Home > Khai Thị Phật Học > Thien-Thu-33-Hoa-Huong
Thiên Thứ 33: Hoa Hương
Sa Môn Thích Đạo Thế chùa Tây Minh biên soạn | Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản, Việt Dịch


Thiên này có hai phần: Thuật ý và Dẫn chứng.

Thứ nhất PHẦN THUẬT Ý

Cung kính tìm lại dấu tích đức Phật Thích Ca giáng thần nơi thành Ca tỳ la vệ thác chất tại vương cung, trí thật sự sanh ra hiểu biết đạo chỉ có giác ngộ khắp nơi, phát triển vầng sáng trí tuệ cho trăm ức chúng sinh, rưới xuống cơn mưa giáo pháp khắp Đại thiên thế giới, hình tượng ứng hoàn bị khắp mười phương quốc độ tháp đài quý báu xuất hiện kháp pháp giới hằng sa; hương kỳ lạ lan tỏa ngào ngạt, tựa như mây bồng bềnh, mà tỏa ra sương mù, hoa quý báu chứa đầy vẻ đẹp, dường như ngó sen ngược mà nở rộ đóa sen. Thành kính cúng dường cùng hướng về pháp hội, cúi đầu khoảnh khắc đều thấm nhuần phước lợi.

Thứ hai PHẦN DẪN CHỨNG

Như kinh Phật thuyết Hoa Tụ Đà La Ni nói: Đức Phật dạy: Nếu lại có người vào sau khi Như lai diệt độ, đi trên đường vắng vẻ trông thấy tháp miếu thờ phụng Như lai, có thể mang một đóa hoa một ngọn đèn, hoặc một nắm bùn xoa trước hình tượng, lấy đó làm vật cúng dường; thậm chí có thể cầm một đồng tiền bố thí cho tượng Phật, để sửa chữa lúc hư hoại; hoặc lấy một vốc nước dùng để vẩy nơi tháp Phật trừ khử bất tịnh, dùng hương hoa cúng dường; một bước đưa chân đến nơi chùa tháp, hoặc xưng niệm một tiếng Nam Mô Phật. Muốn khiến cho người này rơi vào đường ác, thì trăm ngàn vạn kiếp rốt cuộc không có điều này xảy ra.

Lại trong kinh Chánh Pháp Niệm nói: Nếu có chúng sinh mang hương hoa trên tháp Phật thì mang chúng sinh đến cõi Trời Hương Lạc, cùng với các Thiên nữ thường vui vẻ chơi đùa bên nhau, từ cõi Trời mạng chung được thọ nhận thân người, sanh trong gia đình giàu có cao quý.

Còn trong kinh A xà thế Vương nói: Vô lượng kiếp quá khứ có đức Phật danh hiệu Nhất Thiết Độ, cùng với quyến thuộc của mình đều đi khất thực. Có ba người con của Trưởng giả áo quần nghiêm trang chơi đùa với nhau, trông thấy đức Phật và các vị Bồ tát sáng ngời uy nghiêm vô cùng, chỉ cho nhau thấy mà nói rằng chúng ta nên cùng nhau cúng dường. Hai đứa trẻ đáp rằng: đã không có hương hoa thì nên dùng vật gì? Một đứa trẻ lớn nhất cởi ngọc trắng trên đầu đem đặt trong tay, nhân tiện nói với hai đứa trẻ rằng: Có thể cúng dường đức Phật. Hai đứa trẻ làm theo, cởi ngọc trắng trên đầu cầm trong tay mình, liền đến nơi đức Phật. Đứa trẻ lớn nhất lại hỏi hai đứa trẻ: Giữ Công đức này để cầu mong điều gì? Một đứa trẻ nói: Nguyện được như vị Tỳ kheo phía bên phải đức Phật. Một đứa trẻ con: Nguyện được như vị Tỳ kheo thần túc phía bên trái đức Phật. Hai đứa trẻ cùng hỏi đứa trẻ lớn nhất, trả lời rằng: Anh muốn giống như đức Phật. Tám ngàn vị thiên tử đều nói: Tốt lành thay, tốt lành thay! Nếu như lời đã nói, thì trên Trời dưới đất tất cả đều được nhờ ân huệ. Lúc ấy cả ba đứa trẻ đã đến trước đức Phật, đều dùng ngọc trắng mà rải trên đức Phật. Hai đứa trẻ phát tâm Thanh văn, thì ngọc nằm trên vai đức Phật. Đứa trẻ lớn nhất phát tâm Bồ đề, thì ngọc ở trên đỉnh đầu đức Phật, hóa làm bức rèm ngọc kết hoa sáng ngời, trong đó có đức Phật. Đức Phật bảo với Xá lợi phất: Đứa trẻ lớn nhất lúc ấy chính lá thân Ta bây giớ, đứa trẻ phía bên phải lúc ấy chính là Xá lợi phất bây giờ, đứa trẻ phía bên trái lúc ấy chính là Mục kiền liên bây giờ. Bởi vì các ông vốn sợ sanh tử, cho nên không phát tâm Bồ đề, chỉ mong mau đến Niết bàn. Quán xét đứa trẻ lớn nhất này phát tâm A nậu Bồ đề cho nên thành Phật.

