sinh ở đâu cũng không quên mất, thường được đà-la-ni bảo vệ.
2. Nguyện con nhờ căn lành này, hễ sinh ở đâu đều được gặp Phật, và thường được cúng dường Phật, không sinh trong đất nước không có Phật.
3. Nguyện con được gần gũi chư Phật, theo hầu bên cạnh như bóng theo hình.
4. Nguyện con đã được gần gũi chư Phật, lại còn được nghe các Ngài giảng pháp, khiến con thành tựu được năm thần thông.
5. Nguyện con thông hiểu thế đế giả danh lưu bố[42], đạt đệ nhất nghĩa, chứng được trí chính pháp.
6. Nguyện con dùng tâm không nhàm chán mà giảng giải, chỉ dạy chúng sinh những điều lợi ích và an vui, khiến họ đều hiểu biết.
7. Nguyện con nhờ sức thần của Phật mà đến được tất cả thế giới trong mười phương để cúng dường chư Phật, nghe giảng chính pháp và cứu giúp khắp các chúng sinh.
8. Nguyện con thuận theo pháp luân thanh tịnh, tất cả chúng sinh nghe pháp của con và nghe tên con đều được lìa bỏ tất cả phiền não.
9. Nguyện con đi theo chúng sinh để giúp đỡ và cho họ sự an lạc, xả thân mạng, của cải để gánh vác chính pháp, trừ những việc không có lợi ích.
10. Nguyện con tuy tu hành chính pháp, nhưng tâm không thấy có tu hành mà tu hành tất cả. Vì giáo hoá chúng sinh, con nguyện không bỏ điều nguyện chân chính.
Nguyện con dùng mười đại nguyện này phủ khắp cõi chúng sinh, gom giữ tất cả vô số điều nguyện. Nếu cõi chúng sinh không còn ai thì nguyện của con mới hết. Nhưng cõi chúng sinh không thể tận cùng, nên đại nguyện này của con cũng không thể hết.
Con lại nguyện độ khắp các chúng sinh trong vô biên thế giới, những căn lành tu tập được, con đều hồi hướng về Vô thượng chính giác, được sinh vào thời Phật Di-lặc, nghe pháp thanh tịnh, ngộ Vô sinh nhẫn. Nguyện đem tất cả căn lành tu tập được khi đi, đứng, ngồi, nằm trong cả đời, cùng pháp giới chúng sinh hồi hướng về cõi Phật Di-lặc, ở trước Ngài thành tựu quả Bất thoái.
(Ngoài ra, phương pháp tu niệm và quán cầu thấy các Đức Phật A-di-đà, Di-lặc v.v… được trình bày đầy đủ trong bộ Thiền môn gồm mười quyển. Ở đây chỉ trích nêu kinh văn để dạy việc vãng sinh).
Pháp sư Huyền Trang nói:
- Người xuất gia và tại gia ở Ấn Độ đều tu tịnh nghiệp Di-lặc, bởi vì cùng ở trong Dục giới thì tu hành dễ thành tựu. Các vị tăng Đại thừa và Tiểu thừa đều chấp nhận pháp này. Còn Tịnh độ A-di-đà, chỉ sợ hàng phàm phu dơ uế, nhiều phiền não tu hành khó thành tựu được.
Theo kinh luận cựu dịch, bồ-tát từ Thập địa trở lên, tùy phần thấy được Báo Phật Tịnh độ, còn theo ý kinh luận tân dịch thì bồ-tát Tam địa thấy được Báo Phật Tịnh độ. [07a] Thế thì, lẽ nào hàng phàm phu kém cỏi lại được vãng sinh Tịnh độ A-di-đà? Đấy là ý vãng sinh vào lúc khác, chưa thể chắc chắn được. Cho nên, hàng Đại thừa ở Ấn Độ chấp nhận pháp tu này (Tịnh độ A-di-đà), nhưng hàng Tiểu thừa không chấp nhận. Vì thế, cả đời pháp sư thường xuyên tu tịnh nghiệp Di-lặc, lúc lâm chung phát nguyện sinh lên trời Đâu-suất diện kiến Phật Di-lặc. Bấy giờ, ngài thỉnh đại chúng cùng xướng kệ:
Nam-mô Di-lặc Như Lai,
Ứng chính đẳng giác.
