Bồ tát Địa Tạng ở trong thế gian rất được dân chúng tôn trọng kính ngưỡng; trong giới xuất gia cũng có các vị đại đức đặc biệt tôn kính. Phần lớn người ta tôn kính Bồ tát Địa Tạng chỉ vì biết được đại nguyện của Ngài rằng: “Địa ngục chưa hết chúng sanh ch ú ng sinh, Tôi nguyện không thành Phật” mà không hề biết rõ về pháp môn làm lợi sinh của Ngài. Hi vọng mọi người nên căn cứ vào pháp môn này để tiến đến hiểu rõ hơn về sự vĩ đại của Bồ tát, và đây là ý nghĩa được thảo luận tiếp theo.
Lời nói đầu
Tháng 7 âm lịch mỗi năm, giới Phật giáo Trung Quốc đều tổ chĐức thịnh hành các pháp hội cầu siêu bạt độ. Thứ nhất là pháp hội Vu lan. Khi Đức Phật Thích ca Mâu ni còn tại thế, tôn giả Mục kiền liên muốn cứu mẹ thoát khỏi cảnh khổ đói khát của ngạ quỷ, đã vào thỉnh Phật và chư Thánh tăng cúng dường. Từ sự kiện này mà có pháp môn cúng dường trai tăng vào ngày rằm tháng 7. Kế đến là pháp hội iạ Tạng vào ngày 30 tháng 7 âm lịch, kỷ niệm ngày Bồ tát Địa Tạng nhập Niết bàn và ứng hóa ở đất Trung Hoa. Bởi vì Bồ tát Địa Tạng cứu độ chúng sinh trong Địa ngục nên tháng 7 có ngày pháp hội Địa Tạng. Ngoài ra, còn có pháp hội Du già Diệm khẩu, pháp hội này kỷ niệm pháp môn mà Đức Phật đã vì A nan khai thị để cứu độ chúng sinh ở Địa ngục ngạ quỷ. Ba pháp hội này, trong tháng 7 ở Trung Quốc, có xu thế kết hợp thành một. Trong pháp hội lần này, tôi nói sơ lược về pháp môn của Bồ tát Địa Tạng.
1. Sự tôn kính của Tăng tục ở Trung Quốc
1.1. Tín ngưỡng dân gian: Đề xướng đạo hiếu, siêu độ cứu tế cha mẹ
Ở Trung Quốc, Bồ tát Địa Tạng được giới xuất gia và tại gia tôn trọng kính ngưỡng rộng rãi. Vị Bồ tát này đề cao đạo hiếu, chú trọng việc cứu tế siêu độ cha mẹ. Người Trung Quốc đặc biệt xem trọng đạo hiếu, tinh thần “Thương nhớ cha mẹ, kính tưởng tổ tiên”26 của họ khế hợp với pháp môn Địa Tạng. Vì vậy, Bồ tát Địa Tạng ở tại Trung Quốc được tôn kính đặc biệt. Rất nhiều vị đại Bồ tát được đề cập đến trong kinh điển, nhưng vị khá quen thuộc gần gũi với người dân Trung Quốc, đó chính là Bồ tát Quan Âm và Địa Tạng. Ở quê tôi, ngày 30 tháng 7 âm lịch, nhà nhà đều đốt hương để tưởng nhớ ngài Địa Tạng. a phần người theo đạo Phật thường trì tụng kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện, hoặc phát tâm ghi chép để lưu truyền kinh này. Có thể nói người người đều biết làm thế, đó thực chất xuất phát từ tâm hiếu thảo muốn cầu siêu cho cha mẹ đã quá vãng. Do vậy vào tháng 7, ngoài pháp hội Vu Lan, còn có pháp hội Địa Tạng. Vào tháng này, các tự viện rất bận rộn. Điều này cho thấy Bồ tát Địa Tạng đã trở thành đối tượng được tín ngưỡng rộng rãi trong nhân gian. Chúng ta theo Phật giáo thì phải nên hiểu công đức của Bồ tát Địa Tạng như thế nào.
1.2. Đại đức kính trọng: Đại sư tôn kính pháp môn lợi sinh của Địa Tạng
Bồ tát Địa Tạng không chỉ được người thế gian tôn kính, mà còn được các vị xuất gia có đức hạnh lớn đặc biệt tôn trọng. Ở đây xin nêu ra hai vị đại Đức.
Theo sử liệu Phật giáo Trung Quốc, vào khoảng cuối đời Minh và đầu đời Thanh, có bốn vị đại sư nổi tiếng xuất hiện trên đất nước này, đó là: Tử Bách, Liên Trì, Hàn Sơn, và Ngẫu Ích. Trong đó, đại sư Ngẫu Ích là một vị pháp sư tinh thông cả Thiền, Luật, Thiên Thai, và Tịnh ộ; các pháp môn này đều được Sư hoằng dương. Đại sư đặc biệt kính trọng Bồ tát Địa Tạng, đã từng đối trước tôn tượng Bồ tát này phát nguyện. Đại sư Ngẫu Ích lúc trẻ đã thọ giới tỳ kheo, nhưng sau đó lại đối trước tượng Bồ tát Địa Tạng xả giới tỳ kheo mà thọ Sa di Bồ tát. Đại sư Hoằng Nhất thuộc thời cận đại, là vị mà mọi người đều biết đến. Ông vốn là một nhà nghệ thuật, sau đó xuất gia, chuyên nghiên cứu Giới luật, trở thành một vị đại sư tinh thông Luật tạng thuộc thời cận đại. Đại sư Hoằng Nhất cũng đặc biệt kính ngưỡng Bồ tát Địa Tạng. Một năm nọ, sư đến Hạ Môn, nhìn thấy cư sĩ Lô Thế Hầu chích máu vẽ thánh tượng Bồ tát Địa Tạng, nhân đây đại sư khuyến khích cư sĩ này họa bức tranh về sự tích ứng hóa của Bồ tát Địa Tạng. Đại sư Hoằng Nhất đều ghi lời khen cho mỗi bức họa. Sau đó, vị cư sĩ kia in các bức họa này, mang đến chúc thọ tuổi 60 cho Đại sư. Dựa vào đây có thể thấy hai vị đại sư này tôn kính Bồ tát Địa Tạng đến như thế nào. Thông thường người tin ngưỡng Bồ tát Địa Tạng chỉ biết đến Ngài vì muốn cứu độ chúng sinh trong Địa ngục nên đã phát đại nguyện: “Địa ngục chưa hết chúng sinh, Tôi nguyện không thành Phật”, nhưng họ vẫn chưa hiểu rõ pháp môn lợi sinh của Bồ tát Địa Tạng. Nhờ ngang qua sự tán thán tôn kính của các vị đại đức xưa và nay, chúng ta có thể cảm niệm được công đức bất khả tư nghì của Bồ tát Địa Tạng. Hi vọng mọi người nên căn cứ vào pháp môn này để hiểu rõ hơn về sự vĩ đại của Bồ tát Địa Tạng. ây là ý nghĩa được thảo luận tiếp sau đây.
2. Bồ tát Địa Tạng ở núi Cửu Hoa
Trung Quốc có bốn ngọn núi nổi tiếng, cũng chính là đạo tràng mà bốn vị Bồ tát ứng hóa. Núi Ngũ ài là nơi ứng hóa của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, núi Nga Mi của Bồ tát Phổ Hiền, núi Nam Hải Phổ à Sơn của Bồ tát Quan Thế  m, núi Cửu Hoa của Bồ tát Địa Tạng. Trên bốn ngọn núi nổi tiếng này có rất nhiều ngôi chùa, các chùa trên mỗi núi hầu như đều lấy vị Bồ tát ứng hóa tại núi đó làm vị thờ phụng chính. Như các chùa ở núi Ngũ đài đều thờ phụng Bồ tát Văn Thù; các chùa ở núi Phổ à thờ phụng Bồ tát Quan  m v.v.. Như vậy, bốn ngọn núi nổi tiếng chính là đạo tràng ứng hóa của bốn vị Bồ tát, nó cũng trở thành thánh Địa lễ bái của tín đồ Phật giáo toàn quốc.
Núi Cửu Hoa thuộc huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy, vốn có tên là núi Cửu Tử. Khi Lí Bạch đời ường đến núi Cửu Tử, nhìn thấy chín ngọn núi đẹp như hoa, nhân đây về sau núi này lại được gọi là Cửu Hoa. Phật giáo Trung Quốc vào thời Đường phát triển rực rỡ huy hoàng, phía đông truyền đến Nhật Bản, và Hàn Quốc. Không ít Tăng sĩ các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc tìm đến Trung Quốc cầu Pháp, hoặc học tư tưởng đạo Nho, học chính trị v.v..
Thời đó, Hàn Quốc phân làm ba nước, gồm: Tân la, Cao câu lệ, và Bách tề. Vương tử nước Tân la phát tâm xuất gia, gọi là tỳ kheo Địa Tạng. Vào năm Trinh Quán thứ 4, đời vua Đường Thái Tông, sư đến Trung Quốc tham học. Lúc đầu, sư tùy xứ tham học, vài năm du hóa, sau đó đến núi Cửu Hoa thuộc tỉnh An Huy phía nam Trung Quốc, nhìn thấy trong núi sâu có thung lũng, sư bèn trụ ở đó dựng am nỗ lực tu tập. Không biết trải qua bao nhiêu năm sau, vị thân sĩ Địa phương Chư Cát Tiết khi đến núi này phát hiện nhà sư. Nhìn thấy một vị òa thượng này sống tại am tranh trong thạch động, mở nồi thấy còn sót lại những hạt gạo trộn lẫn trong một ít bột đất trắng, cuộc sống vô cùng thanh bần; hỏi ra mới biết đó là Vương tử Tân la, từ phương xa đến Trung Quốc cầu pháp. Điều này khiến trưởng giả Chư Cát vô cùng cảm động, tỏ lòng mến khách đến quê nhà, phát tâm đề xướng việc xây dựng chùa 143 cho tỳ kheo Địa Tạng.
Vị chủ của núi Cửu Hoa là người họ Mẫn, gia sản giàu có. Nếu xây chùa cần phải xin Mẫn Công cúng dường đất núi. Mẫn Công cũng rất kính ngưỡng tỳ kheo Địa Tạng, hỏi Ngài cần bao nhiêu đất; Địa Tạng đáp rằng: “ Bằng một chiếc cà sa phủ lên mặt đất là đủ rồi”. Lúc đó, ngài Địa Tạng dùng sức thần thông tung áo cà sa phủ khắp núi Cửu Hoa. Do đó, Mẫn Công đem cả vùng đất núi Cửu Hoa dâng cúng cho Ngài. Mẫn Công làm người hộ pháp, và con của ông cũng theo tỳ kheo Địa Tạng xuất gia, pháp danh là Đạo Minh, làm thị giả cho Ngài. Tượng Bồ tát Địa Tạng mà chúng ta thấy hiện nay, hai bên có một người già và một tỳ kheo trẻ, đó chính là Mẫn Công và con trai của ông ta.
Sau khi tự viện được xây xong, người từ các nơi đến tham học rất đông. Nước Tân la cũng có không ít người đến thân cận cúng dường. Núi Cửu Hoa vừa cao vừa sâu, Tăng chúng trong tự viện ngày càng đông, nên đời sống phát sinh nhiều vấn đề khó khăn. Khi nấu cơm phải trộn với đất bột trắng (loại đất này có màu trắng và rất mịn, tục gọi là đất Quan Âm). Cuộc sống thanh bần này có thể tưởng tượng mà biết, cho nên thời đó gọi Tăng chúng của Ngài là "chúng khô héo‟. Đại chúng trong chùa chỉ một lòng cầu pháp, hoàn toàn buông bỏ nhu cầu hưởng thụ về vật chất. Tỳ kheo Địa Tạng và Tăng chúng ở núi Cửu Hoa có Đức ảnh hưởng rất lớn. Sau đó, quốc vương nước Tân la biết được, bèn phái người vận chuyển lương thực đến cúng dường. Tỳ kheo Địa Tạng hết lòng lãnh đạo đạo tràng tinh tấn khổ hạnh này. Đến ngày 30 tháng 7 của năm thứ 26, niên hiệu Khai Nguyên đời Đường, Ngài nhập Niết bàn, hưởng thọ 99 tuổi. Mọi người đều có một cảm giác rằng: “Tỳ kheo Địa Tạng quả thật là hóa thân của Bồ tát Địa Tạng, là ứng hóa thân của Bồ tát Địa Tạng tại Trung Quốc”, do vậy mọi người đều tôn xưng Ngài là Bồ tát Địa Tạng. Từ đó, núi Cửu Hoa liền trở thành đạo tràng mà Bồ tát Địa Tạng ứng hóa, trở thành một trong bốn ngọn núi nổi tiếng của Trung Quốc. Đặc biệt vào ngày 30 tháng 7, ở núi Cửu Hoa, hương đèn sáng rực rỡ. Bồ tát Địa Tạng quả thật có một nhân duyên cảm ứng đặt biệt với tỳ kheo Địa Tạng, từ đó mới có được tính ngưỡng đồng nhất trong dân gian.
3. Danh đức của Bồ tát Địa Tạng
3.1. Giải thích nghĩa tên gọi
Bồ tát vì chúng sinh gánh vác tất cả việc khổ khó làm, có thể sinh khởi tất cả công Đức. Ở trong Phật pháp, danh từ “Bồ tát” là căn cứ vào phẩm Đức mà gọi, không giống với cách đặt tên của người bình thường, tên và tâm hành của họ không liên quan gì cả. Bốn vị đại Bồ tát quen thuộc với người Trung Quốc, trong danh hiệu của các Ngài đều thêm một từ để tán thán, như nói Đại trí Văn Thù, Đại hạnh Phổ Hiền, Đại bi Quan  m, Đại nguyện Địa Tạng. Do đây, có thể thấy nguyện lực của Bồ tát Địa Tạng là vô cùng sâu rộng vậy. Trong kinh điển đại thừa có kinh Đại tập, kinh này lấy sự kiện Đức Phật nói pháp nơi đại pháp hội có Thánh chúng trong mười phương vân tập mà đặt tên. Ở trong pháp hội đại tập, Bồ tát phần lớn lấy từ Tạng làm tên, như nói: Nhật Tạng, Nguyệt Tạng, Hư hông Tạng, Kim Cang Tạng, Tu Di Tạng và Địa Tạng. Vì sao gọi là Địa Tạng? Địa là đại Địa, cũng có nghĩa là "Địa đại‟. Tạng nghĩa là hàm tàng, phục tàng; như khoáng vàng, khoáng bạc, khoáng than (than đá), khoáng thiết v.v.. Trong Phật pháp, chữ Tạng trong tên gọi, có nghĩa là kho tàng. Hàm nghĩa của từ Địa Tạng, một mặt căn cứ vào đất mà nói; đất là một trong bốn đại, có thể dung chứa tất cả, từ núi cao vực sâu, vạn sự vạn vật đều ở trên đất. Điều này dụ cho công Đức của Bồ tát, có thể vì chúng sinh mà gánh chịu tất cả việc khổ khó làm. Địa cũng có nghĩa là nơi nương tựa, tất cả loài thảo mộc đều nương vào đất mà sinh, nương vào đất mà sống. ây dụ cho tất cả công đức lợi mình lợi người ở thế gian đều nương vào Bồ tát mà tồn tại và dẫn khởi. Bồ tát Địa Tạng có khả năng hàm chứa các loại công Đức, có khả năng dẫn khởi tất cả công đức, làm việc khổ khó làm, cứu độ chúng sinh, cho nên được gọi là Địa Tạng. Người thế tục thường gọi là Địa Tạng Vương; trong kinh điển chỉ gọi là Địa Tạng. Có lẽ vì tỳ kheo Địa Tạng là Vương tử của nước Tân la, nên thêm chữ "Vương‟ để tôn xưng Ngài.
3.2. Tán dương công đức
3.2.1. Công đức nguyện lực đại bi ngang bằng với Phật
Ngài Địa Tạng ở núi Cửu Hoa là một ứng hóa thân của Bồ tát, bây giờ chúng ta nói đến công đức chân thật của Bồ tát Địa Tạng. Như kinh Chiêm sát ghi: “Bồ tát Địa Tạng từ khi phát tâm trở đi, trải qua vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kì kiếp, đã từ rất lâu thể nhập biển Tát bà nhã, công đức tròn đầy, nhưng nương lực tự tại của bổn nguyện mà quyền xảo hiện hóa, ứng hiện mười phương”. Theo sự ghi chép của kinh trên, Bồ tát Địa Tạng từ phát tâm tu hành cho đến nay trải qua thời gian quá dài lâu, đến vô lượng vô biên a tăng kì kiếp không thể nghĩ đếm được; công đức và trí huệ của Ngài ngang bằng với Phật. Tát bà nhã ( 薩婆若 )là từ phiên âm, nguyên tiếng Phạn là Sarvajña, được dịch nghĩa là Nhất thiết trí ( 一切 智 , trí tuệ biết tất cả), tức là trí tuệ chư Phật. “Biển Tát bà nhã” mô tả đại trí huệ và đại giác ngộ của Đức Phật sâu rộng giống như biển. Bồ tát Địa Tạng tu hành trong vô lượng vô biên kiếp, đã sớm chứng nhập vào biển trí huệ của Phật, công đức đầy đủ viên mãn, sớm đã thành Phật. Nhưng Ngài vì phát nguyện độ hết tất cả chúng sinh, cho nên ẩn đi công năng thật sự của mình; dùng sức bổn nguyện, thần thông tự tại, hiện thân thuyết pháp khắp nơi, cứu độ người và trời. Cho nên, trong kinh Lăng già ghi: “Có vị Bồ tát với tâm đại bi mà phát nguyện vĩnh viễn không thành Phật”. ây không phải vì năng lực yếu kém, cũng không phải vì tu hành giải đãi, mà do nguyện lực đại bi nên phát nguyện độ hết tất cả chúng sinh, do vậy công đức của Ngài ngang bằng với Đức Phật. Ngài không thị hiện thân Phật, từ đầu đến cuối chỉ hiện thân Bồ tát độ thoát chúng sinh trong mười phương thế giới.