Lại trong kinh Thái Hoa Thọ Quyết nói: Lúc ấy có Quốc vương La Duyệt, khiến hơn mười người thường xuyên hái các loại hoa đẹp để cung cấp cho Vương gia. Quý nhân trong hậu cung một hôm ra ngoài thành hái hoa, gặp được đức Phật nên phát tâm cúi đầu làm lễ, tâm tự nghĩ rằng: Thà bỏ thân mạng lấy hoa dâng lên đức Phật và rải trên Thánh chúng, cho dù gặp phải tai họa cũng không rơi vào đau khổ. Bèn lấy hoa rải trên đức Phật và Thánh chúng, lại tự mình quy mạng nhất tâm lễ lạy thiết tha, đức Phật biết rõ tâm niệm ấy, ngài rất thương yêu mà thuyết pháp cho tất cả, những người hái hoa đều phát tâm đạo. Đức Phật liền thọ ký quyết định sau này sẽ được thành Phật, danh hiệu là Diệu Hoa. Lúc ấy người hái hoa quay về trong nhà Từ biệt với cha mẹ rằng: nay con mạng sống đã hết sẽ bị nhà vua giết hại. Cha mẹ ngạc nhiên hỏi vì tội lỗi gì, người ấy trả lời đầy đủ về nguyên nhân, vì không có hoa dâng lên nhà vua thì ắt phải gặp nguy hiểm đến tính mạng, cho nên Từ biệt mà thôi. Cha mẹ nghe xong, càng thêm lo buồn, mở giỏ nhìn xem thì thấy hoa đẹp đầy trong giỏ, mùi thơm sực nức khắp nơi, cha mẹ nói cho biết rằng: có thể dâng lên nhà vua lúc ấy nhà vua rất giận dữ vì thấy đến không đúng giờ, người mang hoa đến lại nhận tội là đáng bỏ thây nơi chợ, đi vào trong cung gặp nhà vua mà sắc mặt không thay đổi. Nhà vua cảm thấy kỳ lạ bèn hỏi: Các người tội nặng mạng sống sẽ không còn, tại sao không sợ hãi? Liền thưa với nhà vua rằng: Con người sinh ra thì có chết đi, vạn vật thành tựu thì có hủy hoại, không đều phi pháp thì không tiếc thân mạng, sáng nay đi hái hoa được gặp đức Phật nên dùng hoa dâng cúng, vì biết làm trái lệnh vua thì tội phải chết, thà rằng vì có đức mà chết, chứ không vì vô đức mà sống trở về nhìn thấy giỏ hoa lại đầy như cũ, đều là nhờ ân đức nhân ái của đức Như lai đã che chở! Nhà vua rất ngạc nhiên, nhưng tâm không tin như vậy, cho nên đến nơi đức Phật thưa hỏi đức Phật về ý này. Đức Phật dạy: Thật sự như vậy, người này chí tâm muốn cứu độ mười phương chúng sinh mà không tiếc gì thân mạng, cho nên lấy các loại hoa để rải cúng trên đức Phật, ý không nghĩ đến phước báo vì thế được thọ ký quyết định, tương lai thành Phật danh hiệu là Diệu Hoa. Nhà vua vô cùng hoan hỷ cởi bỏ mọi vướng mắc hối hận về sai lầm của mình, tự trách ý ngu si không bằng hàng Bồ tát, chỉ mong tha thứ cho tội lỗi ấy. Đức Phật dạy: Tốt lành thay! Người có năng lực tự sửa đổi mình thì giống như không có lỗi lầm gì.