Nguyện cùng chúng sinh,
Sớm hầu bên Phật.
Nam-mô Di-lặc Như Lai,
Trụ chúng nội điện,
Nguyện bỏ thân rồi,
Hẳn sinh trong đó.
6. Niệm Phật tam-muội
Phàm phu thường nghĩ tưởng điên đảo, theo ý mình chấp trước sai lầm, lại bị sáu trần quấy phá, khiến bị luân chuyển trong năm đường. Thật bởi sợi dây nghiệp trói buộc, nên khó thoát khỏi quả báo khổ. Vì thế, Đức Phật khởi lòng từ thương xót chúng sinh, tùy căn cơ mà tiếp dẫn, trình bày cõi Tịnh vi diệu, khuyên dạy mọi người quán tướng thù thắng của Như Lai, tha thiết thực hành không biếng nhác, khởi tâm ưa thích kính ngưỡng, quán từ trên xuống và từ dưới lên, tùy tâm mà quán cảnh đầy đủ hay vắn tắt, khiến hiểu được rằng thiện ác do tâm; nếu thiện nghiệp thành, thì sẽ có ngày được thấy Phật, lúc qua đời sẽ vui mừng tùy niệm thụ sinh. Nếu chúng sinh từ trước không tu phúc nghiệp này, khi vô thường chợt đến, sẽ hốt hoảng sợ hãi, nẻo tâm mênh mang, tịnh nghiệp chẳng có, không biết nương gá vào đâu, nhắm mắt rồi, phải theo nghiệp chịu khổ nạn. Vì thế, gây tội và làm phúc tuy cùng là mưu tính vì bản thân, nhưng chẳng bằng tu thiện. Bởi tu thiện thì được gặp Phật, làm ác thì phải chịu khổ. Do đó, kinh Hoa nghiêm có bài kệ:
Thà chịu tất cả khổ,
Mà được nghe tiếng Phật,
Chớ không ham vui gì,
Để chẳng nghe tên Phật.
Sở dĩ vô lượng kiếp,
Chịu các khổ não này,
Lưu chuyển trong sinh tử,
Bởi chẳng nghe tên Phật.
Kinh Vô lượng thọ ghi: “Giả sử tam thiên đại thiên thế giới bị nạn lửa thiêu đốt, nhưng phải ở trong đó để được nghe danh hiệu Phật A-di-đà thì chưa đáng gọi là nạn”.
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Bấy giờ, bồ-tát Di-lặc bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Thế Tôn đại từ đại bi thương xót tất cả chúng sinh. Trong đời vị lai có nhiều chúng sinh tạo nghiệp bất thiện mà Phật không còn trụ thế thì phải nương nhờ vào đâu để trừ tội lỗi?
[07b] Đức Phật bảo Di-lặc:
- Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều chúng sinh vì không được gặp Phật mà gây các nghiệp tội. Những người ấy phải quán tưởng tượng Phật. Quán tưởng tượng Phật không khác gì quán tưởng thân Ta.
Khi Phật nói những lời ấy, các Đức Phật ở mười phương từ trên không trung đều lên tiếng khen:
- Quí thay! Nay đã đúng lúc. Chớ có nghi ngờ!
Phật bảo bồ-tát Di-lặc:
- Nay Như Lai sẽ nói cách trừ tội cho những chúng sinh chịu ngũ khổ[43], các tì-kheo phạm giới cấm, người làm ác, kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng Phật, làm mười sáu thứ ác luật nghi trong đời vị lai.
Bấy giờ, A-nan bạch:
- Thế Tôn nói cách trừ tội như thế nào?