3.2.2. Chí thành quy y Bồ tát Địa Tạng, sở nguyện đều được viên mãn
Công đức của Bồ tát Địa Tạng ngang bằng với Phật, do vậy công đức của việc kính tín Bồ tát Địa Tạng cũng bất khả tư nghì. Như kinh Thập luân, quyển 1 nói: “Đối với các vị đại Bồ tát, người nào trong một trăm kiếp chí tâm quy y, xưng danh tụng niệm, lễ bái cúng dường, để cầu các sở nguyện; cũng không bằng người ấy chỉ ở trong khoảng rất ngắn của bữa ăn mà chí tâm quy y, xưng danh tụng niệm, lễ bái cúng dường Bồ tát Địa Tạng. Nếu cầu nguyện gì tất được mãn nguyện… Giống như báu Như ý, cũng như kho báu”. Đoạn kinh trên nói, nếu người chí thành quy y các vị đại Bồ tát như Văn Thù, Di Lặc, xưng danh hiệu, cho đến lễ bái cúng dường các Ngài, để cầu nguyện cho bản thân mình, như cầu khỏe mạnh, cầu trường thọ, cầu giàu sang, cầu đoạn trừ phiền não v.v.. Dù trong một trăm kiếp khẩn cầu các vị đại Bồ tát ấy vẫn không bằng người ấy chỉ trong khoảng thời gian bằng một bữa cơm, nghĩa là trong khoảng thời gian rất ngắn, chí tâm quy y Bồ tát Địa Tạng, xưng danh, niệm tụng danh hiệu, chí thành kính lễ công đức to lớn của Ngài; nếu có cầu nguyện gì đều được mãn nguyện. ây là sự xiển dương pháp môn của Bồ tát Địa Tạng, do vậy đặc biệt tán thán công đức thù thắng của Ngài. "Báu Như ý‟, tức chỉ cho ngọc Ma ni; ngọc Ma ni này có thể phản chiếu ra tất cả sắc màu, muốn tạo màu gì thì đều được như ý nguyện. Nguyện lực từ bi cứu độ của Bồ tát Địa Tạng khiến cho sở cầu của chúng sinh đều được ứng nghiệm. Lại giống như kẻ nghèo khổ bỗng nhiên được kho báu, lập tức được giàu sang, cái gì cũng có. Nếu có chúng sinh gặp nhiều khổ nạn, không được tự tại, mà tu tập theo pháp môn Địa Tạng, thì tất cả mong cầu kia đều được đầy đủ mãn nguyện. Ngoài ra, căn cứ vào quan điểm kinh Địa Tạng thập luân, Bồ tát Địa Tạng cũng giống như Bồ tát Quan Thế Â m, ở trong mười phương thế giới, ứng hiện nhiều loại thân và thuyết pháp độ sinh, khiến cho chúng sinh thoát ly các khổ nạn, đều được mãn nguyện.
3.2.3. Khiến cho cỏ cây hoa quả trong đại Địa sum xuê được mùa
Bồ tát Địa Tạng còn có một công đức đặc thù, đó cũng từ danh nghĩa Địa Tạng mà có. Như kinh Thập luân, quyển 1 ghi: “Có thể khiến cho tất cả cỏ cây, hoa quả... trong đại Địa đều được sinh trưởng”. Người sống ở nông thôn luôn mong muốn nông nghiệp được mùa. Bồ tát Địa Tạng có thể làm cho chúng sinh mãn nguyện sở cầu, làm cho tất cả hoa cỏ cây cối tăng trưởng, tất cả thứ gì từ đất mà sinh trưởng thảy sum xuê, được mùa. Kinh này sau khi được phiên dịch, được rất ít người lưu truyền, cho nên công đức đặc thù này của Bồ tát Địa Tạng cũng ít được người ta chú ý đến. ối với công đức này, những người nông dân lại vô cùng biết ơn và cầu mong.
3.2.4. Sức khỏe tăng, bệnh tật tiêu trừ
Bên cạnh đó, Bồ tát Địa Tạng còn chữa lành bệnh tật. Kinh Tu di tạng nói: “Nay ông có thể là thuốc quý cho tất cả chúng sinh, như là thuốc quý vi diệu. Vì sao vậy? Vì thân ông là thuốc quý hiếm vậy”. Trong thời cổ đại, thuốc chủ yếu là thảo mộc và khoáng vật phát sinh từ đất. Công đức của Địa Tạng ngang bằng với Đức Phật Dược Sư vậy, nhưng Ngài không phải là đại Y Vương mà là loại thuốc quý hiếm, có khả năng tăng trưởng tinh khí, bồi bổ sức khỏe, loại trừ bệnh tật cho chúng sinh. Nếu có thể nhìn thấy Bồ tát, thân cận Bồ tát, thì tất cả bệnh nơi thân và tâm, và bệnh do sinh tử phiền não, thảy đều đ ư ợc tiêu trừ; nhờ đó tất cả công đức cũng được đầy đủ.
3.2.5. Địa ngục chưa hết chúng sinh, Tôi nguyện không thành Phật
Cuối cùng, chính là điều mà mọi người đều biết, là điều căn cứ kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện mà nói: “Địa ngục chưa hết chúng sinh, Tôi nguyện không thành Phật”. Theo kinh này, bổn nguyện của Ngài là muốn cứu độ hết thảy chúng sinh trong Địa ngục. Chúng sinh trong Địa ngục là những chúng sinh chịu đau khổ cùng cực. Chính vì vậy, Bồ tát đặc biệt phát đại nguyện cố gắng cứu độ giải thoát cho những chúng sinh chịu đau khổ cùng cực này.
4. Công đức đặc biệt của Bồ tát Địa Tạng
Tất cả đại Bồ tát, như Bồ tát Quan Thế Â m, thị hiện độ sinh ở thế giới này bằng hình tướng người tại gia, như đại sĩ áo trắng, hoặc hiện tướng của trời, người v.v.; Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hiện tướng đồng tử; Bồ tát Phổ Hiền cũng hiện tướng người tại gia. Duy chỉ có Bồ tát Địa Tạng hiện tướng người xuất gia. Ý nghĩa này rất ít người chú ý đến. Bồ tát Địa Tạng rốt cuộc vì sao lại thị hiện bằng hình tướng của một người xuất gia? ể làm rõ ý nghĩa này, cần phải dựa vào hai nghĩa: “Đến sống cõi uế trược” (Lai cư uế độ 來居穢土 ) và “Thị hiện hình tướng của Thanh văn” (hiện Thanh văn tướng 現聲聞相 ) mà bàn luận.
4.1. Đến sống cõi uế trược: Học tập tinh thần của đức Phật Thích ca, phát nguyện ở trong cõi uế trược để độ chúng sinh chịu tội khổ
Bồ tát Địa Tạng mặc dù đi khắp thế giới cứu độ chúng sinh, nhưng đặc biệt phải ở trong thế giới ô trược này cứu độ những chúng sinh chịu tội khổ. Điều này như trong kinh Thập luân, quyển 1 ghi: “Địa Tạng, ở trong vô lượng vô số kiếp, trong cõi đời xấu ác bỡi năm trược, hay cõi nước không có Phật xuất hiện để thành tựu chúng sinh”. Ngài phát nguyện trong vô lượng vô biên kiếp, đều ở trong cõi uế trược để cứu vớt chúng sinh; cõi nào càng uế trược, Ngài càng phải đi vào; chúng sinh càng khổ não, Ngài càng cần phải cứu độ. Ngài còn muốn đến những nơi không có Phật pháp, những nơi mà chúng sinh chịu nhiều đau khổ nhất, để làm lợi ích cho họ.
Nguyện lực của các Bồ tát không giống nhau. Đại nguyện từ bi của Bồ tát Địa Tạng chú trọng thành tựu chúng hữu tình ở ngay cõi uế trược. Như kinh Thập luân, quyển 1 ghi: “Ta nay học theo đức Thế Tôn mà phát nguyện như vậy, ở ngay trong cõi uế trược chứng đắc Vô thượng Bồ đề”. Đức Bổn Sư Thích ca Mâu ni xuất hiện trong thế giới uế trược, cũng thành Phật ngay nơi cõi uế trược này. Bồ tát Địa Tạng học theo Đức Phật Thích ca, phát nguyện thành Phật trong cõi uế trược, độ sinh cũng trong cõi uế trược. Có thể nói Ngài là người chân chánh thừa kế tinh thần của Đức Phật Thích ca.
4.2. Thị hiện hình tướng của Thanh văn: Hiện hình tướng thanh tịnh giải thoát, cung cấp phương hướng chân chánh để giải thoát khổ nạn
Công đức của Bồ tát Địa Tạng ngang bằng với Đức Phật, rốt ráo viên mãn. Trong pháp hội của Đức Phật Thích ca ở thế giới Ta bà, Bồ tát Địa Tạng đã thị hiện hình tướng người xuất gia, như kinh Thập Địa, quyển 1 ghi: “Dùng sức thần thông thị hiện hình tướng Thanh văn”. Thanh văn, là danh xưng của đệ tử xuất gia; điểm trên là đặc thù của Bồ tát Địa Tạng. Theo kinh điển đại thừa, có một số thế giới thanh tịnh không có pháp Tiểu thừa, cũng không có chúng xuất gia. Nhưng Đức Phật Thích ca đến và thành Phật nơi cõi uế trược này bằng thân tướng người xuất gia. Bởi vì Phật pháp trong cõi uế trược và chúng xuất gia quan hệ rất mật thiết. Địa Tạng noi gương Đức Phật Thích ca, thị hiện bằng thân tướng người xuất gia, và cũng phát nguyện thành Phật ngay trong cõi uế trược. Trong cõi uế trược có Phật pháp, có chúng xuất gia, điều này có thể giải thích rằng vì thích nghi với thời đại mà mỗi cá nhân có khuynh hướng tu tập hướng thiện. Nhưng từ phương diện khác mà nói, điều này hàm chứa ý nghĩa đặc biệt tích cực: Ở trong thế giới uế trược này, chúng sinh từ sáng đến tối không tranh danh thì cũng đoạt lợi, bận rộn vì cuộc sống, bận rộn vì lợi ích cá nhân, xã hội đầy dẫy tội lỗi đen tối. Trong thế giới ô nhiễm đen tối này, cần có tia sáng và niềm hi vọng, do vậy Đức Thích ca xuất hiện ở đây, xuất gia, tu tập rồi thành Phật.
Kinh Thập luân nói rằng hình tướng vị tăng xuất gia là tướng thanh tịnh ở thế giới uế trược. Trong một xã hội không lý tưởng này, đoàn thể xuất gia thanh tịnh được thành lập, khiến cho người nhìn thấy, nghe giáo pháp mà tu tập theo, nhờ đó thân tâm được thanh tịnh. Phật pháp thích ứng với xã hội, nên sự xiển dương giáo pháp trong thế giới uế trược cần có người xuất gia, hiện tướng trang nghiêm thanh tịnh giải thoát.
Đức Phật Thích ca và Bồ tát Địa Tạng đi đến cõi uế trược bằng hình tướng người xuất gia cũng chính là ý nghĩa này. Người xuất gia không tư lợi về kinh tế, đi khất thực để nuôi sống, không sống hưởng thụ; điều đó cũng làm giảm đi những vấn đề do kinh tế đưa đến. Bên cạnh đó, xuất hiện với tướng người xuất gia, nam không cưới vợ, nữ không lấy chồng, điểm này không giống với người bình thường, do vậy tránh được khổ sở rối rắm phát sinh từ mối quan hệ vợ chồng. Vô số tội ác trong cõi đời năm trược chủ yếu bắt nguồn từ sự chiếm hữu về tài sản và tình cảm nam nữ. Người xuất gia phải tìm phương thức giải quyết những đau khổ trong cuộc đời uế trược và giải thoát sự ô nhiễm nơi thân tâm. Giả sử thực hiện chưa được, nhưng cũng biết được phương hướng đúng đắn để thoát khỏi khổ đau. Vì vậy, bộ phận trọng tâm của Phật pháp trong cõi uế trược là chúng xuất gia; còn trong cõi đời thanh tịnh có thể không có chúng xuất gia. Bồ tát Địa Tạng hiện tướng người xuất gia ở cõi đời uế trược để độ sinh mang một ý nghĩa đặc biệt, do vậy chúng sinh trong cõi uế trược cảm thấy vô cùng thân thiết với Bồ tát Địa Tạng. Không chỉ đề xướng đạo hiếu, siêu độ cha mẹ, mà còn thị hiện thân tướng Thanh văn độ chúng sinh trong cõi uế trược; đó thật sự là nguyên do mà các vị đại đức thời xưa đặc biệt tôn kính Bồ tát Địa Tạng.
5. Cứu độ chúng sinh thoát khỏi Địa ngục
Bồ tát Địa Tạng đến đời ác năm trược cứu độ chúng sinh, trong đó đối tượng chịu đau khổ nhất là những chúng sinh trong Địa ngục, do vậy đại nguyện từ bi của Ngài được mọi người biết đến là vìcứu thoát những chúng sinh trong Địa ngục. Thông thường, Địa Tạng đ ư ợc mọi người biết đến ở sự cứu thoát chúng sinh đang chịu khổ não trong Địa ngục. Nhưng đó chưa phải là phương pháp duy nhất, cũng như lý tưởng nhất.
Điều quan trọng nhất và triệt để nhất là phải làm gì để chúng sinh không bị đọa vào Địa ngục, đó mới là phương pháp thiết thực trong sự cứu độ chúng sinh ở Địa ngục.
Ví như bác sĩ giỏi, không những có khả năng phẩu thuật, chữa trị cho người bệnh; mà còn có khả năng dạy mọi người cách điều hòa giữ gìn sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật. Cũng vậy, cần phải biết Bồ tát Địa Tạng vừa cứu thoát chúng sinh đọa trong Địa ngục, vừa khổ tâm dạy chúng sinh: điều gì nên làm, điều gì không nên làm, để không đọa vào Địa ngục. Nếu đã đọa vào đó chịu khổ rồi thì đã quá muộn.
5.1. Tạo tội cực nặng nhất định đọa Địa ngục Vô gián
Tạo tội gì sẽ đọa vào điạ ngục, tội gì sẽ đọa vào Địa ngục chịu đau khổ cùng cực, tức là Vô gián (nguyên tiếng Phạn là avici hay avīci, phiên âm là A tỳ)? Trong kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện nêu ra nhiều tên Địa ngục. Như Địa ngục Bát Nhiệt có giường đồng cột sắt đầy khắp lửa dữ. Ngục nặng nhất là A tỳ. Chúng sinh nào tạo nghiệp ác cực nặng, sau khi chết lập tức đọa thẳng vào đây. Ở đây, họ chịu thống khổ liên tục, không gián đoạn, cho nên đó gọi là Địa ngục Vô gián. Theo Phật giáo, làm lành có quả lành, làm ác phải chịu quả xấu, tạo những nghiệp cực ác nhất định đọa vào Địa ngục.
Đã tạo nghiệp ác đưa đến Địa ngục thì nhất định phải đọa vào Địa ngục chăng? Có trường hợp kẻ tạo nghiệp ác đọa Địa ngục nhưng đời sau chưa chắc phải đọa vào Địa ngục. Trong đời quá khứ, người kia có thể tạo quá nhiều nghiệp Địa ngục; ở đời hiện tại này, từ nhỏ đến già, không nhất định tạo nghiệp Địa ngục, nhưng không nhất định đọa vào Địa ngục. Có người tạo nhân duyên công đức thiện, hoặc vượt trội nghiệp ác; người ấy vẫn có thể sinh vào cõi người cõi trời (dù nghiệp ác Địa ngục không phải là không còn). Thế nhưng, người kia đối với tội nghiệp cực ác, trừ phi không phạm, chứ một khi đã phạm chắc chắn bị đọa, cho dù đã làm các việc công đức khác hay sám hối đi nữa nhất định phải bị đọa lạc. Ví như người mắc bệnh hiểm nghèo chắc chắn phải chết vậy. Có một số bệnh tình tuy có vẻ nghiêm trọng nhưng nếu gặp được thầy hay thuốc tốt vẫn còn có hi vọng chữa trị; nếu là bệnh hiểm nghèo thì không thể nào chữa trị. Chúng sinh trong đời ác năm trược có quá nhiều tác động đưa đến làm việc ác, quá nhiều nguy hiểm. Cho nên, chúng ta cần phải hiểu biết phân biệt rõ ràng thiện ác, đặc biệt phải nhận biết rõ phạm những tội nghiệp cực nặng nào nhất định đưa đến đọa lạc để cảnh giác không phạm phải, mới tránh đọa Địa ngục.
Đối với tội nghiệp cực nặng đọa vào Địa ngục Vô gián, trong kinh có đề cập hai loại:
5.1.1. Mười một loại nghiệp ác
Như trong kinh Thập luân, quyển 3 nói: “Người tạo năm tội Vô gián và bốn tội căn bản gần với năm tội Vô gián, cùng hai hạng người: một là hủy báng Chánh pháp, hai là nghi ngờ Tam bảo v.v.. Trong 11 tội này, bất cứ tạo tội nào, ngay khi thân hoại mạng chung, người ấy lập tức đọa vào Địa ngục lớn Vô gián”. Trong 11 loại trọng tội này phân làm ba loại: (a) Năm tội Vô gián, (b) Phạm bốn giới căn bản, (c) Hủy báng Chánh pháp và nghi ngờ Tam bảo.
a. Năm tội Vô gián
Đối với năm tội Vô gián, bất cứ tạo tội nào đều nhất định đọa vào Địa ngục Vô gián. Năm tội ấy gồm:
(1) Giết cha
(2) Giết mẹ
Cha mẹ sinh dưỡng ta, dạy dỗ ta, từ lúc thơ ấu đến lúc trưởng thành, ân nặng ấy như núi. Theo quan điểm của thế gian, giết hại cha mẹ quả thật là hành động của súc sinh, hình phạt dành cho kẻ phạm tội ngỗ nghịch giết hại cha mẹ trong pháp luật thế gian cũng rất nặng.