Lại trong kinh Bách Duyên nói: Đức Phật an trú trong Tinh xá Kỳ hoàn thuộc khu vườn Kỳ thọ cấp cô độc ở nước Xá vệ. Lúc bấy giờ Đức Thế tôn cùng các Tỳ kheo, khoác y ôm bát, theo thứ tự đi khất thực. Đến trong môt ngõ xóm, có một người phụ nữ ôm một đứa trẻ, đang ngồi bên vệ đường. Lúc ấy đứa trẻ kia trông thấy Đức Thế tôn thì tâm tư rất hoan hỷ, lấy đóa hoa từ người mẹ, người mẹ liền mua hoa cho con. Đứa trẻ có được hoa rồi, mang đến nơi đức Phật tung hoa trên đức Phật, ở giữa hư không biến thành tán hoa theo đức Phật đi lại để che mát. Đứa trẻ trông thấy rồi, lòng vô cùng hoan hỷ, phát thệ nguyện to lớn dùng công đức thiện căn cúng dường này, khiến cho con ở đời sau được thành tựu chánh giác, hóa độ chúng sinh giống như đức Phật không khác. Bấy giờ Đức Thế tôn thấy đứa trẻ này phát nguyện như vậy rồi, đức Phật liền mỉm cười, từ khuôn mặt Ngài phát ra ánh sáng năm màu, vòng quanh đức Phật ba vòng trờ lại đi vào từ trên đỉnh đầu. Lúc bấy giờ A nan tiến lên thưa với đức Phật rằng: Như lai tôn trọng không vô cớ mỉm cười, vì nhân duyên gì hôm nay Đức Thế tôn mỉm cười? Chỉ nguyện Đức Thế Tôn giải thích cho con được biết! Đức Phật bảo với A nan: Nay ông thấy đứa trẻ này dùng hoa tung lên, nguyện cầu mình ở đời vị lai không rơi vào đường ác, trong loài người hay trên cõi Trời thường thọ nhận vui sướng, trải qua ba A tăng kỳ kiếp thành vị Bích chi Phật, hiệu là Hoa Thạch, hóa độ nhiều chúng sinh không thể hạn lượng, vì vậy Ta mỉm cười mà thôi. Lúc ấy các Tỳ kheo, nghe những lời đức Phật đã dạy đều hoan hỷ vâng mạng thực hành.

Lại trong kinh Bách Duyên nói: Đức Phật an trú trong Tinh xá Kỳ hoàn thuộc khu vườn Kỳ thọ Cấp cô độc ở nước Xá vệ. Bấy giờ hào phú Trưởng giả trong thành ấy, đều cùng nhau tụ tập đến trước dòng suối, đàn ca xướng hát mà tự vui đùa tiêu khiển với nhau, tổ chức lễ hội Hoa Man cho nước Ba la nại. Lúc ấy trong lễ hội đó cửa ra một người, đi đến khu rừng hái hoa Ba la nại làm tóc đẹp mượt mà, lúc người hái hoa trở về lại nơi lễ hội, giữa đường gặp Đức Thế tôn tướng tốt sáng ngời, chiếu rọi khắp nơi giống như trăm ngàn mặt Trời, tâm tư rất hoan hỷ tiến lên lễ lạy chân Phật, lấy hoa đã hái tung lên đức Phật mà đi, trở lại trước cây để hái hoa, cành gãy rơi xuống mà chết, mạng chung sanh lên cõi Trời Đao lợi, đoan chánh xinh đẹp vô cùng, dùng hoa Ba la nại mà làm cung điện. Đế Thích hỏi rằng: Người ở nơi nào tu đạo phước nghiệp gì mà sanh đến này? Bèn đem nhân duyên vốn có trả lời đầy đủ với Đế Thích, lúc bấy giờ Đế Thích dùng kệ khen ngợi rằng:

Thân hình màu sắc như vàng ròng, Chiếu rọi sáng ngời đẹp biết bao Dung nhan tướng mạo thật đoan chánh, Thù thắng nhất giữa những người Trời.

Lúc ấy Thiên tử liền nói kệ trả lời Đế Thích rằng: Tôi được nhờ ân đứa của Phật,

Dùng hoa Ba la nại cúng dường
Nhờ vào nhân duyên tốt lành này,
Hôm nay được quả báo như vậy.

Bấy giờ Thiên tử bèn cùng với Đế Thích đi đến nơi đức Phật, đức Phật vì họ thuyết pháp làm cho tâm ý thấu hiểu thông suốt, phá trừ hai mươi ức nghiệp chướng tà kiến, đạt đến quả vị Tu đà hoàn, tâm tư vui mừng liền ở trước đức Phật nói kệ ca ngợi đức Phật:

Đức Thế tôn uy nghiêm sừng sững,
Tuyệt vời nhất không có ai bằng
Cha mẹ và thầy dạy cao sâu,
Công đức không có ai sánh kịp
Cạn hết nước trong bốn biển lớn,
Vượt lên núi xương trắng cao ngất
Đóng chặt cánh cửa ba đường ác,
Luôn luôn mở thông lối vào ba thiện.

Lại trong kinh Tạp bảo Tạng nói: bấy giờ Thiên nữ nói kệ rằng:

Xưa tôi dùng hoa đẹp mượt mà,
Cúng dường tháp thờ Phật Ca diếp
Hôm nay sanh ở trên cõi Trời,
Đạt được công đức thù thắng này
Sanh ra ở trong các cõi Trời,
Phước báo được thân sắc vàng ròng.

Lại trong Tát bà đa Luận nói: Nếu là nơi của Tứ phương Tăng thì không được làm tháp, vì Phật pháp tự mình gieo trồng nhân duyên. Nếu như Tăng hòa hợp thì được, Tăng không hòa hợp thì không được làm. Nếu đất của Tăng có các loại hoa, nên để cho người thanh tịnh chọn lấy, theo thứ tự cùng với Tăng tùy ý cung cấp, không được lấy riêng tự mình cúng dường Tam bảo. Nếu như hoa nhiều Tăng lấy không hết, nếu Tăng hoà hợp thì tùy ý lấy dùng. Nếu trong Tăng phòng thì không được dựng tháp làm tượng, bởi vì gần người thì ô uế dơ bẩn không thanh tịnh. Nếu là nhà có tầng gác chồng chất, nếu kinh tượng ở tầng dưới, thì không được ở tầng trên. Nếu hoa ở trong đất tháp thì không được cúng dường Tăng pháp, hợp với phép tắc chỉ nên cúng dường Phật. Hoa này cũng được bán lấy tiền để chi dụng cúng dường tháp. Nếu người là nước trong tháp thì dùng để cung cấp cho tháp, giả sử có dùng còn thừa nếu là người dồn hết công sức cho tháp, thì nên bán nước này lấy tiền thuộc về tháp, không được dùng vào việc khác, sử dụng thì tính theo số tiền xâm phạm. Nếu trong tháp không có người dồn hết công sức quản lý nước, tất cả do Tăng sắp xếp thì nước còn thừa lại bao nhiêu, dễ dàng tính toán tùy theo số lượng mà sử dụng thích hợp.