Phật bảo A-nan:
- Nếu Ta còn tại thế, qui y Ta gọi là qui y Phật, là qui y Pháp, là qui y Tăng. Muốn quán tưởng tượng Phật, trước hết vào trong tháp Phật, dùng bùn thơm tốt và đất sạch xoa khắp mặt đất cho sạch. Sau đó, tùy khả năng mà thắp hương và rải hoa cúng dường tượng Phật, trình bày tội lỗi của mình rồi, lễ Phật sám hối. Điều phục tâm như thế từ một đến bảy ngày, lại vào trong chúng để quét dọn phân rác trong già-lam, sám hối chúng tăng, đỉnh lễ chúng tăng. Lại trải qua bảy ngày cúng dường như thế, tâm không nhàm mỏi. Nếu là người xuất gia, phải hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính sư trưởng, giữ tâm nhu hòa. Nếu tâm không nhu hòa thì phải chế phục cho điều thuận, rồi ở chỗ yên vắng, đốt các thứ hương thơm, lễ Phật Thích-ca-văn và nói: ‘Nam-mô Đại Đức, Ứng Chính Biến Tri, Đại Bi Thế Tôn, Đại Hòa Thượng của con! Xin Ngài hãy lòng từ che chở đệ tử’. Nói xong, khóc lóc gieo năm vóc sát đất lễ tượng Phật. Tiếp đó, đứng dậy, sửa y phục ngay ngắn, ngồi kết-già, tập trung tư tưởng. Tùy loại chúng sinh nào (đã nói ở trước) mà buộc tâm ở chót mũi, hay trên trán, hoặc ngón chân v.v… Tùy ý mà tập trung tư tưởng theo các cách như thế, tâm chuyên chú vào một chỗ, chớ để phân tán khiến tâm dao động. Nếu tâm dao động thì đưa lưỡi lên vòm họng, ngậm miệng, mở mắt, chắp tay, ngồi ngay ngắn. Thực hiện như thế từ một đến bảy ngày khiến thân an ổn rồi, mới quán tưởng tượng Phật.
Nếu thích quán ngược thì quán từ ngón chân lần lượt lên phía trên. Trước hết, quán tưởng ngón chân tượng Phật, chú tâm vào năm ngón chân suốt một ngày đến bảy ngày, khiến cho dù mở hay nhắm mắt đều thấy được rõ ràng ngón chân tượng Phật. Kế đó, quán tưởng hai tay tượng Phật, rồi lần lượt quán lên đến nhục kế. Tiếp đó, lại quán tưởng mặt tượng. [07c] Nếu không thấy rõ thì sám hối lại và tự phải nỗ lực thêm nhiều. Nhờ giữ giới thanh tịnh, nên thấy rõ ràng mặt tượng Phật sáng như gương vàng ròng. Sau đó, quán tưởng tướng lông trắng giữa hai chặng mày giống như ngọc, như pha-lê, xoắn tròn theo chiều bên phải. Khi thấy được tướng này thì sẽ thấy đôi mắt và chân mày tượng Phật giống như tranh do họa sĩ trời vẽ. Quán tưởng thấy như thế rồi, tiếp theo là quán tưởng ánh sáng trên đỉnh đầu tượng Phật thật rõ ràng. Quán tưởng các tướng như thế gọi là quán ngược.
Nếu thích quán xuôi thì quán từ các lọn tóc xoăn tròn như trôn ốc trên đầu Phật tựa như những cuộn tơ đen cuộn tròn theo chiều bên phải. Kế đó, quán tưởng gương mặt tượng, rồi quán tưởng thân, dần dần quán tưởng xuống chân. Quán đi quán lại như thế mười bốn lần, quán kỹ đến lúc thấy hết sức rõ ràng toàn thân tượng. Sau khi quán tưởng hoàn toàn thành tựu, dù nhập định hay xuất định, hành giả thường thấy tượng Phật đứng trước mặt mình. Khi thấy rõ ràng một tượng rồi, lại quán tưởng cho thấy được hai tượng, tiếp theo là ba tượng …, cho đến mười tượng; tất cả đều quán tưởng thấy cho rõ ràng. Khi thấy rõ được mười tượng rồi, lại quán tưởng tượng Phật đầy khắp cả một phòng, không còn chỗ trống. Quán tưởng tượng Phật đầy khắp một phòng rồi, lại càng tinh tiến thêm, đốt hương, rải hoa, quét tháp, dọn nền tháp, cúng dường việc tắm rửa của chư tăng. Sau khi cúng dường chư tăng và cha mẹ xong, phải phát nguyện: ‘Nay ta quán tưởng tượng Phật, nguyện không đem công đức này cầu làm người, hoặc trời, hoặc thanh văn, duyên giác, mà chỉ cầu đạo Bồ-đề’.