(3) Giết hại bậc A la hán
Người đã tu tập đắc quả A la hán quả Thánh thứ tư, nếu giết hại các vị này mắc tội cực kì nặng.
(4) Làm thân Phật chảy máu
Khi Phật còn tại thế, ề bà đạt đa vì muốn hại Phật, đã xô tảng đá to từ núi cao rơi xuống để đè chết Phật. Nhưng vị thần hộ pháp đánh vỡ tảng đá ấy thành những mảnh vụn, những mảnh đá vụn này đâm vào chân Phật làm bị thương chảy máu. Bấy giờ, xuất hiện điển tích phạm tội nặng do làm thân Phật chảy máu.
(5) Phá hòa hợp Tăng
Ở trong Tăng đoàn xuất gia thanh tịnh, kẻ nào ác ý phá hoại, khiến cho Tăng đoàn hòa hợp bị chia rẽ thành hai, nhất định cấu thành tội nặng Vô gián. Ba loại sau (3 5), ở trong Phật pháp, được cho là tội cực nặng.
Nhìn chung mà nói, người trong đời ác trược này tạo năm tội Vô gián thì không nhiều. Như không nhiều người giết cha mẹ; trừ ề bà đạt đa ra, không có người thứ hai làm thân Phật chảy máu; người có khả năng phá hoại đoàn thể người xuất gia cũng không nhiều. ối với tội giết hại A la hán, vì đến thời mạt pháp, hiếm người đắc A la hán, nên tội giết hại A la hán cũng càng hiếm thấy.
b. Phạm bốn giới căn bản
Khi phạm bốn giới căn bản với tính chất nghiêm trọng gần với năm tội Vô gián, gồm: sát sinh, trộm cắp, dâm dục, và đại vọng ngữ; chúng cấu thành tội Địa ngục Vô gián. Nếu người xuất gia phạm vào bốn giới căn bản này sẽ bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn; như c â y bị chặt đứt gốc rễ không thể mọc chồi lại, như thây chết không bao giờ được biển lớn dung chứa. Nếu người phạm bốn giới căn bản gần với năm tội Vô gián đã cấu thành tội, hoặc sau khi phạm, liền ở trong Tăng đoàn chí thành sám hối, chấp nhận sự trị phạt, mặc dù trong đời này không thể thoát khỏi sinh tử, không chứng Thánh quả, nhưng vẫn có thế ở bên cạnh Tăng chúng, gọi đó là "Dự học sa di‟. Nếu người ấy không biết sám hối, đương nhiên bị trục xuất khỏi Tăng đoàn.
Người tại gia hay xuất gia, nếu phạm vào những trọng giới căn bản gần với năm tội Vô gián, một khi đã phạm nhất định bị đọa lạc, không thể sám hối. Trong đó, với tội sát sinh, giết bậc ộc giác là tội nặng nhất (Phật tuyệt đối không bị giết).
ối với tội trộm cướp, trộm vật của Tam bảo là tội nặng nhất. Những gì thuộc về Phật Pháp Tăng đều là vật do mọi người phát tâm cúng dường; nếu trộm lấy, phạm tội rất nặng. ối với tội dâm dục, sự hành dâm với Tỳ kheo ni A la hán là tội rất nặng. Kẻ cưỡng hiếp gian dâm với Tỳ kheo ni đã chứng quả A la hán, kẻ ấy nhất định đọa Địa ngục Vô gián. Nói vọng, tức nói lời không chân thật, kích động thị phi trong Tăng đoàn khiến chia rẽ Tăng chúng, là tội cục kỳ nặng.
Tất cả công đức trong thế gian, sự thanh tịnh giải thoát, liễu ngộ sinh tử, tu hạnh Bồ tát, hay thành Phật, thảy đều từ Tam bảo mà có. Bốn trọng tội này phá hoại Tam bảo, làm cho Tam bảo không được thanh tịnh, bị tổn hại lớn nhất.
c. Hủy báng Chánh pháp và nghi ngờ Tam bảo
Ngoài ra, hai tội thuộc loại thứ ba này nhìn dường như không quan trọng nhưng thực chất cục kỳ nguy hiểm.
(1) Hủy báng Chánh pháp
Nếu có ngoại đạo phỉ báng Chánh pháp, do vì họ không hiểu Phật pháp nên nói càn nói bậy, giống rắn nuốt ếch và mèo ăn chuột; tuy phạm tội nhưng không thuộc trọng tội. Nếu đệ tử xuất gia tu học Phật pháp, ở trong Phật pháp mà tự hủy hoại Chánh pháp, ví như giòi trong thân sư tử ăn thịt sư tử, tội ấy vô cùng lớn. Vì vậy, chúng ta tin Phật tu học Phật không nên hủy báng Chánh pháp.
Thường thì các Pháp sư cũng như cư sĩ tại gia không cố ý hủy báng Chánh pháp, cũng có khi hủy báng Chánh pháp mà họ không biết. Chẳng hạn Phật giáo có Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa ( đại thừa). Người tu theo Thanh văn thừa thì tán thán Thanh văn thừa, lại cho đại thừa không phải Phật nói, tức đã là hủy báng Chánh pháp. Hoặc tu theo đại thừa lại chỉ trích Tiểu thừa, cho rằng không nên học tập pháp này, đó cũng đồng thuộc tội hủy báng Chánh pháp. Hoặc có người chỉ chuyên trì Giới mà bỏ phế Định và Huệ, hoặc chú trọng định mà bỏ phế Giới và Huệ, hoặc chú trọng Huệ mà bỏ quên Giới và Định, tức chú trọng mặt này mà phế bỏ mặt kia; 159 lại dạy người không nên tu học; đó đều là hủy báng Pháp. Nói cách khác, chỉ tu học một loại pháp môn mà xem nhẹ những pháp môn khác, cho rằng không nên tu học hay tu học cũng không có tác dụng gì, đó đều thuộc phỉ báng Chánh pháp. Nếu quả thật chỉ một pháp môn là đủ rồi, cần gì Đức Phật phải nói đến tám vạn bốn ngàn pháp môn? Sự chú trọng một pháp môn mà xem nhẹ những pháp môn khác, khiến cho mọi người phát sinh hiểu biết điên đảo, rơi vào sự lầm lẫn, làm mù mắt chúng sinh, sẽ kết thành trọng tội đọa Địa ngục Vô gián.
(2) Nghi ngờ Tam bảo
Tam bảo gồm Phật, Pháp, Tăng; là nơi đệ tử Phật quy hướng về tu tập. Bất kể là hàng tại gia hay xuất gia, khi đã quy y Tam bảo và thọ trì tịnh giới, nếu ngoài Tam bảo ra, còn tin vào ngoại đạo hay quỷ thần khác, cho đó ngang bằng với Phật giáo, hoặc tốt hơn Phật giáo; tán thán kinh sách của ngoại đạo, cho rằng đó vi diệu hơn 12 thể loại kinh trong Tam tạng Phật điển; quy hướng về chúng ngoại đạo tà giáo, không tin tưởng chúng tăng xuất gia trong Phật giáo. ó đều là những sự việc không liên hệ với Phật pháp, đều do nghi ngờ Tam bảo mà biểu hiện sự không tin tưởng. Thí dụ, có một số đã quy Tam bảo mà không phân biệt được thần và Phật, lại chủ trương nào là “Tam giáo đồng nguyên”, 27 hoặc tin vào lí luận hoang đường của thuyết “Ngũ giáo hợp nhất”.28 Họ cho rằng tất cả tôn giáo đều dạy con người hành thiện, nên đều có thể kính ngưỡng, đây tức là sự quay lưng với đạo mình. Nếu không biết rõ đúng và sai, không phân biệt thần và Phật, như thế là phạm vào trọng tội Vô gián nghi ngờ Tam bảo. Giết người và cướp của không nhất định bị đọa Địa ngục, nhưng nếu phạm vào bất kì một trong 11 loại tội ở trên, kẻ ấy chắc chắn sẽ bị đọa Địa ngục Vô gián.
5.1.2. Mười ác luân
Trong kinh Thập luân, quyển 4 nói: “Trong mười ác luân, tùy theo hoặc tạo một ác luân, hoặc tạo đủ cả mười, thì tất cả thiện căn được tu tập trước kia đều bị phá hủy tiêu diệt… sau khi mạng chung nhất định bị đọa vào Địa ngục Vô gián”. Ở đây, "Luân‟ có nghĩa là sự phá hủy, vì có khả năng phá hoại tất cả công đức thiện căn nên gọi là "ác luân‟. Mười ác luân tức chỉ cho mười loại việc ác; nếu phạm một loại hoặc phạm đủ, thì những công đức đã tu tạo từ trước đến nay đều bị phá hủy, không còn sót lại, cho nên gọi là "mười ác luân‟.
Mười ác luân chia làm bảy loại:
Phỉ báng tỳ kheo A lan nhã.
Phỉ báng những thừa khác (phân làm ba loại).
Giận dữ làm hại tỳ kheo (phân làm hai loại).
Hỗ trợ tỳ kheo phá giới xâm hại chiếm đoạt đồ vật thanh tịnh của Tăng chúng.
Hủy báng xâm hại Pháp sư.
Chiếm đoạt đồ vật của Tăng.
Phá chùa đuổi Tăng.
(1) Phỉ báng tỳ kheo A lan nhã
A lan nhã là phiên âm của tiếng Ấn ộ, 29 dịch nghĩa là vô sự xứ, nghĩa là nơi tịch tĩnh không ồn ào. Người xuất gia ở chỗ thanh tịnh này tu hạnh thanh tịnh, gọi là tỳ kheo A lan nhã; đây giống với những vị nhập thất sống ở am tranh được nói ở Trung Quốc .
Phật nói Tỳ kheo có ba hạng: Thứ nhất, người tu định, chỉ siêng tu thiền Chỉ thiền Quán, chân thật dụng công, với mục đích điều phục đoạn trừ phiền não chứng đắc quả Thánh. Thứ hai, hạng chuyên đọc tụng nghiên cứu, như nghiên cứu duyệt đọc đại tạng kinh v.v.. Thứ ba, vì Tăng đoàn mà làm việc, làm những việc phước như xây chùa độ Tăng, làm quản sự, tri khách v.v.. Trong ba hạng này, dĩ nhiên tu định là tốt nhất. Tỳ kheo tu định, phần lớn sống nơi vắng vẻ thanh tịnh, chuyên tu định huệ, cầu thấu rõ pháp sinh tử, cầu được giải thoát. Hạng vì Tăng chúng trong tự viện mà phục vụ, mặc dù làm việc phước thiện nhưng đó vẫn không phải là việc căn bản của người xuất gia. Học Phật nghiên cứu cũng phải vì muốn hiểu rõ điểm cốt yếu để dụng công tu tập; nếu chỉ mải miết nghiên cứu kinh sách thì đó thật sự không phải lý tưởng của người xuất gia. Cho nên, Phật dạy rằng vị tỳ kheo sống ở A lan nhã tinh tấn thiền tư đáng được thọ nhận sự cúng dường thượng đẳng.
Khi Phật còn tại thế, trong Tăng đoàn, các tỳ kheo đều phải theo chúng tu tập; nếu vị nào chân chánh tu tập định huệ, đến thời điểm cần thiết cho phép họ được tạm thời tự do tu tập, không cần theo chúng. Nếu người nào hủy báng những tỳ kheo sống nơi A lan nhã sẽ phạm vào một trong 10 ác luân. Bởi vì đối với những vị chân chánh tu tập cầu thoát sinh tử, không những không nên cản trở mà phải nên trợ duyên cho họ thành tựu. Nếu ra sức phỉ báng và cản trở sự tu tập của họ, tội này ngang bằng với tội phá hoại mục đích cao thượng của người tu theo Phật giáo.
(2) Phỉ báng các thừa khác
Phật giáo có ba thừa: Thanh văn thừa, ộc giác thừa và Bồ tát thừa. Người tu theo pháp Thanh văn thừa thì phỉ báng Độc giác và Bồ tát thừa; người tu theo ộc giác thừa phỉ báng Thanh văn và Bồ tát thừa; người tu theo Bồ tát thừa thì phỉ báng ộc giác và Thanh văn. a hạng này đều mắc tội hủy báng Chánh pháp, là ba loại trong mười ác luân.
(3) Sân giận làm hại tỳ kheo
Sự sân giận làm hại tỳ kheo cũng có hai hạng. Thứ nhất, làm hại những vị tỳ kheo có học, có giới đức, có tu tập; như nhục mạ, đánh đập, hoặc nghĩ cách làm cho họ mất sự tự do, tăng thêm các việc bức hại khác. Có một số tỳ kheo xấu, cấu kết các thế lực xấu ở Địa phương, họ nắm giữ quyền hành làm chủ bảo tọa, rồi nghĩ ra đủ cách để lợi dụng các thế lực xấu phá hoại các tỳ kheo có giới đức, nhằm đạt được mục đích chiếm hữu. Thứ hai, đối với các tỳ kheo phá giới thì khinh thường, hiềm hận, bức hại họ; cho rằng những người này căn bản không giống người tu, không xứng đáng được tôn trọng. Bức hại những vị tỳ kheo có giới đức dĩ nhiên phạm tội, còn sân giận làm hại vị tỳ kheo phá giới có can hệ gì? Không biết vị tỳ kheo này dù rằng phá giới, nhưng chỉ cần vị ấy vẫn còn ở trong Tăng đoàn, tư cách người xuất gia chưa bị phá hủy đánh mất, thì việc sân giận bức hại họ vẫn thuộc về nghiệp ác. Thử nêu ra một ví dụ, Thái Lan là quốc gia Phật giáo, người xuất gia không phải ai cũng là Hiền Thánh. Giả sử có vị tỳ kheo đã phạm luật pháp bên ngoài, cảnh sát không lập tức bắt nhốt, bởi vì vị ấy còn mặc áo cà sa, vẫn còn thân phận tỳ kheo. Cảnh sát sẽ đưa tỳ kheo phạm pháp này về chùa, báo cáo với các vị tăng trong chùa, đợi Tăng chúng trong chùa phán quyết, hủy bỏ tư cách làm Tăng, cởi bỏ áo cà sa của của vị ấy, rồi mới bắt tay vào việc áp giải anh ta. ây là ví dụ về việc tôn kính tỳ kheo, đối với tỳ kheo phá giới cũng không dám sân giận bức hại họ. Vìvậy, nếu dùng thủ đoạn phi pháp để đối phó với tỳ kheo phá giới cũng thuộc ác luân.
(4) Hỗ trợ tỳ kheo phá giới xâm hại chiếm đoạt đồ vật thanh tịnh của Tăng chúng
Có một số ác tỳ kheo có khả năng lôi kéo những thế lực xấu giúp đỡ, mà thông thường gọi đó là những người hộ pháp. Người hỗ trợ cho ác tỳ kheo tranh đoạt tài vật của chùa chiền, thoạt nhìn cho rằng họ hộ trì người xuất gia, nhưng nếu hỗ trợ cho tỳ kheo phá giới quả thật đã tạo tội.
(5) Hủy báng xâm hại Pháp sư
Tìm cách hủy báng xâm hại những Pháp sư giảng giải kinh điển xiển dương giáo pháp, hiện tại ở một nước tự do như Trung Quốc, không còn xuất hiện sự việc này. Trước đây, tư tưởng và tập tục của người Địa phương chưa thông thoáng, nếu có pháp sư đến xiển dương giáo pháp, họ rất dễ bị hãm hại. Như ngày trước, pháp sư ế Nhàn có một vị đệ tử tên là pháp sư Thiên Hi. Ông đến Quí Dương hoằng pháp, ở trong một miếu nhỏ dưới núi Kiềm Linh giảng kinh. Pháp sư này giảng kinh rất hay, người đến nghe rất đông, khiến cho bọn ác nhân ganh ghét. Bọn này cấu kết với quan phủ, bêu xấu rằng pháp sư Đế Nhàn là kẻ sống lang thang, nên đuổi sư ra khỏi Địa phương. Đây là một ví dụ về hủy báng xâm hại Pháp sư.
(6) Xâm phạm chiếm đoạt vật của Tăng
Chiếm lấy tài vật của người xuất gia cũng thuộc tội nặng đọa Địa ngục Vô gián. Kể từ cuối đời Thanh trở đi, tài sản trong chùa chiền ở Trung Quốc đều bị người ta nhầm hiểu là của công, từ đó họ mưu đồ cưỡng đoạt thôn tính chúng. Họ thường mượn danh nghĩa mở các trường học để chiếm đoạt tài sản của chùa. Hoặc thấy trong chùa còn đất trống, liền lợi dụng thế lực khéo giả vờ cưỡng bức, vay mượn. Có một số không phải để mở trường học mà chỉ là mượn cớ là tổ chức sự kiện để chuốc lợi đầy túi.
Mỗi một tự viện đều là một trung tâm tín ngưỡng của dân chúng, cần phải đảm bảo sự thanh tịnh và trang nghiêm. Quốc gia nào cũng phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Bất kể giáo đường ở Â u Mỹ, hay chùa lớn Nhật Bản, dù thường ngày dường như trống vắng nhưng đôi lúc vẫn lo không đủ không gian để sử dụng. ó đều là trung tâm tín ngưỡng của người dân, khiến người hướng thiện và hướng thượng. Nếu cho rằng lãng phí mà tùy tiện chiếm đoạt thì phạm một trong mười ác luân. Nếu cứ tạo nghiệp ác này lâu dài làm sao có thể được kết quả tốt!
(7) Phá chùa đuổi Tăng
Nếu hủy phá chùa, đuổi người xuất gia, đây là nghiệp ác rất nặng.
Bảy loại này, tức là mười ác luân, tùy ý tạo bất kì một loại nào thì tội đều cực nặng, nhất định bị đọa vào Địa ngục Vô gián.
Tóm lại, 11 loại tội và 10 ác luân đều là hạt giống Địa ngục. Không ai muốn mình đọa vào Địa ngục Vô gián. Nếu không muốn đọa Địa ngục cần biết nguyên nhân khiến đọa vào Địa ngục Vô gián và không tạo loại nghiệp ác này, thì sẽ không bị ác báo và không đọa Địa ngục Vô gián.
5.2. Tôn kính tỳ kheo, không mắng nhiếc chê bai
5.2.1. Không được tùy tiện dùng pháp luật thế gian quát mắng, hủy báng, tra tấn, hành hình những người xuất gia phá giới
Tín chúng tại gia nên tôn trọng cung kính người xuất gia, không được mắng nhiếc hủy báng. Kinh Thập luân, quyển 3 nói: “Nếu chúng hữu tình ở trong giáo pháp của Ta xuất gia, cho đến cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, dù trì giới hoặc phá giới, thậm chí không thọ giới; tất cả trời, người, a tu la v.v., y theo đúng luật pháp thế gian còn không được dùng roi, gậy đánh đập v.v., hoặc giết chết họ; huống gì xử phạt không đúng luật pháp.” Nói đến người xuất gia, hễ những ai lìa bỏ cuộc sống thế tục, sống trong Phật pháp, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, đó là người xuất gia. Nhưng người xuất gia cũng có nhiều hạng: có người trì giới, có người phá giới, cũng có người lại không thọ giới. Như thế nào là không thọ giới? Nghĩa là họ đã mang hình tướng của người xuất gia nhưng ở những nơi Phật pháp suy tàn không có thọ giới, tùy tiện mặc áo cà sa, trông giống như người xuất gia. Theo đúng luật pháp quốc gia, hễ phạm tội gì sẽ bị xử trị theo tội đó. Nhưng đối với người xuất gia trì giới hay phá giới, hoặc không thọ giới, dù họ đã phạm tội hình, cũng không nên giam giữ, đánh đập, hoặc giết chết họ. Theo luật pháp chính thống của quốc gia còn phải như thế, huống gì xử phạt oan Đức không đúng luật pháp ư?
Nói cách khác, bất luận thế nào, người nào có tướng người xuất gia, sống trong Tăng đoàn, thì không thể dùng luật pháp thế tục hay những hình pháp bức hại phi pháp để xử trị họ. Phật pháp tự có điều luật để xử lý. Như đã nói ở trên, ở Thái Lan, khi người xuất gia phạm pháp luật thế gian, thì đại chúng xuất gia cởi áo tu sĩ của vị ấy và trục xuất khỏi Tăng đoàn, sau đó vị ấy mới bị xử phạt theo pháp luật thế gian. Vì tôn kính Tam bảo không nên tùy tiện đem luật pháp thế tục mắng nhiếc, hủy báng, tra trấn, hành hình.
5.2.2. Tỳ kheo phá giới không phải phá hoại tất cả giới thiện, lực của giới đức vẫn còn tồn tại
Đối với tỳ kheo giữ giới thanh tịnh đương nhiên không được dùng phi pháp của thế tục tra trấn hành hình; đối những vị phá giới hoặc không thọ giới, vì sao cũng không được dùng đúng pháp hoặc phi pháp của thế tục tra trấn hành hình họ?
Điều này có một ý nghĩa đặc biệt. Như kinh Thập luân, quyển 3 ghi: “Tỳ kheo ác hạnh phá giới, tuy ở trong Pháp và Giới luật của Ta được gọi là thây chết, nhưng lực giới đức của một người xuất gia vẫn còn sót lại”. Lại nói: “Người xuất gia tuy phá giới hạnh, nhưng các chúng hữu tình do nhìn thấy hình tướng này mà phát sinh mười loại tư duy thù thắng, sẽ tích tụ được vô lượng báu công đức. Mười niệm thù thắng gồm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm thí, niệm nhẫn, niệm xuất gia, niệm viễn ly, niệm trí huệ, niệm các thiện căn xuất ly đã trồng trong đời quá khứ”. Căn cứ ý nghĩa của kinh, những tỳ kheo phá giới được ví như thây chết (không thể hiện thân tu tập chứng quả), biển lớn Phật pháp không thể dung chứa họ, do vậy cần trục xuất khỏi Tăng đoàn. Nhưng những tỳ kheo ác hạnh phá giới này, trong quá khứ đã từng ở trong Tăng đoàn xuất gia thọ giới, tuy hiện tại phá giới nhưng lực của giới đức vẫn còn sót lại. Nói cách khác, tỳ kheo phá giới không phải phá tất cả thiện giới, mà một số công đức vẫn còn tồn tại! Ví như chiếc hộp đã lâu năm đựng hương liệu, sau khi lấy hết hương liệu khỏi hộp, mùi hương vẫn còn lưu lại nơi hộp. Người phá giới do vì đã từng thọ giới cho nên vẫn còn một số công đức, vẫn còn có thể khiến cho người khác nhìn thấy họ mà phát sinh mười loại tư duy thù thắng, làm tăng trưởng phước đức.
Nói đến đây, mọi người có thể xét lại bản thân mình. Hiện tại tuy đang tu học Phật, hoặc giả khả năng tu tập hơi cao chút, đã thọ năm giới và Bồ tát giới, nhưng thuở ban đầu, chúng ta tin Phật như thế nào? ương nhiên, có một số người gặp được những đại đức Pháp sư mà khởi niềm tin, rồi quy y, tu học Phật pháp. Có người khi còn nhỏ sống ở quê nhà, thường ngày nhìn thấy những người xuất gia giản dị, rồi dần dần kết duyên với Phật pháp mà tu học. Hoặc có người chỉ gặp được một người xuất gia rất tầm thường, tức là vị phá giới hoặc không thọ giới, ban đầu dù ấn tượng không tốt đẹp lắm nhưng cũng khiến người đó sinh khởi những ý niệm tốt, biết có Phật, Pháp, và Tăng, từ đó gieo hạt giống tu học Phật ở hiện tại. Do đó, tượng Phật trong ngôi chùa bị phá hủy, kinh Phật chất trong kho sách cổ, những người xuất gia phá giới, đó đều có thể dẫn khởi chúng sinh tín tâm đối với Tam bảo. Như vậy, tỳ kheo phá giới hay không thọ giới đều có thể khiến chúng sinh phát sinh công đức, tăng trưởng sự tư duy thù thắng. Như sự niệm tưởng công đức Tam bảo bất khả tư nghì; niệm tưởng công đức của Giới, của sự bố thí và nhẫn nhục; sinh khởi ý niệm xuất gia, viễn ly phiền não, ý muốn tầm cầu trí huệ. ó đều là thiện căn mà họ đã tạo trong quá khứ. Vì vậy, nếu đứng trên lập trường của 169 người xuất gia mà nói, tỳ kheo ác hạnh phá giới phải bị trục xuất khỏi Tăng đoàn; nhưng đứng ở phương diện tại gia mà nói, họ vẫn còn có thể khiến người khác tăng trưởng công đức, có thể tạo phước điền cho chúng sinh. Nói tóm lại, tỳ kheo có khả năng trì giới tất nhiên là mẫu người quá lý tưởng, xứng đáng được tôn kính; tỳ kheo phá giới, giả sử biết rõ họ như thế, người cư sĩ tại gia cũng không nên dùng các cách phi pháp mạ nhục hoặc bắt giam họ, bởi vì làm như vậy sẽ phạm tội nặng với Tăng đoàn.
Bồ tát Địa Tạng đến đời ác năm trược, thị hiện thân tướng người xuất gia, đã biểu hiện rõ tinh thần từ bi độ sinh của Bồ tát; khiến mọi người biết cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, xuất gia, nhập vào Tăng đoàn. Dù tốt dù xấu, họ vẫn là người xuất gia. Ngay khi chưa bị trục xuất khỏi Tăng đoàn, hoặc trước khi chưa mất tư cách người xuất gia, người ấy có thể không được tán thán, không được cúng dường hay không được hộ trì; nhưng tuyệt đối không nên ở trước mặt hoặc sau lưng dùng bất kì thủ đoạn nào để đối phó mạ nhục người ấy. Nếu không, sẽ làm những việc ảnh hưởng không tốt cho Phật pháp, vô hình dung phạm tội nặng phá hoại Tam bảo.
5.2.3. “Tôn kính Tam bảo, tin sâu nhân quả” mới không đọa Địa ngục
Bồ tát Địa Tạng cứu độ chúng sinh đang bị đọa trong Địa ngục, nhưng đặc biệt làm thế nào khiến chúng sinh không đọa vào Địa ngục? Muốn không bị đọa Địa ngục, cần phải thực hành điều đúc kết trong tám chữ: “Tôn kính Tam bảo, tin sâu nhân quả”. ây là điều phổ biến mà đệ tử xuất gia và tại gia của Phật thường nghe. Bồ tát Địa Tạng hiện tướng người xuất gia đến trong cõi uế trược độ sinh cũng không ngoài việc này. Trong đó, điều quan trọng nhất là phải tôn kính Pháp, tôn kính Tăng như thế nào mới có thể hộ trì Phật pháp, mới có thể giữ gìn Phật pháp ở trong thế gian, để cứu độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh được lợi ích ở trong Phật pháp. Thái tử Tất đạt đa ( Đức Thích ca) đến thế giới này, thị hiện thân tướng người xuất gia, xả ly tài sản gia tộc mà tu hành chứng thành quả Phật. Chúng đệ tử theo Phật xuất gia, rồi thành lập Tăng đoàn xuất gia của Phật giáo. Tăng là một trong ba ngôi báu, vô cùng quan trọng trong Phật pháp. Đức Thích ca do ngôi báu này mà độ sinh, thành lập chúng xuất gia này trở thành đoàn thể thanh tịnh lợi mình lợi người. Nếu nội bộ Tăng đoàn hỗn loạn, mà người cư sĩ tại gia lại không rõ tình hình nội bộ Tăng, nếu áp dụng biện pháp không chính đáng, rốt cuộc chỉ làm tăng thêm sự khó khăn cho Tăng đoàn, khiến không hòa hợp, làm suy yếu năng lực cứu độ chúng sinh. Pháp môn được khai thị trong kinh Địa Tạng, bất luận là 11 trọng tội đọa Địa ngục, hay 10 ác luân đọa Địa ngục, đều tập trung chính ở những tội như: hủy báng Chánh pháp, bức hại người xuất gia, phỉ báng người tu hành, chiếm đoạt phá hoại đồ vật Tăng. Bởi vì đối với Pháp và Tăng trong Tăng đoàn Phật giáo mà ra sức phá hoại, thì Phật giáo ở tại thế gian bị mất đi đặc tính thanh tịnh, làm sao phát huy được tác dụng lớn của việc cứu độ chúng sinh đây?
Ví như người yêu nước thì không thể bất trung với nước nhà, càng không thể ra nước ngoài nói hết những gì không tốt của nước mình; vì đây chỉ làm xáo trộn, tăng thêm những khó khăn cho quốc gia, và kẻ ấy trở thành tội nhân của nước nhà. Phật giáo cũng giống như vậy, mọi người phải chân chánh tin giáo pháp Phật; nếu phá hoại Phật pháp và Tăng đoàn, làm cho Phật pháp suy tàn, đây cũng là đại tội cực ác. Điều này không chỉ được đề cập trong kinh Địa Tạng, mà cũng đề cập trong tất cả kinh điển đại thừa. Bồ tát Địa Tạng biết đời ác năm trược thuộc thời đại mạt pháp, ng ư ời xuất gia thực hành không đúng lý tưởng xuất gia; người tại gia không biết tu phước tu huệ, ngược lại đối với Tam bảo lại làm những việc không đúng như Pháp như Luật. Trong tình trạng này, khỏi cần ngoại đạo phá hoại, không cần ngoại đạo phỉ báng, tự thân Phật giáo cũng sẽ suy tàn vậy. Bồ tát Địa Tạng vì lí do này mà thị hiện thân tướng người xuất gia, ở trong pháp hội Đức Thích ca Mâu ni khai thị pháp môn này, khiến cho chúng sinh biết được thực hành điều gì dễ bị đọa lạc nhất, khiến chúng đệ tử xuất gia và tại gia đều đặc biệt chú ý đến vấn đề này mà ái kính và hộ trì Tam bảo. ó không những khiến tự thân họ không bị đọa Địa ngục, mà cũng có thể phục hưng Phật giáo đang bị suy tàn, người không thanh tịnh dần dần được thanh tịnh, mỗi ngày thêm hưng thịnh.
5.3. Có thể thân cận hạng Tăng không biết tàm quý chẳng?
Đức Phật phân Tăng chúng xuất gia thành các hạng: Hạng tối thượng, là Thánh giả có tu có chứng; kế đến, bậc tuy chưa chứng Thánh quả nhưng giữ giới thanh tịnh, hiểu biết Phật pháp một cách đúng đắn, đạt được chánh kiến trong Phật pháp. Ngoài ra, còn có hai hạng không được lý tưởng cho lắm, đó là dương tăng và Vô tàm quý tăng.
5.3.1. Á dương tăng
Á dương tăng (như con dê không biết kêu tiếng loài dê):
Đệ tử xuất gia của Phật phải học và thực hành Giới luật. Giới luật Phật không chỉ là điều giới không sát sinh, không trộm cướp v.v., mà còn bao gồm các nguyên tắc và chế định trong đoàn thể xuất gia. Như phải đầy đủ tư cách gì mới có thể làm thầy của người? Đầy đủ tư cách gì mới có thể truyền giới? ủ những yếu tố nào được thọ giới? Thọ nhận giới pháp theo phương thức trình tự ra sao? Làm sao mới có thể kiến lập tự viện và chủ trì tự viện?... Đối với những điều này, Phật đều chế định cụ thể.
Mỗi người xuất gia, từ lúc xuất gia thọ giới, mỗi ngày ôm bát khất thực, thọ thực, đắp y và ngủ thức; những việc của Tăng đoàn, như thỉnh mời chức sự, hòa giải những rắc rối v.v.; thảy đều có quy định cụ thể. Tình hình trong Tăng đoàn, dùng ngôn ngữ thời hiện đại để nói, là chế độ dân chủ. Như cử hành yết ma là hội nghị, hội nghị có hợp pháp hay không thì mọi điều đưa ra bàn luận phải được mọi người đều thông qua, từ đó mới quyết định hợp pháp hay không. ối với việc này, người xuất gia nên biết rõ, nên học và thực hành. Nếu xuất gia mà điều gì cũng không biết, đó chẳng khác nào dương tăng!
5.3.2. Hạng tăng sĩ không biết tàm quý
Hạng tăng sĩ mà không biết tàm quý chính tỳ kheo phá giới. Giới luật có nặng nhẹ, ở đây nói đến việc phá đại giới. Với những vị tăng không biết tàm quý này, người cư sĩ tại gia có nên thân cận hay không? Điều này có thể phân làm hai loại:
(1) Hạng tăng sĩ không biết tàm quý nhưng có thể thân cận
Hạng tăng sĩ có thể thân cận, như trong kinh Thập luân, quyển 5 ghi: “Có hạng tăng sĩ không biết tàm quý, không trở thành bậc pháp khí, nhưng biết tôn kính Ta (Phật) là Thầy; đối với hình tượng và xá lợi của Ta, sinh lòng kính ngưỡng sâu sắc; đối với giáo pháp và Tăng đoàn của Ta, giới mà bậc Thánh ái kính, khởi tâm kính tin sâu sắc, … thì ngay cả Chuyển Luân Thánh Vương còn không thể bì được vị ấy, huống gì những hạng hỗn tạp khác”.
Hạng tỳ kheo không tàm quý này, không phải ngày ngày phạm giới, mà chỉ một lần nào đó vì bị phiền não kích động hay do hoàn cảnh mê hoặc dẫn đến phá giới. Phạm vào giới trọng liền gọi là phá giới, giống như cái ly đã có vết nứt. Người phá giới này không trở thành bậc pháp khí; sau này, vị ấy dù có tu hành, tham thiền, niệm Phật thế nào đi nữa cũng không thể chứng đắc quả Thánh, không được giải thoát. Nhưng hạng này không giống với kẻ phá giới thông thường, cho nên vẫn có thể thân cận họ. Bởi vì, họ tuy bị phiền não kích động mà phá giới nhưng vẫn tràn đầy tín tâm với Tam bảo; đặc biệt tôn trọng và kính ngưỡng hình tượng Phật, chùa tháp và xá lợi của Phật; đối trước tượng Phật, đặc biệt giữ thanh tịnh trang nghiêm, cung kính, lễ bái cúng dường. Bản thân họ tuy đã phá giới nhưng còn biết xưng tán Tăng bảo, cũng tán thán và kính tín Thánh giới thanh tịnh. Hạng tăng sĩ không tàm quý như vậy, bản thân họ tuy không trở thành bậc pháp khí, không thể chứng đắc quả Thánh, nhưng tự thân vẫn có thể tăng trưởng phước huệ. ối với Phật giáo mà nói, họ vẫn có thể khiến cho chúng sinh vun trồng công đức và sinh tâm kính ngưỡng, được lợi ích trong Phật pháp.
Hạng này tràn đầy tín tâm đối với Phật, Pháp, Tăng, và Thánh giới; cho nên bất luận là người ngoại đạo có công đức to lớn như thế nào, ngay cả Chuyển Luân Thánh vương ở thế gian, đều cũng không thể bì kịp họ. Chuyển Luân Thánh vương là vị vua nhân từ ở thế gian, dùng pháp môn đạo đức Mười nghiệp thiện giáo hóa thế gian. Thế gian nếu có Chuyển Luân Thánh vương thì nhân dân được an lạc, nhưng vị vua này không thể dẫn dắt con người đi theo hướng xuất thế. Còn vị tỳ kheo phá giới có thể khiến con người phát sinh chánh kiến xuất thế để vượt khỏi thế gian. Vì vậy, đứng trên phương diện tu chứng mà nói, tuy họ không trở thành bậc pháp khí của Phật pháp; nhưng từ công đức hộ trì Tam bảo mà nói, họ có thể làm cho người khác được lợi ích trong giáo pháp. Hạng tăng sĩ vô tàm quý này có thể thân cận, cũng không dễ gì gặp được ở trong đời mạt pháp.