Phát nguyện như thế xong, lại cầu mong pháp Đại thừa, thực hành sám hối, khuyến thỉnh chư Phật, tùy hỉ và hồi hướng. Sau đó, ngồi ngay ngắn, giữ niệm hiện tiền, quán cảnh giới Phật dần dần rộng lớn đến cả một tăng phường đầy khắp tượng Phật. Thấy thân Phật vàng cao một trượng sáu, có hoa sen đỡ chân, hào quang quanh đầu rộng một tầm, toàn thân cũng tỏa hào quang. Lại quán các Hóa Phật và các thị giả của Phật đều có hào quang rực rỡ. Quán tưởng tượng Phật đầy khắp một tăng phường xong, lại quán tưởng tượng Phật đầy khắp một khoảnh…, một trăm khoảnh, một trăm do-tuần, tất cả tượng Phật đều có tướng hảo sáng rỡ. Quán tưởng như thế thành tựu rồi, lại quán tưởng tượng Phật đầy khắp cõi Diêm-phù-đề, rồi quán đến ba thiên hạ[44] còn lại đều đầy khắp tượng Phật. Khi ấy, thân tâm hoan hỉ, càng tinh tiến thêm nhiều, phải cung kính đỉnh lễ mười hai thể loại kinh, thành tâm gieo năm vóc sát đất sám hối trước kinh Bát-nhã ba-la-mật.
Sau khi thành tựu phép quán tưởng, hành giả nhắm mắt, chắp tay, ngồi ngay ngắn, nhập định, quán tưởng xa rộng hơn, quán tưởng tất cả tượng Phật đầy khắp trong mười phương thế giới đều là vàng ròng, các lỗ chân lông trên toàn thân Phật đều phóng ánh sáng, mỗi tia sáng có vô số màu châu báu, trong mỗi một màu lại có vô lượng màu sặc sỡ, cảnh giới vi diệu tự hiện ra. Phép quán tưởng này gọi là quán tượng đứng. Người thực hành phép quán này trừ được tội sinh tử trong sáu mươi ức kiếp. Đó cũng gọi là quán Phật. [08a] Người ấy đời vị lai sẽ gặp được một nghìn vị Phật kiếp Hiền làm thầy mình, được lần lượt xuất gia trong Phật pháp, nghe Phật giảng pháp, ghi nhớ không quên. Người ấy được Phật Quang Minh ở kiếp Tinh Tú thời vị lai hiện trước mặt thụ kí cho. Người quán tưởng với tâm thô như thế còn được vô lượng công đức như vậy, huống gì chú tâm quán ánh sáng của sợi lông trắng giữa hai chặng mày Đức Phật!
Bấy giờ, Đức Phật lại vì chúng sinh mà giảng phép quán tượng ngồi:
- Phải quán tưởng tượng Phật ngồi trên tòa hoa báu. Khi Phật ngồi, mặt đất tự nhiên hiện ra luồng ánh sáng trắng tinh khiết và khả ái như ánh sáng ngọc lưu li, trong các tia sáng ấy có trăm ức bồ-tát trắng như tuyết. Quán tưởng từ mỗi lỗ chân lông của tượng Phật xuất hiện một vị bồ-tát, mỗi lỗ chân lông trên thân bồ-tát phóng ra một luồng ánh sáng màu vàng rất mạnh chiếu khắp nơi, khiến các thế giới trong mười phương đều sáng rực một màu vàng. Nếu có chúng sinh nào quán tưởng tượng Phật ngồi thì người ấy trừ được tội sinh tử trong năm trăm ức ức kiếp, sẽ gặp một nghìn vị Phật trong kiếp Hiền và mười vạn Phật trong kiếp Tinh Tú, thụ trì lời dạy của từng Đức Phật, thân tâm an ổn, không tán loạn, được từng Đức Phật đến trước mặt thụ kí thành Phật sau một số kiếp nhất định nữa.