(2) Hạng tăng sĩ không tàm quý nhưng không nên thân cận
Trong hạng tăng sĩ không biết tàm quý cũng có hạng không nên thân cận. Như kinh Thập Luân, quyển 5 ghi: “Có hạng tăng sĩ không biết tàm quý, hủy phá giới cấm, không thể trở thành bậc pháp khí của Hiền Thánh Tam thừa, cố chấp tà kiến, hủy báng các thừa khác, phỉ báng các ba la mật khác. Với hạng này, không nên thân cận họ; nếu thân cận, sẽ bị đọa lạc”. Hạng tăng sĩ này không những đã phá giới, đời này không những không chứng được quả Thánh, không được giải thoát, mà còn bày ra một khối đạo lý; tự mình theo t à kiến lại phỉ báng người có chánh kiến; tự mình không tu tập, lại phỉ báng người tu tập; khởi đại tà kiến, chủ trương không có nhân quả, không có thiện ác. ó là giặc sống trong Tăng đoàn.
Có một hạng khác hiểu biết tà vạy, lý giải sai lệch. Người tu theo giáo pháp Tiểu thừa thì phỉ báng giáo pháp đại thừa, rằng không phải Phật nói; tu theo đại thừa thì bài xích Tiểu thừa, cho rằng không đáng để học. Lại đối với sáu ba la mật, chỉ tu một pháp ba la mật mà hủy báng các ba la mật khác.
Hạng tăng sĩ không tàm quý này không những không thể trở thành bậc pháp khí, mà còn phá hoại Phật pháp, cho nên không nên thân cận họ. Nếu thân cận, ta sẽ bị huân tập từ nơi họ, cũng sinh khởi tà kiến, hủy báng các thừa khác và các ba la mật khác, rồi phải bị đọa Địa ngục.
5.4. Người cho Đại thừa là hư ngụy không nên thân cận
5.4.1. Thiên kiến chấp Đại thừa phỉ báng Tiểu thừa phạm ba loại sai lầm
Có một số người theo học giáo pháp đại thừa, thường công khai tuyên dương giáo pháp đại thừa của họ. Nói mình thuộc đại thừa, chỉ có kinh điển đại thừa mới đáng nghe, pháp của đại thừa mới đáng học; còn giáo pháp Thanh văn và ộc giác thừa đều thuộc Tiểu thừa, đều không cần tu học. Nói cách khác, đây là chấp đại thừa phỉ báng Tiểu thừa. Nhìn chung, người ta nghĩ rằng pháp đại thừa hay hơn Tiểu thừa; thế thìchỉ tu học pháp đại thừa mà không tu học Tiểu thừa, chú trọng hoằng dương giáo nghĩa đại thừa không hoằng dương Tiểu thừa, vậy có sai lầm gì?
Sai lầm này có thể là rất lớn! Như kinh Thập luân, quyển 6 nói: “Xướng lên như vầy: Ta là Đại thừa, là phái Đại thừa nên chỉ thích nghe học và thọ trì pháp Đại thừa, không thích pháp của Thanh văn và Độc giác”. Lại nói: “Người nói, người nghe đều mắc tội lớn, rơi vào kiến chấp đoạn diệt, sa vào tư tưởng điên đảo, chấp không có yếu tố làm nhân duyên. Chúng sinh có những sai lầm như thế đều do vì chưa tu học pháp của Thanh văn thừa và Độc giác thừa mà đã tìm cầu nghe học Chánh pháp Đại thừa vi diệu sâu xa trước”.
Nếu có kiến chấp thiên một bên tôn trọng pháp đại thừa hủy báng Tiểu thừa này, đây là phạm vào tội nặng. Nếu nghe hạng người này giảng pháp cũng phạm vào trọng tội. Ba loại sai lầm chủ yếu: Một, chủ trương về đoạn diệt (đoạn diệt kiến); hai, khởi tưởng điên đảo; thứ ba, chủ trương vô nhân luận. Vì vậy, thuyết Phán nhiếp tất cả Phật pháp của đại sư Thái ư đã kiến lập cộng pháp của năm thừa, cộng pháp của ba thừa, sau đó mới nói bất cộng pháp của Đại thừa. Nếu không có cộng pháp của năm thừa và cộng pháp của ba thừa, thì bất cộng pháp của đại thừa không có cơ sở.
Vì vậy, đại sư Tông Khách Ba của Phật giáo Tây Tạng dùng ba loại sĩ phu: cộng hạ sĩ đạo, cộng trung sĩ đạo, và thượng sĩ đạo để thống nhiếp tất cả Phật pháp. Phật pháp Tây Tạng được phát triển rộng lớn, rồi truyền đến Thanh Hải, Mông Cổ và các vùng ở phía đ ô ng bắc. Chủ trương này phù hợp với pháp môn Địa Tạng. Nếu không tu học pháp Tiểu thừa mà tu học đại thừa, hoặc tự mình thực hành như thế rồi dạy người tu hành, thì bản thân mình tách xa Phật giáo!
Thí như trong kinh điển đại thừa nói về giáo nghĩa
" Không‟, như cho rằng “Tất cả pháp đều không”; Thiền tông
đại thừa nói: “Không phải thiện, không phải ác”. Nếu cho rằng không có thiện không có ác, đó đều là sai lầm. Trong pháp Tiểu thừa, hiển bày nhân quả thiện ác, sinh tử luân hồi, vậy khổ não nằm ở đâu? Vấn đề nằm ở chỗ nào? Và sau đó nên tu tập như thế nào, hay chứng đắc như thế nào, mới đạt được sự thanh tịnh rốt ráo? Như vậy, điều thiết yếu là trước hết phải nhận rõ chính mình, nhận rõ những vấn đề căn bản này; sau đó mới có thể tiến thêm một bậc nữa hiểu được nghĩa "Không‟ của đại thừa. Nếu không như thế, sẽ rơi vào ba loại sai lầm đã nói ở trên.
(1) Rơi vào kiến chấp đoạn diệt, tức là rơi vào Không
Khi nghe nói đến: “Tất cả pháp đều là không”, cho rằng nhân quả duyên khởi cũng là không. Bấy giờ, y vào nhân quả duyên khởi, thì thiện ác báo ứng, sinh tử luân hồi đều không có. Người khởi lên kiến chấp đoạn diệt như vậy, tức là kiến chấp không‟, dù có thảo luận về tâm, về tánh, hay bàn về sự chứng ngộ, thảy đều không phải pháp đại thừa chân chánh.
(2) Tưởng điên đảo cuồng vọng
Nghe nói mọi người đều có Phật tánh, mọi người đều có thể thành Phật, bèn cho mình giống như là vị Phật, điều chưa chứng đắc lại cuồng vọng điên đảo cho rằng đã chứng đắc. Người học tập pháp đại thừa dễ đi vào con đường tà này. ó là sai lầm phát xuất từ việc lìa bỏ pháp Thanh văn và ộc giác mà học pháp đại thừa.
(3) Chủ trương không có yếu tố làm nhân làm duyên (Vô nhân luận)
Trong kinh đại thừa, hoặc nói “Nhân duyên bất khả đắc” ( 因緣不可 Nhân duyên không thể đạt được), hoặc “Nhân duyên vô tự tánh” ( 因緣無自性 Tự tánh của Nhân duyên là không), nhưng hai thuyết này hoàn toàn không cho rằng không có nhân duyên. Tuy vậy, có một số học giả lại dựa vào hai thuyết này mà rơi vào tà kiến, chủ trương “Tự nhiên vô nhân”( 自然無因 Sinh khởi tự nhiên, không do nhân không do duyên). Nhân quả là tông yếu của Phật pháp, không thể nào không tin hiểu rõ ràng. Hiện nay, có một số nơi, dường như Phật pháp rất hưng thịnh, nhưng rất ít khi bàn luận đến nhân quả ba đời, vô hình trung Phật pháp trở thành một môn học đạo Đức và pháp tu dưỡng trong đời sống hiện tại. Những vấn đề đã bị biến chất, lìa quá xa Phật pháp căn bản, đều là những sai lầm được xuất phát từ việc chỉ nghiêng về học pháp đại thừa, cũng có thể nói rằng căn bản của nó không thành pháp Đại thừa. Nói tóm lại, đây đều là tác dụng phụ được phát sinh từ việc chưa học pháp Thanh văn và ộc giác mà học pháp Đại thừa.
5.4.2. Nếu không có tinh thần xuất thế của Thanh văn thì Đại thừa nhất định trở thành một pháp dính mắc thông thường của thế gian
Đại thừa giống như thuốc bổ giàu chất bổ dưỡng, người vừa khỏi bệnh nhưng cơ thể còn yếu, uống thuốc này vào, sẽ khiến thân thể được khỏe mạnh, tinh thần phấn chấn. Nếu bệnh tật chưa trị lành mà uống thuốc bổ, ắt sẽ dẫn đến tác dụng phụ. Pháp Thanh văn và ộc giác mang tính thiểu dục tri túc, đơn giản, lợi cho mình, ít việc ít lao tác, trì giới luật thanh tịnh; đó là tinh thần căn bản của Tiểu thừa. Đại thừa lấy lợi người làm trọng, muốn cứu tế thế gian nên không ngại thu thập tài vật để làm lợi ích chúng sinh. Tuy nhiên, nếu xa rời tinh thần thiểu dục tri túc mà thực hành pháp đại thừa thì đã đi vào lối rẽ, có khác gì với sự tham dục đa cầu của thế gian? Không có tinh thần xuất thế của Thanh văn thì không có diệu pháp đại thừa nhập thế, đại thừa nhất định trở thành một pháp dính mắc thông thường ở thế gian. Do đây, nếu tách rời pháp tu Tiểu thừa, không có công đức của Thanh văn, mà tự cho mình là người tu tập đại thừa, không cần pháp Tiểu thừa, nhất định sẽ dẫn đến những hậu quả không tốt; đây cũng giống như bệnh chưa lành mà uống thuốc bổ. Kinh Pháp hoa nói rằng con đường đại thừa giống con số 500 do tuần, Tiểu thừa giống như 300 do tuần. 300 do tuần nằm trong 500 do tuần, chứ không phải ngoài 500 do tuần riêng có 300 do tuần. Do đó, nếu không tu học pháp Thanh văn và ộc giác mà chỉ tu học pháp đại thừa nhất định sẽ thành sai lầm lớn. Như vậy, không tu học pháp Tiểu thừa thì không thể tu học đại thừa, như kinh Thập luân nói: “Không tu học pháp Tiểu thừa, làm sao có thể tu học pháp Đại thừa?”, “Xả thân mạng hộ trì giới luật, không não hại chúng sinh, tinh tấn cầu pháp Không, nên biết đó là pháp Đại thừa”. Cũng trong kinh Thập luân, quyển 7 nói: “Vì sao gọi là Nhất thừa? Xa lìa Thanh văn và Độc giác thừa, vì bậc Thanh tịnh mà nói pháp này”. Điều này rõ ràng bài xích những người đại thừa chuyên đi phỉ báng Tiểu thừa, cũng giống như việc chưa biết đi mà lại học chạy vậy.
5.4.3. Học pháp Đại thừa cần có công đức của Nhị thừa làm cơ sở mới vững chắc
Pháp đại thừa, một mặt xem trọng việc trì giới, trì giới không tiếc thân mạng, bảo vệ Giới của Phật, tràn đầy lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh và không não hại (Giới căn cứ lòng từ bi mà thành lập; chân thật trì giới mới có thể khởi lòng từ bi); mặt khác, tinh tấn tìm cầu pháp Không. Lòng từ bi, trì giới, tinh tấn tìm cầu "tất cả pháp không‟; đó là đặc thù của pháp đại thừa. Pháp Không, nghĩa là tất cả không sinh không diệt (tức tướng là không và tánh là không); ngài Long Thọ nói: “Người không có tín và giới làm cơ sở mà mong muốn hiểu cái Không đệ nhất, đó là Không tà vạy”. Điều này có thể thấy, nhận thức đúng đắn về cái Không chân thật ( 真空 ) cần phải đặt trên cơ sở tin sâu nhân quả, giữ gìn giới hạnh thanh tịnh, mới có thể đạt được. Mà tin sâu nhân quả, giữ gìn giới thanh tịnh, và tinh tấn, đều là công đức chung của Thanh văn và ộc giác. Vì thế, tu học pháp đại thừa không được phỉ báng Tiểu thừa, đối với lí luận cơ bản và công đức của Tiểu thừa đều nên tu học. hi đã có công đức của Tiểu thừa làm chỗ dựa, việc tu học pháp đại thừa và tìm cầu pháp Không mới có thể vững chắc.
5.4.4. Nghĩa chân thật của “Duy chỉ có một Phật thừa” trong kinh Pháp hoa
Có một số người cho rằng kinh Pháp hoa nói đến Nhất thừa, tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật, học tập Tiểu thừa nhưng cuối cùng cũng trở về với đại thừa; vậy thì học pháp đại thừa là tốt rồi cần gì trước phải học pháp Tiểu thừa? Có một vị òa thượng lớn tuổi người ương Cảng, đối với kinh Pháp hoa có kiến giải rất đặc biệt. òa thượng cho rằng kinh này "Khai quyền hiển thật‟, tức là bỏ pháp phương tiện (Quyền pháp) mà hiển bày pháp tánh chân thật (Thật pháp), không cần pháp phương tiện của Tiểu thừa duy chỉ hiển bày nghĩa chân thật của Nhất thừa. Điều này khiến cho nhiều người hiểu nhầm, rằng tu học pháp Nhất thừa của đại thừa thì không cần đến Tiểu thừa nữa.
Nhưng Đức Phật vì sao nói rằng duy chỉ có Nhất thừa mới là cứu cánh, mới có thể thành Phật? Vì sao đến cuối cùng không nói Tam thừa mà chỉ nói một là Phật thừa? Phải biết rằng, Đức Phật nói Nhất thừa không phải vì chúng sinh có căn tánh bình thường, mà vì những chúng sinh có thân tâm thanh tịnh, có đủ phẩm cách thọ pháp đại thừa mới nói như thế. Ngay lúc khởi đầu, Phật không hề tuyên bố rằng: “Duy chỉ có một Phật thừa”.
Như trong kinh Pháp hoa, Đức Phật xuất khỏi thiền định (tam muội), tán thán trí huệ của chư Phật sâu xa vô lượng, bất khả tư nghì. Ngài Xá lợi phất thỉnh Đức Phật thuyết pháp, Ngài nhiều lần ngăn lại. Đến lúc Xá lợi phất ba lần ân cần thỉnh mời, Phật mới hứa khả tuyên thuyết. Lúc đó, có 500 người tăng thượng mạn rời khỏi chỗ ngồi, Đức Phật nói: “Lui về cũng tốt vậy!”. Đại chúng trong pháp hội bấy giờ đều là người có căn tánh đại thừa, nên Phật mới bắt đầu tuyên thuyết “Duy chỉ có một Phật thừa”. Đức Phật chưa từng mở lời dạy mọi người học đại thừa, mà thật sự dựa vào thời và căn cơ thuyết giáo, rồi dần dần dẫn dắt vào, đến giai đoạn này mới tuyên thuyết một pháp đại thừa. Nói cách khác, Tiểu thừa tuy chưa phải cứu cánh, nhưng có tính thích ứng đối với chúng sinh có căn tánh như thế, thì cần phải nói pháp này. Phật ở trong đời ác năm trược kiến lập Tăng đoàn thanh tịnh nên cần có pháp Tiểu thừa với tính nghiêm túc, đơn giản, không bị hệ lụy bởi kinh tế gia đình quyến thuộc. Ngài ở trong nhân gian kiến lập Tăng đoàn thanh tịnh đúng như pháp, chính là một tia sáng hi vọng xuất hiện ở thế gian tăm tối.
Cho nên, như trong kinh Pháp hoa, Đức Phật ban đầu cảm thấy pháp môn này sâu xa không thể nói. Nhưng rồi Ngài lại nghĩ các Đức Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều ở trong đời ác năm trược mà nói pháp này; đều vìthích ứng với căn cơ chúng sinh mà ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Nếu ngay từ ban đầu thuyết pháp Nhất thừa, khi mà chúng sinh vẫn chưa được thanh tịnh thì không thể tiếp nhận, không những không được công đức mà ngược lại phỉ báng tạo tội. Vì vậy, phải nói pháp Tiểu thừa trước, khiến chúng sinh có nền tảng căn bản, sau đó mới tiếp tục lãnh thọ Chánh pháp vi diệu đại thừa. Pháp Tiểu thừa lấy người xuất gia làm trọng tâm, đây là bộ phận nòng cốt kiến lập Phật pháp trong đời ác năm trược. Tăng đoàn thanh tịnh nếu không được kiến lập thì Chánh pháp sẽ bị suy yếu. Do điều này, Bồ tát Địa Tạng ở trong đời ác năm trược hiện thân Thanh văn cứu độ chúng sinh, khiến cho họ không bị đọa vào Địa ngục. Ngài tuyên thuyết hai phương diện:
a. Đối với tỳ kheo phá giới nên ứng phó như thế nào?
b. Ở trong Tăng đoàn thanh tịnh, nên hộ trì như thế nào mới có thể làm cho Tam bảo ở thế gian luôn thanh tịnh trang nghiêm và Chánh pháp không hoại diệt?
5.5. Thận trọng thọ nhận tài sản quyền thế, chớ tạo nghiệp ác
Thông thường, người Phật tử tại gia có ảnh hưởng lớn đối với Phật pháp nhất định là nhân vật có tầm quan trọng trong xã hội, đặc biệt là vua đại thần, những người đảm nhiệm những chĐức vụ chính trị quan trọng. Họ có quyền thế, có danh vọng, nếu có chánh tín đối với Phật pháp thìsẽ hỗ trợ đắc lực cho sực truyền bá Phật pháp ở thế gian. Nhưng nếu làm người hộ pháp mà không biết chừng mực, hoặc không chánh tín Phật pháp mà sinh ác kiến, người ấy sẽ tạo nên chướng ngại cho sự truyền bá Phật pháp. Như đã nói ở tr ê n, bức hại người xuất gia, hỗ trợ cho tỳ kheo phá giới xâm chiếm đoạt đồ vật thanh tịnh của chúng tỳ kheo, xâm đoạt tài sản của chùa miếu tự viện, đó đều là hành vi của những người có quyền thế. Người khốn khổ không có khả năng hộ trì, cũng không có khả n ă ng phá hoại. Những người giàu sang, có quyền thế mà hộ trì Tam bảo, có nhiều khi cũng sẽ nảy sinh vấn đề không tốt, huống gì những người cố ý hủy hoại Phật pháp. Vì thế, phải hết sức cẩn trọng khi thọ nhận quyền thế tài sản, để tránh tạo thêm nghiệp ác. Hạng người này trong kinh Thập luân, quyển 7 phân làm bốn:
5.5.1. Không cần Địa vị tôn quý để tránh tạo tội nặng
“ Phát nguyện không cần Địa vị tôn quý để tránh tạo tội nặng”. Có một số người phát nguyện không làm người có quyền thế như vua, đại thần, vì sợ điên đảo vọng tưởng bức bách dẫn đến phá hoại Tam bảo. Bởi vì không phạm tội này thì 185 thôi, khi đã phạm nhất định đọa Địa ngục. Vì vậy, thà làm người không có quyền thế tài sản, tuy không đủ sức làm hộ pháp, không tích lũy công đức lớn, cũng không đến nỗi làm việc ác mà bị đọa lạc.
5.5.2. Đã đắc Vô sinh pháp nhẫn, được thọ dụng tài sản và Địa vị tôn quý để làm lợi ích chúng sinh
“ Nếu có chúng sinh đã đắc Pháp nhẫn... thọ dụng loại các tài sản lớn thù thắng, giữ những Địa vị vinh hoa tôn quý, là việc được Ta cho phép”. Nghĩa là chúng sinh đã chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn, tức đã giác ngộ thấy rõ đạo lý chân thật, có sự thể hội của trí huệ; nếu vị này được làm vua hay đại thần, đã có đức trí làm nền tảng, chắc chắn không tạo các tội phá hoại Tam bảo. Hạng người này mới có thể thọ dụng tài lợi lớn lao thù thắng và thế lực Địa vị vinh hoa tôn quý. Thông thường, những chúng sinh khổ não không có tài sản thế lực thì không thể làm được việc lớn, ở trong Phật pháp chỉ có thể làm công đức nho nhỏ. Chính như người tu theo pháp Tiểu thừa, vì sợ phạm vào giới trọng, thà chịu khổ cực, không cần tài sản quyền thế. Pháp
Đại thừa thì không như thế, đặt lợi ích của Tam bảo và chúng sinh lên trên hết. Nếu thật sự là người đã chứng ngộ Pháp tánh, dù có quyền thế, dù ở Địa vị quan cao tước dày, nhất định thường làm nhiều lợi ích cho chúng sinh và hộ trìTam bảo.
5.5.3. Chưa đắc Vô sinh pháp nhẫn, tự mình hành trì và dạy người hành trì Mười nghiệp thiện
“ Nếu chúng sinh chưa đắc Vô sinh pháp nhẫn, có thể hành trì mười nghiệp thiện, cũng khuyên chúng sinh hành trì mười nghiệp thiện; Ta cũng cho phép được làm”. Lại nói: “Thiện nam tử, thế nào gọi là Mười luân của vị Đại Bồ tát? Mười luân này không phải pháp nào khác, nên biết là mười nghiệp thiện. Người thành tựu mười luân như vậy được gọi là Đại Bồ tát, có khả năng đoạn trừ tất cả nghiệp ác, tùy ý thành tựu tất cả pháp thiện, nhanh chóng chứng nhập biển lớn Niết bàn viên mãn”. Theo trên, có một số chúng sinh tuy chưa khai ngộ, có thể hành trì mười nghiệp thiện, cũng dạy người khác hành trì mười nghiệp thiện. Như thế, tuy làm người có quyền thế như vua, đại thần, tể tướng, cũng nhất định không tạo những tội nặng phá hoại Tam bảo.
Mười nghiệp thiện gồm: thân có ba: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm. Miệng có bốn, tức về phương diện ngôn ngữ văn tự: không nói láo, lừa dối; không nói lời hai lưỡi, đâm thọc, ly gián; không nói lời hung ác, mắng nhiếc, không nói lời thêu dệt, hay dạy người dâm ô hoặc trộm cướp. Ý (tư tưởng) có ba: không tham đắm năm dục, không khởi tâm sân nhuế, không tà kiến ngu si và tin sâu thiện ác nhân quả. Mười nghiệp thiện này, tự mình thực hành dạy người thực hành, do vậy đạo đức phẩm cách của người n à y được nâng cao, làm việc đúng như pháp, đương nhiên không hủy Pháp phá Tăng. Vì thế, người nào dù chưa được giác ngộ, nếu thọ nhận tài vật phú quý mà có thể thực hành mười nghiệp thiện cũng không tạo tội nặng. Kinh đại thừa đều nói rằng Bồ tát phát tâm bồ đề, trước tiên tu mười thiện, cũng phải từ mười nghiệp thiện mà hành trì. Trong kinh Nhân vương hộ quốc bát nhã gọi đó là Bồ tát giai vị mười thiện (thập thiện vị Bồ tát). Tự mình tu tập đạo đức, đem đạo đức dạy đời, lấy tâm bồ đề mười thiện giáo hóa thế gian; vị ấy mặc dù chưa giác ngộ nhưng cũng có thể đi trên đường đại thừa chân chánh. Hạng Bồ tát ở giai vị mười thiện hành lợi mình lợi người này thành tựu 10 công đức lành, đoạn trừ tất cả pháp ác, do vậy dù giàu sang quyền cao chức trọng chắc chắn không tạo tội nặng phá hoại Tam bảo.
5.5.4. Nếu chưa chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn, không thực hành mười nghiệp thiện thì phải tin sâu và cung kính Tam bảo
“ Nếu chưa chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn, không thực hành mười nghiệp thiện… cũng có nhân duyên khác được phương tiện cứu độ… Nếu có niềm tin và tôn kính Tam bảo... sẽ không hủy Pháp, không não hại Tăng, không chiếm đoạt vật của Tăng chúng; ở trong Chánh pháp tương ưng với Ba thừa, nghe thọ trì phụng hành... sẽ không đọa Địa ngục Vô gián và các đường ác khác”. Nếu chưa đắc Vô sinh pháp nhẫn, cũng không hành mười nghiệp thiện, hạng người này nếu làm vua hay đại thần thì vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên dựa vào một nhân duyên khác có thể phương tiện để cứu độ, cũng do đây mà không tạo tội nặng để đọa vào Địa ngục.
Hạng người này có được quyền thế và giàu sang, niềm tin sâu sắc, có thể cung kính Tam bảo. Như phần trên nói về tỳ kheo phá giới, tuy đã phá giới nhưng bản thân họ tràn đầy niềm tin đối với Phật pháp thì vẫn có công đức. Người đệ tử tại gia chưa khai ngộ, cũng không tu tập mười nghiệp thiện, nên khó tránh khỏi làm các việc ác. Nhưng do vì họ hết sức tôn kính và tràn đầy niềm tin đối với Tam bảo; cũng không tạo những tội nặng phá Pháp não hại Tăng, phá hoại Tam bảo, chiếm đoạt vật của Tăng v.v.. ồ vật của Tam bảo thì thuộc về Tam bảo, người xuất gia còn không được tùy tiện lấy dùng, huống gì người đệ tử tại gia tự lấy làm của riêng ư? Chỉ cần tin sâu Tam bảo, tôn trọng cung kính giáo pháp thuộc ba thừa, dù chưa khai ngộ và chưa tu hành mười nghiệp thiện, người ấy vẫn có sức mạnh thiện phát sinh từ các công đức để khống chế lực ác, mới không tạo tội nặng mà bị đọa vào ác thú và Địa ngục.
Tiết này, nói chung vìđệ tử tại gia có quyền thế và tài sản mà nói. Nếu có khả năng chứng được Vô sinh pháp nhẫn, đương nhiên là quá lý tưởng; nếu không được như thể, cũng nên tu tập mười nghiệp thiện; nếu không thể tu mười nghiệp thiện, cũng phải có đầy đủ niềm tin thanh tịnh đối với Tam bảo; có như vậy mới không tạo những tội nặng như năm tội Vô gián và mười c luân như đã nói ở trên. Người sinh vào nhà giàu sang, có đầy đủ quyền lực và Địa vị, được như vậy, có thể làm nhiều việc lợi ích cho Phật pháp, tăng trưởng công đức và hộ trìPhật pháp.
5.6. Bồ tát Địa Tạng phát nguyện rộng lớn cứu độ tất cả chúng sinh
Bồ tát Địa Tạng từ vô lượng kiếp đến nay đều phát nguyện cứu độ chúng sinh, không để họ đọa vào Địa ngục. Ngài 189 đ ối trước Đức Phật Thích ca phát lại nguyện này: “Trong đời ác năm trược không có Phật xuất hiện, chúng sinh đầy dẫy phiền não, làm các việc ác, ngu si độc ác, khó mà giáo hóa… thiện căn yếu kém, không có niềm tin… Những người như thế vì tài lợi mà kết hợp với các tỳ kheo ác hạnh phá giới, cùng làm bạn bè phi pháp, đều nhất định sinh vào Địa ngục Vô gián. Nếu có việc này, con sẽ đi đến họ dùng pháp vương của Như Lai Thế Tôn phương tiện giáo hóa, khiến tất cả hữu tình được an lạc lợi ích, được nếm pháp vị cam lồ vi diệu vô thượng, khiến được thọ nhận được sự cứu độ, … khiến họ không sinh vào Địa ngục Vô gián” (kinh Thập luân, quyển 4). Khi Đức Phật còn tại thế, uy đức của Phật rất lớn, chúng sinh có căn tánh bén nhạy. Sau khi Phật diệt độ, chúng sinh dẫy đầy phiền não, làm quá nhiều việc ác, ngu si độc ác, không phân biệt thiện ác đúng sai, tàn khốc hung bạo. Do đó trong kinh nói rằng: “Chúng sinh trong đời ác năm trược, cang cường khó dạy”. Những chúng sinh này thường vì tài lợi mà kết hợp với tỳ kheo ác hạnh. Phật pháp ở trong thế gian, những đạo tràng tốt đẹp và những tỳ kheo có đức hạnh đương nhiên sẽ có người hộ trì. Ví như có một số đạo tràng niệm Phật, hành thiền định, giảng kinh, có bậc đại đức dẫn dắt, cũng có người hộ trì. Nhưng có một số danh thắng Địa phương, chùa cổ hoặc chùa mới xây, bất kể có phải bậc cao tăng đức hạnh trụ trì hay không, hễ tài sản có nhiều đều cần phải có người gìn giữ. Chùa chiền ở Trung Quốc ngày trước rất cần được bảo trì tốt, nên mỗi khi thân sĩ có thế lực ở Địa phương đi đến, phải tiếp rước quà cáp, mời họ hộ trì. Có một số cư sĩ tại gia, đối với Tam bảo ít nhiều cũng có chút niềm tin; nhưng bản thân người xuất gia lại không tăng tiến, đãi khách tặng quà để nhờ cậy giúp đỡ, dần dần tạo thành thói quen. Điều này khó trách có một số thân sĩ Địa phương không phân biệt tốt xấu trắng đen, chỉ cần được tặng quà liền giúp đ ỡ. ó không những tạo thành thói quen xấu cho họ, ngược lại còn khiến cho những tỳ kheo có đức hạnh không chốn nương thân. Làm như vậy không chỉ không thể hộ trì Phật giáo, ngược lại còn tăng thêm không ít khó khăn cho Phật giáo. Những người chân chánh ái kính hộ trì Phật pháp, muốn khiến cho Tam bảo thanh tịnh, nhìn thấy những việc này rất đau lòng; như đại sư Thái ư cũng rất đau lòng vì chuyện này.
Bồ tát Địa Tạng ở trong pháp hội của Đức Phật Thích ca thị hiện thân tướng người xuất gia, kiến lập Tăng đoàn thanh tịnh làm bộ phận chủ đạo cho Phật pháp. Dựa vào tinh thần cơ bản này, Bồ tát phát nguyện ở trong đời ác dùng phương tiện cứu chúng sinh ra khỏi Địa ngục hay vùng phụ cận. Không nhất thiết phải hiển thị thần thông mới có thể cứu chúng sinh đang bị đọa lạc ra khỏi Địa ngục, mà phải khai thị làm cho họ hiểu được chánh lí. ặc biệt khiến cho những người có Địa vị và giàu sang, là hạng có khả năng tạo các tội nặng phải đọa Địa ngục, khiến họ biết tin tưởng phụng trì Phật pháp, không tạo tội phá hoại Tam bảo. Đức Phật chủ yếu căn cứ kinh Địa Tạng thập luân mà nói pháp môn này, khiến cho chúng sinh trong đời ác năm trược không đọa vào Địa ngục.
6. Sự cứu độ những người sắp bị đọa lạc và người đã bị đọa lạc
Pháp môn Bồ tát Địa Tạng đặc biệt chú trọng làm sao mới có thể khiến con người không rơi vào đường ác. Không tạo nghiệp ác nặng, không đọa Địa ngục đương nhiên là rất tốt. Nhưng nếu đã tạo nghiệp ác đọa Địa ngục, ngay khi sắp mạng chung sẽ phải bị đọa Địa ngục, vậy ngay thời điểm mấu chốt đó làm thế nào cứu độ họ? Nếu đã đọa Địa ngục thìlàm thế nào để cứu độ? Người bệnh nặng lúc sắp mạng chung, hoặc giả đã mạng chung, lúc đó, nếu nghiệp ác đã tạo kết thành quả báo rồi mà thiện nghiệp lại không kịp tạo, làm sao để cứu độ người ấy? Trong kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện đặc biệt chú trọng đề cập vấn đề này.
Bồ tát Địa Tạng phát nguyện cứu độ chúng sinh chịu khổ trong các đường ác. ối với chúng sinh đọa trong các đường ác, thì chúng sinh trong Địa ngục chịu đau khổ nhất. Bồ tát đặc biệt từ bi thương xót những chúng sinh đang chịu thống khổ, do vậy đặc biệt chú trọng cứu độ chúng sinh trong Địa ngục. Ngài ở trong pháp hội của Đức Phật Thích ca được Phật phó thác nhiệm vụ này. Sau khi Phật diệt độ, trong thời mạt pháp, căn tánh chúng sinh thấp kém, phiền não sâu nặng, người tu hành được chứng ngộ rất ít, kẻ bị đọa lạc lại rất nhiều. Đức Địa Tạng ở trong vô biên kiếp số đã phát đại nguyện, nên ở trước Phật lãnh lấy trách nhiệm này, nguyện ở trong thế giới uế trược cứu độ chúng sinh; đây là việc hi hữu khó làm.
Ở đây, có một vấn đề: Bồ tát hi vọng mỗi chúng sinh đều hướng thượng và hướng thiện thì không đến nỗi bị đọa lạc. Chúng sinh cũng hi vọng cha mẹ, lục thân quyến thuộc của họ đều có thể hướng thiện, không đọa đường ác. Từ góc độ tạo nghiệp gì sẽ chịu quả báo đó mà thảo luận, tất nhiên làm việc thiện thì có thiện báo, làm việc ác thì có ác báo, tự mình làm tự mình lãnh chịu. Nhưng đứng một góc độ khác mà thảo luận, chúng ta có thể tận mắt chứng kiến sự đọa lạc của kẻ sắp bị đọa lạc, đành lòng ngồi nhìn người có quan hệ huyết thống với chúng ta đọa lạc vào trong Địa ngục không? Bản thân mình thành Hiền thành Thánh mà cha mẹ tổ tông chịu thống khổ trong Địa ngục, lòng ta chịu đựng được không?
Phật pháp không phải dành cho người chỉ tìm cầu lợi lạc cho riêng mình, không phải dành cho người bỏ quên ân đức cha mẹ và lục thân quyến thuộc; vì vậy, đối với người chưa đọa đường ác cần dùng phương tiện để cứu độ họ, người đã bị đọa cũng cần dùng phương tiện để cứu thoát họ. ây giống như người phạm pháp, tuy đang bị giam cầm trong lao ngục, người thân cũng nên nghĩ phương cách để cứu họ, không thể nói rằng họ đáng phải gánh chịu hậu quả do những tội lỗi đã gây. ối với người có quan hệ với chúng ta, càng phải mau nghĩ cách cứu độ họ. ây là sự biểu lộ tình người, nó tồn tại trong tâm hồn của mỗi con người.
Người Trung Quốc đối với tổ tông, có tâm hiếu kính
" Thương tiếc cha mẹ kính tưởng tổ tiên‟, vì vậy hằng năm vào ngày tết hay kị giỗ, thiết lễ dâng cúng, lễ bái chí thành, biểu thị sự tưởng nhớ của con cháu đến tổ tiên. Tâm tình chung trong truyền thống người dân Trung Quốc là luôn nghĩ tưởng đến người đã chết. Khi họ ăn cơm hay mặc áo đều nghĩ nhớ đến cha mẹ, do đó, họ dâng cúng cơm và thức ăn, đốt áo quần và đồ vật. Sau đó, dần dần tiến đến đốt giấy tiền hàng mã mong chuyển đến cha mẹ tổ tiên, đây là một hình thức biểu hiện tâm hiếu, nhưng ý nghĩ thì tốt, mà cách làm lại không được đúng đắn. Những tôn giáo ở phương Tây vốn không nghĩ đến những vấn đề này, dường như cho rằng người đã chết tức là đã kết thúc; nếu đã làm ác, thì một việc nhỏ cũng không còn tồn tại.
Phật giáo không giống với Nho giáo chỉ hạn cuộc tâm niệm cúng kiếng và "Thương tiếc cha mẹ kính tưởng tổ tiên‟, mà Phật giáo nỗ lực cứu thoát những người đã chết đang bị đọa lạc, và khiến cho những người chưa chết làm sao để không đi đến sự đọa lạc. Tôn gi á o chỉ nhằm thích ứng với nhu cầu căn tánh của con người, do vậy thần giáo phương Tây đang trong quá trình phát triển, Thiên Chúa giáo cũng có tư tưởng Địa ngục, vì người chết mà làm lễ Mi sa, 31 là nghi thức làm tiêu trừ tội ác cho người đã chết. Điều này bắt nguồn từ nhân tính mà phát triển thành. Nhưng đối với phương pháp cứu độ, chỉ Phật giáo mới có thể cung cấp lời giải đáp viên mãn.