Khi ấy, Đức Phật bảo A-nan:
- Nếu có chúng sinh nào quán tưởng tượng Phật ngồi rồi, lại nên quán tưởng tượng Phật đi. Hành giả quán thấy tượng Phật đi đầy trong mười phương thế giới, thấy từng tượng Phật trong không trung, hoặc trên mặt đất, từ tòa đứng dậy. Khi mỗi tượng Phật đứng dậy, từ mỗi một trong số năm trăm ức tòa hoa báu, đều xuất hiện vô số tia sáng; trong mỗi tia sáng, tùy tâm tưởng mà có vô số vị Hóa Phật; mỗi vị Hóa Phật đều phóng ánh sáng màu vàng chiếu vào thân hành giả. Bấy giờ, hành giả nhập định, tự thấy ba mươi sáu vật bất tịnh trong thân mình lộ ra. Khi các vật bất tịnh hiện ra thì nên mau chóng diệt trừ. Phải quán tưởng các thứ bất tịnh này do tham ái sinh ra, là giả dối, không thật. Dùng phép quán này khiến các vật bất tịnh biến thành ngọc trắng, tự thấy thân mình như bình ngọc trắng, trong ngoài đều rỗng rang. Khi thực hiện phép quán này, nên uống thuốc và sữa tinh chớ để bụng trống. Lại thỉnh các tượng Phật dùng tay xoa đầu, phóng ánh sáng rực rỡ chiếu thân mình. Khi ấy, hành giả tự thấy thân mình có màu như vàng ròng.
Khi thành tựu phép quán này rồi, xuất định, hoan hỉ lễ kính chư Phật, tu các công đức, hồi hướng bồ-đề. Bấy giờ, các Đức Phật, dị khẩu đồng âm[45], giảng pháp cho hành giả nghe. Tuy chưa đắc đạo, nhưng hành giả được thấy Phật, nghe pháp, ghi nhớ hết không quên. Đó là pháp Niệm Phật tam-muội của hàng phàm phu. Khi được tam-muội này, trong khoảng sát-na thường thấy các Đức Phật, qua một ngày một đêm liền thông hiểu hết pháp Đại thừa do các Đức Phật giảng. [08b] Mỗi Đức Phật đều nói lời thụ kí: ‘Ngươi nhờ nhớ tưởng Phật nên đến kiếp Tinh Tú sẽ được thành Phật, có thân tướng và ánh sáng không khác gì Ta’. Khi Phật nói lời ấy xong, tám mươi ức Phật đồng thời phóng ánh sáng, trong ánh sáng ấy có vô lượng Hóa Phật đều nói như thế.
Đức Phật bảo A-nan:
- Muốn thành tựu pháp Niệm Phật tam-muội, phải có năm nhân duyên: trì giới không phạm; không khởi tà kiến; không kiêu mạn; không giận hờn, ganh ghét; tinh tiến mạnh mẽ. Phải thực hành năm việc này như cứu lửa cháy đầu. Bởi niệm Phật giúp tâm không lui sụt, nên phải cúng dường các Đức Phật trong mười phương. Cúng dường như thế nào? Sau khi xuất định, người ấy nên vào trong tháp chiêm bái tượng Phật, tụng trì kinh. Nếu lễ một vị Phật, phải nghĩ rằng: ‘Các Đức Phật Chính Biến Tri có tâm vô ngại. Nay con lễ một vị Phật tức là lễ tất cả các Đức Phật’. Nếu nhớ nghĩ đến một vị Phật thì thấy tất cả các Đức Phật, trước mỗi vị Phật có một hành giả chính là thân mình, lễ sát chân Ngài, dâng hoa cúng dường và nghĩ: ‘Pháp thân chư Phật có công đức vô lượng, không trụ không diệt, mà thường trụ vắng lặng. Nay con kính dâng hoa lên chư Phật, nguyện các Ngài nhận lấy’, lại nghĩ rằng hoa mà mình cầm sinh ra từ cỏ cây, đem hoa này cúng dường có thể được các Đức Phật nghĩ tưởng đến. Phải quán tưởng từ mỗi lỗ chân lông trên thân mình hiện ra vô số mây hoa và khói hương mây hương tỏa khắp mười phương thế giới làm Phật sự, rồi lại hợp thành đài vàng ở trước mặt hành giả. Nếu là phàm phu cúng dường thì tay bưng lư hương và cầm hoa phát nguyện: ‘Nguyện hoa hương này tỏa đầy khắp mười phương thế giới, cúng dường tất cả Phật, Hóa Phật, bồ-tát và vô số thanh văn. Các Ngài nhận lấy mây hoa hương này để làm đài ánh sáng rộng hơn vô số cõi, làm vô lượng Phật sự. Từ mỗi lỗ chân lông đều xuất hiện tràng phan, vô số âm nhạc, y phục đẹp quí, trăm món ăn uống, các thứ cúng dường đều đúng với pháp ở trước’.