6.1. Địa Tạng phát nguyện lâu dài cứu thoát chúng sinh
6.1.1. Bi nguyện sâu nặng của Bồ tát: Chúng sinh chưa độ hết, Tôi nguyện không thành Phật
Bồ tát Địa Tạng khi phát bồ đề tâm, từng phát nguyện như vầy: “Tôi nay cho đến tận kiếp vị lai không thể tính đếm, vì chúng sinh chịu tội khổ trong sáu đường mà lập phương tiện rộng, khiến cho tất cả chúng sinh đều được giải thoát, riêng tôi mới thành Phật” (kinh Bổn nguyện, quyển thượng). Phát bồ đề tâm, tu học đạo Bồ tát cũng phải tùy nhân duyên mà phát tâm tu hành. Bồ tát Địa Tạng nhìn thấy chúng sinh chịu khổ trong sáu đường, chứng kiến cha mẹ chịu khổ, liền phát đại nguyện độ tận tất cả chúng sinh, tức khiến họ xa lìa tất cả đau khổ. Nguyện này không phải phát trong vài ngày, vài tháng, vài năm, đời này hay đời sau; mà là cho đến tận cùng vị lai kiếp, quan trọng là khiến cho tất cả chúng sinh trong đường ác không còn chịu khổ não. Nhưng căn tánh chúng sinh bất đồng, trình độ nhận thức cũng không giống nhau, tâm cảnh sai biệt; nếu chỉ dùng cùng một phương thức để cứu độ, chưa chắc thảy đều được lợi ích, vì vậy phải dùng nhiều phương tiện khiến cho tất cả chúng sinh đều thành Phật, sau đó bản thân Bồ tát mới thành Phật. Nên Ngài mới phát nguyện: “Chúng sinh chưa độ hết, Tôi nguyện không thành Phật”. Chúng sinh thì nhiều vô tận, mà thoát khỏi Địa ngục cũng là điều vô cùng khó, như thế đồng nghĩa là không thành Phật. Địa Tạng trở thành vị Bồ tát vì tâm đại bi mà phát nguyện không thành Phật đạo. Bồ tát trong khi ph á t tâm tu hành, đặc biệt chú trọng tâm đại bi, không vìlợi ích riêng mình mà gấp rút thành Phật, nên nguyện cho mọi người đều thành Phật, sau đó Bồ tát mới thành Chánh giác. Địa Tạng từ vô lượng kiếp đến nay đã phát ra đại nguyện như thế. Ngài phát đại nguyện thiết lập phương tiện rộng lớn, thà rằng bản thân có thể không thành Phật đạo, chỉ chuyên tâm cứu độ chúng sinh, khiến tất cả được giải thoát. Bi nguyện của Bồ tát Địa Tạng sâu rộng, tinh thần quá vĩ đại, Ngài thật xứng đáng cho chúng ta kính ngưỡng tôn thờ.
6.1.2. Công đức cung kính cúng dường Bồ tát Địa Tạng
Đức Phật Thích ca cũng đã từng tán thán công đức của Bồ tát Địa Tạng rằng: “Nghe danh hiệu vị Bồ tát này, hoặc tán thán, hoặc chiêm lễ, hoặc xưng danh, hoặc cúng dường, cho đến họa vẽ điêu khắc, chạm trỗ hình tượng; người này ở trong trăm kiếp sinh ở cõi trời Tam Thập Tam, vĩnh viễn không đọa đường ác” (kinh Bổn nguyện, quyển thượng). “Siêu vượt tội nặng trong 30 kiếp, sinh vào cõi trời, không đọa đường ác, không làm thân nữ, được thân tướng đoan nghiêm tôn quý, được quỷ thần hộ vệ”(kinh Bổn nguyện, quyển hạ). Do vì công đức của Bồ tát Địa Tạng bất khả tư nghì, cho nên việc việc tán thán Ngài v.v., cũng sẽ có được công đức như thế. Đức Phật từng dạy rằng: Trong 100 kiếp xưng danh tán thán công đức của các Bồ tát Văn Thù Sư Lợi v.v., không bằng trong khoảnh khắc của một bữa ăn mà cung kính xưng niệm Bồ tát Địa Tạng. Do bi nguyện của Bồ tát Địa Tạng quá lớn, xét tên hiểu nghĩa mà biết được công đức của Ngài. Nghe tên của Ngài, biết được hành trạng trong đời quá khứ, dùng rất nhiều phương cách để xưng dương tán thán Ngài.
Ngày trước, người Ấn ộ lưu hành các bài kệ tụng để tán thán công đức của Phật và Bồ tát. Ngày nay, họ hoặc dùng văn chương, hoặc dùng thi từ, ca vịnh để tán thán. Khi nhìn thấy hình tượng Bồ tát nên cung kính chiêm ngưỡng lễ bái; hoặc xưng danh hiệu Ngài; hoặc dùng hương hoa cúng dường; hoặc họa vẽ hình tượng Bồ tát, hoặc chạm trên gỗ, khắc trên đá; hoặc dùng đồng, sắt, vàng, bạc đúc hình tượng Bồ tát, hoặc dùng đất sét nắn hình. Bất luận thứ gì, chỉ cần nhìn thấy tượng Bồ tát mà biết cung kính lễ bái thì công đức rất lớn, đạt được quả thiện trong một trăm đời đều sinh vào cõi người và trời, .
Về các công đức của lễ bái, đúc tượng, xưng danh, cung kính cúng dường Bồ tát Địa Tạng, trong kinh nói đến rất nhiều, như:
(1) Có thể diệt tội nặng trong 30 kiếp.
(2) Ở đời sau được sinh vào cõi trời.
(3) Không làm thân nữ. Người nữ vốn không có gì là không tốt, chỉ có điều sinh lý bất đồng, tuy nói nam và nữ bình đẳng, nhưng về mặt thể chất thật sự không bằng người nam. Nếu xưng danh hiệu Bồ tát Địa Tạng có thể không làm thân nữ. Nếu người nào cho rằng thân nữ cũng tốt, nguyện muốn làm thân nữ, trong đời sau nhất định sẽ làm người thân tướng đoan nghiêm thuộc dòng dõi tôn quý, hiền thục thuần lương, là một người vợ hiền người mẹ tốt, giống như Ma da phu nhân làm mẹ của Thái tử Tất đạt đa ( tức Đức Phật).
(4) Sinh ở nhân gian được quỷ thần hộ vệ. Quỷ thần tà ác ở trong thế gian rất nhiều, có một số làm nhiễu loạn loài người, nhưng đối với những người có đức hạnh, một phần quỷ thần lương thiện sẽ ủng hộ và bảo vệ họ được bình an.
6.2. Sự cứu thoát chúng sinh sắp mạng chung
6.2.1. Sự cứu thoát chúng sinh sắp mạng chung mà thường ngày không tạo nghiệp thiện
Ở trên đã nói, con người trong cuộc sống thường ngày do đối với Bồ tát Địa Tạng cung kính lễ bái tán thán mà được công đức. Bây giờ, nói đến sự cứu độ đối với người sắp mạng chung.
Người sau khi mạng chung không nhất định sẽ bị đọa lạc, hoặc tái sinh làm người; nếu công đức lớn, có thể sinh lên cõi trời; nếu niệm Phật tinh chuyên, sẽ sinh vào cõi Cực Lạc; những người này căn bản không cần đến sự siêu độ cứu rỗi. Nhưng trong mấy mười năm của kiếp sống nhân sinh, những việc sai lầm đương nhiên không ít. ặc biệt ở thời mạt pháp, sự đấu tranh kiên cố, lòng sân hận sâu nặng, tham dục cũng quá lớn, con người khó tránh không tạo tội lỗi, do vậy đều có khả năng sẽ bị đọa lạc vào Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Thế thì dùng phương pháp nào mới có thể cứu độ? Trước khi chưa mạng chung thì dễ dàng cứu độ, đã mạng chung rồi thì khó khăn hơn rất nhiều. Hiện tại, người tu học Phật thường chú trọng sự cứu độ sau khi mạng chung, thật ra tốt nhất nên chú trọng cứu độ ngay lúc sinh tiền. Phương pháp cứu độ đại khái có hai loại: a. Bố thí làm phước; b. ối trước Tam bảo làm công đức, tụng kinh, lễ sám, xưng danh hiệu Phật.
a. Bố thí làm phước
Trong kinh thường nói, người bệnh ở thời điểm nguy và đau khổ nhất rất có khả năng bị đọa lạc. Việc cần nhất là người thân nên đem những vật dụng thuộc về người ấy bố thí, đặc biệt đem những vật dụng mà họ vốn yêu thích khó xả bỏ nhất bố thí. Ví như có người thích thu thập đồ cổ, thư pháp, hoặc tem bưu điện v.v., sở thích của mỗi người đều không giống nhau, đem đồ vật mà họ yêu thích nhất đi bố thí có thể phá trừ lòng tham dính mắc của họ. Ngay cả đồ yêu thích khó xả bỏ còn có thể bố thí, huống gì những thứ khác có gì mà không thể thí xả? Bố thí vật mà mình yêu thích nhất thì công đức cũng lớn nhất. Chúng sinh vì tiền tài mà tạo tội quá nhiều; nếu có thể bố thí tiền của, đồng thời có thể nói rõ với người mang bệnh nặng biết rằng nên đem những đồ vật mà người ấy yêu thích nhất, sẽ vì người ấy mà bố thí làm phước, nhất định sẽ được nhiều quả báo công đức. Một mặt giúp họ phát khởi tâm buông xả, giảm nhẹ sự yêu thích dính mắc; một mặt vun trồng làm tăng trưởng phước đức cho họ. Người không luyến tiếc tài vật hiện tại của bản thân, làm tăng trưởng phước báo của cõi người cõi trời, thì tất nhiên sẽ không bị đọa lạc. ây là phương pháp cứu độ cơ bản của Phật giáo cho người bệnh sắp lâm chung.
b. Đối trước Tam bảo tu công đức, tụng kinh, lễ sám
Còn một phương pháp khác nữa là đối trước Tam bảo tu tập công đức; đối trước Đức Phật thiết lễ cúng dường, tụng kinh lễ sám, xưng danh hiệu Phật, nhờ vào oai lực của Tam bảo, khiến cho người lúc sắp lâm chung được lợi ích. ây như kinh Bổn nguyện, quyển hạ n ó i: “Quyến thuộc phụ mẫu khi sắp 199 mạng chung, nên làm việc phước để làm tư lương cho họ. Hoặc treo tràng phan bảo cái và đốt đèn dầu, hoặc chuyển đọc tôn kinh, hoặc cúng dường tượng Phật và các Thánh tượng, cho đến niệm danh hiệu của Phật, Bồ tát và Bích chi Phật... Những tội chướng như thế đều tiêu diệt”.
6.2.2. Tùy nghiệp thọ báo có ba loại: Tùy trọng, tùy tập, tùy Đức niệm
Người sắp mạng chung, cảnh giới hiện ra trước mặt không tốt, tội nghiệp lại nặng, nên rất dễ bị đọa lạc. Nếu thân thuộc cha mẹ anh chị em của họ vì họ mà làm phước, tu các công đức, đốt đèn treo phan, tụng kinh hoặc niệm danh hiệu của Phật và Bồ tát; những việc đó đều có thể khiến cho người sắp mạng chung tránh xa con đường nguy hiểm, đi vào con đường bình an ở phía trước. ơn giản hơn, như kinh Bổn nguyện, quyển hạ nói: “Người khi sắp mạng chung, chỉ cần nghe được một tiếng danh hiệu Bồ tát Địa Tạng lọt qua tai, thì chúng sinh đó vĩnh viễn không trải qua đau khổ của ba đường ác”. Người khi sắp mạng chung, nếu có thể nghe được danh tự của Bồ tát Địa Tạng, chỉ một danh hiệu Thánh trực tiếp đi vào tai của họ và biết đến Bồ tát Địa Tạng, người này vĩnh viễn không đọa vào ba đường ác chịu đau khổ. Nếu có thể vì người ấy bố thí, niệm kinh, phóng sinh, làm phước, thì ngưới ấy sẽ không bị đọa lạc.
Trong một đời, người ta tạo không biết bao nhiêu tội nghiệp, khi sắp mạng chung sẽ lãnh chịu quả báo của nghiệp thế nào? Có ba loại không giống nhau:
(1) Tùy theo nghiệp nặng (Tùy trọng): Ví như tạo năm tội Vô gián là nghiệp ác nhất, một khi chết lập tức đọa vào Địa ngục. Còn nếu như tu đắc thiền định cao nhất, định lực sâu dày, sau khi chết lập tức sinh vào cõi trời. Nghiệp đã tạo tuy nhiều nhưng căn cứ nghiệp nào có lực mạnh nhất để thọ sinh. Vìvậy nói: “Như người mắc nợ, người nợ nhiều nhất sẽ bị đòi trước”.
(2) Tùy theo sự huân tập (Tùy tập): Căn cứ thói quen thường ngày. Nghiệp không phải nặng lắm, nhưng thường ngày hay làm, lâu dài dần trở thành thói quen. Có nhiều người một đời không làm việc đại ác cũng không làm việc đại thiện nào cả, phải xem xét nghiệp ác mà họ huân tập nhiều lần thường ngày trong đời sống, nghiệp nào được huân tập nhiều nhất sẽ tùy theo đó mà thọ báo.
(3) Tùy theo kí Đức (Tùy Đức niệm): Chỉ cho thời khắc sau cùng, khi tâm họ nhớ nghĩ về nơi nào thì sẽ hướng vào chỗ đó để thọ sinh. Nếu tạo tội cực trọng đương nhiên thọ báo không thể xoay chuyển. Nếu không phải tội nặng, lúc sắp mạng chung, nên khuyên họ đừng chấp trước, nhìn thấu và buông bỏ; lấy những vật ngoài thân vì họ mà làm việc công đức bố thí. Tuy sinh mạng sắp mất nhưng chỉ cần họ vẫn còn biết bố thí làm phước, trong tâm không còn tham đắm, tâm cảnh rộng mở, thì tùy theo ý niệm này mà thọ sinh.
Hoặc khi sắp mạng chung, vì họ mà trợ niệm, khai thị hướng dẫn, khiến người bệnh nghe được danh hiệu Phật, trong tâm cũng theo đó mà niệm Phật. Giả sử người kia vốn có nguy hiểm phải bị đọa lạc mà biết được có người vì mình mà niệm Phật, tức thì phát khởi niệm thiện, hướng đến điều sáng suốt, nghe được danh hiệu Phật, trong tâm có cảm giác an toàn, thì có thể khiến người ấy được chuyển hóa từ trong ác đạo.
Vì vậy, bình thường có thể niệm Phật đương nhiên là tốt, nhưng sự trợ niệm cho người khi sắp mạng chung cũng là một việc vô cùng quan trọng. Điều đáng sợ nhất là ngay thời điểm then chốt mà phiền não nghiệp ác hiện tiền, niệm ác một khi đã khởi thì công đức của một đời tu hành đều trở thành vô nghĩa. Do đó, đối với người sắp mạng chung, quyến thuộc khóc lóc to tiếng sẽ khiến cho thần thức người ấy loạn động, đau khổ, dẫn đến bị đọa lạc. ây là sự yêu thương họ trở thành làm hại. Cho nên, điều quan trọng nhất phải làm cho tâm họ thật bình tĩnh, thanh tịnh, khởi tâm hoan hỉ. ặc biệt đối với người xan tham sẽ bị đọa vào cõi ngạ quỷ, nếu quyến thuộc vì họ mà bố thí tu phước, khiến người ấy khởi niệm buông xả, liền có thể được cứu thoát. Tạo tội nghiệp nặng không những không dễ thay đổi; ngay cả tu nghiệp cực thiện sinh lên cõi trời, như tu Vô Tưởng định nhất định sinh vào trời Vô Tưởng, nếu muốn khiến họ không sinh vào cõi trời này cũng không phải là điều dễ làm.
Tuy có ba loại này nhưng phương pháp cứu độ chính là dùng niệm thiện để chuyển hóa niệm ác, cần nắm chắc phương pháp ưu việt nhất là "tùy niệm‟. Phật pháp có phương tiện, có thể cứu thoát những chúng sinh sắp bị đọa Địa ngục và vùng phụ cận, nhưng quan trọng nhất vẫn là không nên tạo nghiệp cực ác.
6.3. Sự cứu tế sau khi mạng chung
6.3.1. Người đã mạng chung, trong vòng 49 ngày vì họ mà tu thiện làm phước
Người tạo nghiệp ác, khi sắp mạng chung, cảnh giới không tốt hiện ra trước mắt, liền vì họ mà làm phước, nhờ uy lực Tam bảo để cứu thoát họ. Nếu đã mạng chung, thì phải làm sao? Trong kinh nói: “Sau khi thân này chết đi, trong 49 ngày, làm nhiều việc thiện c ó thể khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn xa lìa cõi ác, được sinh lên cõi người cõi trời, thọ hưởng lạc thắng diệu” (kinh Bổn nguyện, quyển hạ). Nghĩa là trong 49 ngày, vì người chết mà tu phước, bố thí, niệm Phật để hồi hướng; khiến thần thức người ấy vĩnh viễn xa lìa thống khổ trong ba đường ác, sinh lên cõi người, cõi trời.
Vì sao phải trong 49 ngày vì họ mà làm các việc công đức?
Tín đồ Phật giáo Trung Quốc cho rằng bảy ngày là "một thất‟, 49 ngày gọi là "mãn thất‟. Vấn đề này cần giải thích thêm một chút. Khi thọ mạng, hơi ấm, thần thức của con người đã ra khỏi thân thể, đó gọi là chết. Nghĩa là khi thần kinh hoàn toàn ngừng hoạt động, hơi ấm trong thân thể không còn, mạng căn đoạn tuyệt, đó mới gọi là chết. Con người sau khi chết, có một số trường hợp thần thức lập tức đi tái sinh thọ quả báo, có một số phải trải qua một thời gian mới tái sinh thọ quả báo. Nếu tạo tội nặng thuộc n ă m nghiệp ác Vô gián, sau khi chết lập tức đọa vào Địa ngục; nghĩa là một niệm trước khi chết và một niệm ngay sau khi chết, tức khắc đọa Địa ngục, hoàn toàn không có một cự li của niệm trung gian, tức thìở trong Địa ngục Vô gián. Tái sinh lên cõi trời cũng như vậy, nếu tạo nghiệp cực thiện, ở trong niệm này người ấy chết đi thì ngay niệm sau tức thì sinh lên cõi trời. Nếu tái sinh vào cõi người, súc sinh, ngạ quỷ, đại đa số phải trải qua một khoảng thời gian. Lúc đó, tuy chết rồi nhưng thần thức tồn tại dưới dạng thân trung hữu. Sau khi con người chết, kế tiếp theo sẽ tái sinh vào cõi nào? Nếu tái sinh vẫn làm người hoặc súc sinh v.v., đại để là không lập tức thọ quả báo liền; khoảng thời gian kể từ sau khi chết cho đến tái sinh, gọi là giai đoạn thân trung hữu. ây là hình thái quá độ của thời kì quá độ. Thân trung hữu này cứ bảy ngày chết một lần, sau khi chết ngay trong niệm thứ hai lập tức lại tái sinh làm thân trung hữu khác. Sau khi chết, thần thức có thể trong ngày thứ nhất, ngày thứ hai đi tái sinh thọ quả báo đời sau; nhưng lâu nhất là trải quả 49 ngày, với bảy lần sống bảy lần chết, tức thì quyết định tái sinh. Nói cách khác, trong bảy thất này vẫn còn là giai đoạn quá độ, vẫn chưa chính thức tái sinh. Sau khi giai đoạn quá độ này kết thúc, nhất định phải tái sinh làm người, làm súc sinh, hoặc đọa lạc Địa ngục. Ngay khi nghiệp báo đời sau vẫn chưa hiện tiền (tức thời kì quá độ), cần tích cực làm các việc thiện. Nếu phải đọa vào đường súc sinh, trong thời gian thân trung hữu vẫn chưa thọ quả báo súc sinh, lúc này chúng ta nên vì họ tu thiện làm phước, vẫn có thể chuyển đổi nghiệp lực. Trong bảy tuần thất làm các việc thiện, không giới hạn ở tuần thứ nhất hay tuần thứ hai, mà trong 49 ngày đều có thể làm. Điều này cũng giống như có người ngồi xe từ Đài Bắc đến Cao Hùng; Cao Hùng là đích đến cuối cùng. Giả dụ có người muốn tìm họ, ở giữa đường là Đài Trung, hay Đài Nam, họ đều có thể xuống xe ở những trạm này, nhưng chuyển lần đến trạm Cao Hùng là đích cuối cùng. Trong 49 ngày vì người chết làm các việc Phật sự như tu phước, bố thí, niệm kinh, khiến người chết được chuyển đổi từ trong đường ác; giống như người kia giữa đường xuống xe. Nếu qua 49 ngày rồi, phải tùy nghiệp mà tái sinh thọ quả báo, không còn cách cứu vãn; giống như xe đã đến trạm cuối cùng, không còn cách nào khác.
6.3.2. Vì người chết tạo công đức: Người sống hưởng được sáu phần, người chết hưởng được một phần
Thời Phật còn tại thế, chủ yếu vì người bệnh và người chết mà bố thí làm phước, hoặc cúng dường Tam bảo, hoặc cứu giúp người khốn khổ v.v., để hồi hướng cho người chết. Phật giáo Trung Quốc bây giờ vì người chết làm việc công đức là điều rất phổ biến; gia chủ thỉnh mời người xuất gia tụng kinh, niệm Phật, lễ sám. Có một số người không có tâm chí thành tu phước hồi hướng cho người chết, mà xem đó như việc giao dịch làm ăn, tính bao nhiêu tiền cho một ngày một đêm, tất cả được thảo thuận thỏa đáng mới bắt đầu làm Phật sự. Như thế, việc dùng tiền thuê người tụng kinh chứng tỏ gia quyến không có chút tâm chí thành, đem tiền đến chùa nhưng không khởi tâm niệm bố thí thì cũng không nhận được phước quả của việc bố thí. Bố thí là một chuyện, mời người xuất gia để tụng kinh niệm Phật lại là một chuyện khác. Nếu dùng tiền để mời người tụng kinh thì đã làm mất đi ý nghĩa của việc bố thí. Việc tụng kinh niệm Phật để siêu độ cho người chết lưu hành ngày nay là do các vị tổ sư truyền lại, thật ra đây cũng là việc quan trọng cho đời người; nhưng vấn đề doanh nghiệp hóa trong các Phật sự đã làm mất đi ý nghĩa của phương tiện cứu bạt trong Phật pháp. Gia quyến vì người chết tụng kinh niệm Phật, công đức không hoàn toàn thuộc về người đã chết. Như kinh Bổn nguyện, quyển hạ nói: “Sau khi người mạng chung, quyến thuộc lớn nhỏ đều vì người kia tạo phước lợi. Tất cả Phật sự đó, trong bảy phần công đức, người chết chỉ hưởng được một, sáu phần công đức còn lại thuộc về người sống”. Lại nói: “Nên tư trợ thiết lập trai phạn cúng dường... Nếu làm trái với chay tịnh và không tinh khiết, người chết sẽ không được sự trợ giúp”. Vì người chết tụng kinh, làm Phật sự, mà tạo được công đức; trong công đức đó, người sống hưởng được nhiều, đến sáu phần; còn người chết thì rất ít, chỉ một phần. Nếu sau khi người mạng chung, vì họ làm các việc công đức như bố thí, tạo phước, tụng kinh, niệm Phật; người làm hưởng được sáu phần, người chết chỉ một phần công đức. Vì thế, kinh Địa Tạng nói: “Kẻ còn người mất đều được lợi”. Nếu người xuất gia vì mọi người làm Phật sự, chí thành khẩn thiết, tự mình cũng được công đức. Có thể hiện tại, nhiều người xuất gia vì người tụng kinh hay làm việc Phật sự, dường như không xem việc làm này chính là sự tu tập. Nếu khi làm Phật sự mà không thể chí thành cung kính, không tập trung tâm ý, không xem đó là phương tiện để tu tập; thì người chết đã không được lợi lạc, mà bản thân người làm cũng không có chút công đức, chẳng qua chỉ là một ngày kiếm được mấy đồng bạc mà thôi.
6.3.3. Gia quyến người chết nên chí thành giữ trai giới, theo chúng Tăng tụng kinh lễ sám, việc siêu độ mới có tác dụng
Trước khi người chưa chết, nên vì người ấy tụng kinh, niệm Phật, nhờ oai lực của Tam bảo khiến tâm người ấy phát khởi sự hoan hỉ, sinh tâm cung kính, do vậy dễ cứu độ. Mãi đến sau khi chết, trong 49 ngày, vì họ làm công đức để hồi hướng cầu siêu, điều thiết yếu là gia quyến cần phải chí thành. Sự chí thành của người tụng kinh lễ sám mới có thể phát sinh diệu dụng. Vì vậy trong kinh Địa Tạng đặc biệt đề cập đến hai vấn đề này. Thỉnh mời Tăng chúng tụng kinh hồi hướng cho người chết, việc này trong kinh gọi l à : “Doanh trai tư trợ”. Ở Ấn ộ, "doanh trai‟ tức là cúng dường Phật và Tăng. Ở Trung Quốc, đây là thỉnh mời người xuất gia tụng kinh bái sám, thiết trai cúng dường, đem công đức này hồi hướng cho người chết. Nếu trai chủ sát sinh ăn thịt, hoặc Tăng chúng làm việc Phật sự nhưng không tinh tấn, thì người chết không thể nhận được lợi ích.
Vì vậy trước hết, chính những người trong gia quyến phải đem hết tâm thành khẩn, tâm thanh tịnh, tự mình nên ăn chay, khởi niềm tin đối với Tam bảo, thì việc làm mới có hiệu quả. Có một số người, sau khi ông bà hay cha mẹ qua đời, cũng thỉnh mời vị xuất gia đến niệm kinh, nhưng dường như việc này chẳng liên quan gì đến họ. Mặc kệ vị xuất gia cứ tụng kinh, còn người trong gia quyến lại đi chiêu đãi khách khứa, uống rượu, đánh bài, chơi nhạc, làm ồn ào náo loạn. Cách cầu siêu cho hương linh như thế, trai chủ đối với các vị xuất gia không có chút lòng cung kính, chẳng khác gì thuê người làm việc; tiền bỏ lo tang, chỉ làm cho nhộn nhịp và đẹp lòng thiên hạ mà thôi, đối với người chết chẳng có ích lợi gì. Điều thật sự cần thiết là con cái quyến thuộc của người chết nên hết sức tinh tấn chí thành, kính ngưỡng Tam bảo, thỉnh mời Tăng sĩ dẫn dắt niệm kinh lễ sám. Tuyệt đối không được nghĩ rằng tôi trả tiền cho thầy, thầy phải tụng kinh cho tôi; mà tự mình phải hết lòng chí thành theo Tăng chúng lễ bái sám hối, nhờ thần lực Tam bảo mới cứu độ siêu bạt vong linh, khiến cho người chết nếu đã tạo nhân duyên đọa lạc sẽ được thoát sinh lên cõi người, cõi trời. Người tụng kinh Địa Tạng thì rất nhiều, mọi người nên biết và chú ý đến những vấn đề này.
Công đức cần phải làm trong bảy tuần thất, vì sao vậy? Bởi vì: “Trong bảy tuần thất, vong linh trong niệm niệm không gián đoạn, luôn trông ngóng người thân quyến thuộc tạo phước để được cứu thoát. Qua 49 ngày này, vong linh tùy nghiệp thọ báo” (kinh Bổn nguyện, quyển hạ). Ở đây, nói bảy tuần thất, trên thực tế không nhất định là bảy tuần thất, có người đi tái sinh trong tuần thất thứ nhất, có người đi tái sinh trong tuần thất thứ hai hoặc thứ ba, tối đa là bảy tuần thất sẽ đi thọ quả báo. Do đó trong bảy tuần thất, người chết trong niệm niệm liên tục trông chờ quyến thuộc vì họ mà cầu nguyện Tam bảo gia hộ, vì họ mà làm nhiều phước thiện, để họ dù đang ở biên giới của sự đọa lạc cũng có cơ hội được chuyển đổi sang cõi lành. Thần thức của người chết trong thời điểm ấy đang trụ trong thân trung hữu, tự họ không có khả năng, không thể làm chủ, chỉ mong chờ quyến thuộc vì họ mà cầu siêu bạt độ. Nếu quá bảy tuần thất mà không người cứu bạt, thần thức chỉ biết tùy nghiệp tái sinh chịu khổ trong ba đường ác. Như đi tàu lửa đã đến trạm cuối không thể không xuống xe. Cho nên, người sau khi chết, trong vòng 49 ngày nên vì họ mà cầu siêu bạt độ. Cũng giống như người thế tục khi phạm vào luật hình sự có thể mời luật sư bào chữa; nếu đợi đến khi có sự phán quyết cuối cùng thì không còn cách nào thay đổi được nữa.
6.4. Sự cứu độ người đã bị đọa lạc
Đương nhiên tốt nhất tự mình không làm các việc ác, sẽ không bị đọa lạc. Nếu đã tạo nghiệp ác rồi, trước lúc chưa chết, vẫn còn có cơ hội làm các công đức, bố thí tạo phước. Nếu sau khi chết, trong vòng 49 ngày, nên vì người chết mà tạo công đức hồi hướng cứu vớt họ. Nếu chết đã qua 49 ngày, thần thức phải tùy nghiệp thọ báo, vậy còn có cách cứu độ nào không? Việc này nếu không phải người có đại lực thì không thể làm được; giống như sau khi đã có phán quyết cuối cùng, không phải trường hợp đặc xá thì không thể thoát cảnh tù tội.
6.4.1. Dùng tâm hiếu chí thành và công đức niệm Phật cứu vớt chúng sinh đã bị đọa trong đường ác
Làm sao để cứu giúp những chúng sinh đã bị đọa trong đường ác? Điều này nên do tâm chí hiếu của con cái người chết mà cứu độ. Dựa vào chuyện của Bồ tát Địa Tạng trong đời quá khứ được đề cập trong kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện, chúng ta có thể biết phương cách cứu độ người đã bị đọa lạc; tuy đọa vào Địa ngục nhưng vẫn có thể cứu thoát. Trong kinh Địa Tạng nhắc đến hai sự việc: một là sự việc của nữ Bà la môn, hai là sự việc của người nữ tên Quang Mục; đây đều là chuyện của Bồ tát Địa Tạng trong quá khứ.
Thứ nhất, Bồ tát Địa Tạng, trong quá khứ, khi làm người nữ Bà la môn, mẫu thân cô vì không tin Tam bảo, tu tập theo tà kiến, sau khi chết bị đọa vào Địa ngục chịu đau khổ. Nữ Bà la môn này biết mẫu thân lúc sinh tiền không tin Tam bảo, tu tập tà kiến, chắc chắn sẽ bị đọa vào Địa ngục; liền vì mẹ mà bố thí tu phước, thấy tượng Phật liền cung kính lễ bái. Cô đau buồn khóc than rằng: Phật đã sớm vào Niết bàn, nếu Ngài còn trụ ở thế gian, có thể thỉnh hỏi Đức Phật rằng mẫu thân cô rốt cuộc sinh vào chỗ nào? Tâm tư nàng quá đau buồn. Lúc đó, hình như có một thanh âm nói với nữ Bà la môn, bảo nàng đừng buồn rầu, chỉ cần một lòng xưng niệm danh hiệu của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai (danh hiệu của Đức Phật đã diệt độ) liền biết được chỗ thác sinh của người mẹ. Nữ Bà la môn này liền chí thành cung kính, loại bỏ tạp niệm, nhất tâm xưng danh hiệu Phật. Không lâu sau, nàng ở trong định lực đến được Địa ngục, hỏi ngục tốt mẹ cô đang ở nơi nào? Ngục tốt trả lời: “Người mẹ đã mất kia có con gái với lòng hiếu thảo, vì mẹ mà bố thí tu phước, trì niệm danh hiệu Phật; nhờ công đức này, bà mẹ thoát khỏi Địa ngục, sinh lên cõi trời rồi”. Thông qua câu chuyện này, chúng ta biết được tâm chí hiếu và công đức niệm Phật, kết hợp hai sức mạnh này tạo sự cảm ứng, nhờ đó tội nhân dù đã đọa vào Địa ngục cũng có thể được cứu thoát. Thứ hai, là người nữ Quang Mục, cũng là người nữ chí hiếu mà Bồ tát Địa Tạng thị hiện ở trong quá khứ. Mẹ nàng lúc còn sống thích ăn cá con, phạm vào tội sát sinh cực nặng. Quang Mục biết mẹ sau khi chết tất sẽ đọa vào đường ác, do đó xin A la hán nhập định quan sát mới biết người mẹ quả nhiên sinh vào Địa ngục. Sau đó, nàng nhất tâm niệm Phật, cung kính cúng dường, nhờ sức chí thành hiếu kính mà cứu mẫu thân thoát khỏi cảnh khổ Địa ngục. Căn cứ vào hai câu chuyện trên, có thể biết chúng sinh tuy đã đọa vào Địa ngục, chỉ cần con cái có hiếu tâm chí thành, cộng thêm sự thành tâm cung kính niệm Phật; vì cha mẹ và con cái có mối quan hệ huyết thống, nhờ uy đức thần lực của Tam bảo, có thể khiến cho cha mẹ được giải thoát. Lòng từ bi cứu độ của người bình thường tuy cũng có sự cảm ứng, nhưng cha mẹ và con cái là tình thân cốt nhục, nhất định người con có sự chí thành khẩn thiết sâu sắc hơn, sẽ tạo nên sức cảm ứng vô cùng lớn, nhờ vậy cha mẹ dễ được cứu thoát.
6.4.2. Thỉnh mời người niệm Phật tụng kinh không bằng khi đang sống tự mình tu tập
Trong khi vì người chết niệm kinh lễ sám, ta cần phải xem như mình làm công đức, thì mới có hiệu quả. Như trong kinh nói: Người niệm kinh hưởng đến sáu phần trong bảy phần công đức, người chết chỉ hưởng được một phần trong bảy phần. Cho 211 nên, thỉnh mời người niệm Phật, tụng kinh, không bằng khi đang sống tự mình nỗ lực tu tập. Vì vậy, khi thân thể còn khỏe mạnh, tự mình siêng năng niệm Phật, siêng tu phước đức, thì không sợ sự nguy hiểm đọa lạc. Nếu đã chết, thần thức đang ở thân trung hữu, tất nhiên cần đến quyến thuộc vì họ mà tu phước bố thí để cứu thoát họ. Nếu đã bị đọa lạc, đương nhiên rất khó cứu thoát, duy chỉ có sự chí thành khẩn thiết của quyến thuộc mới có thể cứu thoát họ. Bồ tát Địa Tạng dùng nguyện đại bi ở trong đời ác năm trược khai thị pháp môn này, cung cấp phương tiện cứu độ tất cả chúng sinh trong đường ác. Trong bối cảnh Phật giáo Trung Quốc hiện nay, việc siêu độ tổ tiên quyến thuộc là việc vô cùng phổ biến; hi vọng mọi người đều có thể hiểu được ý nghĩa chân thật của pháp môn này, chân thật đạt được công đức, đó mới là tốt (Năng độ kí).
Dân Quốc năm thứ 52, tiết Trung Nguyên, giảng tại Huệ Nhật giảng đường, phần Phật pháp thị cứu thế chi quang, trang 61 63.