Đức Phật bảo A-nan:
- Chúng sinh đời vị lai, ai được môn Niệm Phật tam-muội này, nên bảo người ấy giữ gìn cẩn mật thân, khẩu, ý, đừng khởi tà kiến, đừng sinh lòng kiêu ngạo. Nếu khởi tâm kiêu ngạo và sống bằng các nghề ác, nên biết người ấy là người tăng thượng mạn, phá diệt Phật pháp, khiến chúng sinh khởi tâm bất thiện, phá hòa hợp tăng, làm các việc lạ để mê hoặc mọi người, là bạn của tà ma. Người như thế, tuy có niệm Phật, cũng không được giải thoát; vì tâm kiêu ngạo, người ấy sinh chỗ nào thì thân thể cũng thường nhỏ bé và sinh vào nhà hèn hạ, nghèo túng, chịu vô số ác nghiệp báo. [08c] Những việc xấu như thế, nên tự ngăn ngừa không để phát sinh”.
Có bài tụng rằng:
Pháp thân không hình tướng,
Chí giáo bặt ngữ ngôn,
Tùy cơ mà ứng hiện,
Theo niệm mà lưu truyền,
Thương xót kẻ chìm đắm,
Hoằng dương diệu môn này,
Cảnh tâm cùng cảm ứng,
Cứu giúp kẻ tối tăm.
Nước đủ tám tính chất,
Các hàng cây bảy báu,
Chim lành lượn quanh ao,
Cất vang tiếng vi diệu,
Trống pháp cùng hòa âm,
Gió lành dẫn đưa đường,
Cung kính nghe diệu ngôn,
Kính học pháp sâu kín,
Rực rỡ thay! Đâu-suất,
Cao xa ấy!Từ Tôn,
Ánh sáng soi cung trời,
Oai chấn chúng sinh giới,
Hoa tiên bay phất phới,
Nơi Điện báu ngập tràn,
Đem phúc đã cúng dường,
Nhuần thấm kẻ cô độc,
Tụ họp nương cõi kia,
Chẳng cô phụ lời nguyện.
Mộng trần đã lắng dịu,
Lại giúp các hữu tình,
Biên chép và lưu truyền,
Dài lâu như trời đất,
Văn từ có thể thiếu,
Thệ tâm nào hư hoại?”.
Quảng An dịch
_____________________
[1] Mười hai thể loại kinh (thập nhị bộ kinh 十二部經; S: dvādaśāṅga-buddha-vacana): mười hai thể loại kinh được phân biệt theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp. Đó là: Khế kinh, Ứng tụng, Kí biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, Hí pháp, Luận nghị.
[2] Li 螭: tên một loài vật tương tự loài rồng, nhưng có sắc vàng.
[3] Long 龍: loài rồng
[4] Mặc gia 墨家: học phái do Mặc tử đề xướng.
[5] Rừng ban mai chuyển màu (thần lâm biến thái 晨林變彩): khi Đức Phật nhập niết-bàn, cả khu rừng ta-la song thụ đều biến thành màu trắng.
[6] Xích Ô 赤烏: niên hiệu của Ngô Tôn Quyền (238-251)
[7] Hiển Khánh 顯慶: niên hiệu của Đường Cao Tông (656- 660) .
[8] Ngũ nhãn 五眼 (S: pañca cakṣūṃṣi): năm con mắt. Đó là nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn.
[9] Tam điểm 三點: ba đặc điểm lý, trí, sự của pháp thân Phật.
[10] Tám pháp (bát phong 八風): gồm lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
[11] Tướng bạch hào (bạch hào tướng 白毫相): tướng lông trắng giữa hai chặng mày của Đức Phật.
[12] Địa ngục A-tì (A-tì địa ngục 阿毗地獄; S: Avỵci; Cg: địa ngục Vô Gián): địa ngục nằm dưới đáy trong số tám địa ngục chồng lên nhau rất sâu dưới lòng đất cõi Diêm-phù-đề. Người phạm một trong các tội ngũ nghịch, sau khi chết sẽ bị đọa ngay vào địa ngục A-tì mà không qua thân trung ấm, chịu khổ suốt một kiếp không gián đoạn.
[13] Phật Tùy-diệp (Tuỳ-diệp Phật 隨葉佛; S: Viśvabhū 或 Viśvabhuk): kinh Đại bản trong Trường a-hàm ghi là Phật Tì-xá-phù.
[14] Phật Câu-lâu-tần (Câu-lâu-tần Phật 拘樓秦佛; S: Krakucchanda-buddha): kinh Đại đản trong Trường a-hàm ghi là Phật Câu-lưu-tôn.
[15] Phật Câu-na-hàm (Câu-na-hàm Phật 拘那含佛; S: Kanakamuni; Cg: Câu-na-hàm Mâu-ni Phật): vị Phật thứ bảy trong bảy vị Phật quá khứ, hay là Phật thứ hai trong một nghìn vị Phật ở kiếp Hiền.
[16] Tam minh 三明 (S: tri-vidya): tam chứng pháp, gồm túc mệnh trí chứng minh, sinh tử trí minh và lậu tận trí chứng minh, tức là trí tuệ thông đạt không trở ngại ba việc túc mệnh, thiên nhãn, và vô lậu tận.
[17] Lục thông 六通 (S: ṣaḍ abhijñāḥ): sáu năng lực thù thắng của bậc thánh tam thừa, gồm có thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mệnh thông và lậu tận thông.
[18] Bát giải thoát 八 解脫 (S: aṣṭau vimokṣāḥ): tám định lực giúp hành giả lìa bỏ tham dục của cõi Sắc và cõi Vô sắc: trong có tưởng về sắc dục, quán các sắc để giải thoát; trong không có tưởng về sắc dục, ngoài quán các sắc để giải thoát; thân thanh tịnh giải thoát trí chứng cụ túc trụ; vượt các sắc tưởng diệt hữu đối tưởng, không suy nghĩ mọi cái tưởng, nhập vào Không vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; vượt tất cả Không vô biên xứ, nhập Thức vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; vượt qua tất cả Thức vô biên xứ, nhập Vô sở hữu xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập tưởng thụ diệt, an trụ đầy đủ giải thoát.
[19] Bốn tấc (tứ thốn 四寸): Trung Quốc sử dụng một tấc bằng 3,3cm.
[20] Tứ đẳng tâm 四 等心 (S: Catvãr apramãnãni): bốn tinh thần phải có của Phật, bồ-tát để độ khắp vô lượng chúng sinh, giúp họ lìa khổ được vui, đó là từ, bi, hỷ, xả.
[21] Năm thứ trược (ngũ trọc 五濁; S: pañca kaṣāyāḥ): năm thứ cặn đục trong Kiếp giảm gồm Kiếp trược: khi tuổi thọ con người giảm còn ba mươi tuổi thì có nạn đói kém, khi giảm còn hai mươi tuổi thì có nạn bệnh tật, khi giảm còn mười tuổi thì có nạn chiến tranh, tất cả chúng sinh đều bị hại; kiến trược: chính pháp đã diệt, tà pháp khởi lên, tà kiến tăng mạnh, con người không tu tập pháp lành; phiền não trược: chúng sinh có nhiều ái dục, tham lam, bỏn xẻn, thích đấu tranh, dua nịnh, dối trá, học theo tà pháp, nên tâm thần não loạn; chúng sinh trược: chúng sinh thường độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới; mạng trược: do ác nghiệp tăng, đời nay tuổi thọ con người giảm dần, hiếm người được trăm tuổi.
[22] Lương Nhiếp luận 梁攝論 (Cg: luận Nhiếp Đại Thừa) : luận, ba quyển, do ngài Chân Đế dịch vào đời nhà Trần.
[23] Tam tuệ 三慧: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.
[24] Sa-ma-tha 沙摩他 (S:śamatha): tức là chỉ, một phương pháp tu tập dừng tâm một chỗ, dứt trừ phiền não, vọng tưởng.
[25] Tì-bát-xá-na 毘鉢舍那: tức là quán. Một phương pháp tu tập sinh khởi chính trí để quán chiếu đối tượng, khế hội chân như.
[26] Vô phân biệt trí 無分別智 (S: nir-vikalpa-jñāna): tức căn bản trí.
[27] Tám tính chất (bát công đức thủy 八功德水): nước trong ao sen ở Tịnh độ có tám tính chất ưu việt: trong trẻo, mát mẻ, ngon ngọt, mềm nhẹ, thấm nhuần, an hòa, trừ đói khát, nuôi lớn các căn.
[28] Linh Thứu 靈鷲 (S: Gṛdhrakūṭa): núi ở phía đông bắc thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà, Trung Ấn Độ. Vì hình dáng núi này giống như đầu con chim thứu và trong núi có nhiều chim thứu sinh sống nên có tên là Linh Thứu.
[29] Bản thức 本識 (S: mūla-vijñāna): thức căn bản của bảy thức như nhãn thức, nhỉ thức... tức là thức a-lại-da.
[30] Ưu-ba-đề-xá 優波提舍 (S: upadeśa): một trong mười hai thể loại kinh, nghĩa là Tùy Thị. Tức là chú giải hoặc diễn nghĩa các giáo pháp do Phật diễn nói làm cho ý nghĩa được sáng tỏ hơn, cũng tức là một trong các loại vấn đáp nghị luận trong kinh.
[31] Chưa nhập tính (vị nhập tính địa 未入性地): hàng phàm phu chưa vào địa vị Thập trụ, tức hạng phàm phu từ Thập tín trở về trước.
[32] Tứ chúng 四衆 (S: catasraḥ parṣadaḥ): bốn chúng đệ tử của Đức Phật. Đó là tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
[33] Bát bộ 八部: tám bộ chúng gồm trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già.
[34] Ngũ dục 五 欲 (S: pañca kāmāḥ): năm thứ ham muốn sinh ra từ sự nhiễm trước năm trần cảnh như sắc dục, thinh dục, hương dục, vị dục, xúc dục.
[35] Ba hội (tam hội 三會): ba hội thuyết pháp của chư Phật. Đến đời đương lai Đức Phật Di-lặc sẽ hạ sinh cũng có ba hội thuyết pháp để giáo hóa các chúng sinh mà Đức Thích Tôn chưa hóa độ.
[36] Thiên quan 天冠: mũ của chư thiên.
[37] Tướng âm tàng (mã âm tàng tướng 馬陰藏相; S: kośopagata-vasti-guhya): nam căn ẩn kín không lộ ra bên ngoài, một trong ba mươi hai tướng đại nhân của Đức Phật.
[38] Luận Bà-sa (Bà-sa luận 婆沙論; Gđ: A-tì-đạt-ma Đại tì-bà-sa luận; S: Abhidharmamahāvibhāṣā-śāstra): luận, hai trăm quyển, do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng tập 27. Luận này chú thích luận A-tì-đạt-ma Phát trí của luận sư Ca-đa-diễn-ni tử ở Ấn Độ, giải thích rõ về ý nghĩ các pháp và liệt kê đầy đủ các thuyết khác nhau.
[39] Kiến đế 見諦: chứng ngộ chân lý của hàng thanh văn từ quả Dự lưu trở lên và bồ-tát Sơ địa trở lên.
[40] Nội chúng 內衆: chúng sinh được sinh lên nội viện của cung trời Đâu-suất, nơi bồ-tát Di-lặc thuyết pháp.
[41] Ngoại chúng 外衆: chúng sinh được sinh lên ngoại viện của cung trời Đâu-suất.
[42] Lưu bố 流布: truyền bá rộng khắp.
[43] Ngũ khổ 五 苦: năm thứ khổ não. Đó là chư thiên khổ, nhân đạo khổ, súc sinh khổ, ngạ quỉ khổ, địa ngục khổ hay sinh lão bệnh tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
[44] Ba thiên hạ (tam thiên hạ 三天下): tức ba châu quanh núi Tu-di. Đó là Đông Thắng Thân châu, Nam Thiệm Bộ châu và Tây Ngưu Hoá châu.
[45] Dị khẩu đồng âm 異口同音: nhiều người đồng nói một lời cùng một lúc.