Lại trong kinh Văn thù Vấn nói: Bấy giờ Văn thù sư lợi thưa với đức Phật rằng: Thưa Đức Thế tôn! Các loại hoa cúng dường còn lại dùng để chữa trị căn bệnh, phương pháp ấy thế nào? Đức Phật bảo với Văn thù: Hoa chú nguyện 108 biến khác nhau.

Hoa cúng dường Phật, tụng chú rằng: Nam mô Phật thát tả trị sa ha

Hoa cúng dường Bát nhã Ba la mật, chú rằng:

Na mạt kha lô lữ Bát nhã Ba la mật đa thương sa ha.

Hoa cúng dường chân Phật, chú rằng:

Na mạc ba đà chế điểm đam diên sa ha. Hoa cúng dường cây Bồ đề chú rằng:

Nam mô Bồ đề bức lực khám lam sa ha
Hoa cúng dường nơi chuyển pháp luân, chú rằng:
Nam mô đạt ma chước kha la dạ sa ha.
Hoa cúng dường tháp, chú rằng.
Na mạc du bạt da sa ha.
Hoa cúng dường Bồ tát, chú rằng:
Nam mô Bồ đề tát đỏa dã sa ha.
Hoa cúng dường chúng Tăng, chú rằng:
Na mạc Tăng già dã sa ha.
Hoa cúng dường hình tượng Phật, chú rằng:
Na mạc ba la để da sa ha.

Đức Phật bảo với Văn thù sư lợi: Dùng hoa này, nếu như bốn chúng luôn luôn tin tưởng tu hành, thì nên vào lúc sáng sớm tắm gội súc miệng sạch sẽ niệm công đức của Phật, cung kính hoa này không dùng chân giẫm đạp và bước qua trên hoa, như pháp cầm lấy đặt vào sạch sẽ. Nếu người mắc bệnh sốt rét sốt nóng trán đau, đều lấy nước lạnh mài vụn hoa dùng để xoa trên thân thể. Nếu bị kiết lỵ đi ra máu, hoặc trong bụng đau đớn khó chịu, lấy nước uống mài vụn hoa, nên chịu khó uống hoa này. Nếu miệng có lở loét thì lấy nước ấm mài vụn hoa ngậm, chất lỏng hoa này. Nếu Trời mưa không dứt, ở nơi trống trải lấy lửa đốt hoa, khiến cho mưa lập tức ngưng lại. Nếu Trời hạn hán thì ở nơi vắng vẻ, lấy hoa bỏ vào trong nước, lại chú nguyện nước lạnh tiếp tục vẩy lên trên hoa, Trời sẽ tuôn mưa. Nếu các loại trâu ngựa, bản tánh không thuần phục thì lấy hoa cho ăn, sẽ dễ dàng điều phục. Nếu các loại cây ăn quả hoa trái không sum sê, lấy nước lạnh và phân trâu mài vụn đem trộn lẫn với chất lỏng của hoa để tưới vào gốc cây, không được chà đạp thì hoa trái sẽ nhiều. Nếu trong ruộng nhiều nước làm cho mầm mạ hư hại, giã hoa cho vạn để rải vào trong ruộng, thì được sinh trưởng tốt tươi. Nếu trong quốc gia có tật bệnh nguy hại thì lấy nước lạnh mài vụn hoa, xoa lên các loại trống kèn, đánh thổi pháp ra tiếng vang, người nghe thấy sẽ khỏi bệnh. Nếu quốc gia đối địch giặc thù muốn đến xâm lấn lãnh thổ, lấy nước mài vụn hoa đem đến nơi ấy, dùng để vẩy ra khắp nơi thì nhất định sẽ rút lui. Nếu ở các núi cao có tảng đá lớn, rất nhiều Tỳ kheo ở trên đá mài vụn hoa, mài hoa đã xong cùng nhau lễ lạy, lâu sau trên đá tự nhiên sinh ra châu báu. (Lược thuật tóm tắc như vậy, còn lại rất nhiều y theo kinh). Đức Phật bảo với Văn thù: Mỗi một câu chú tụng đủ một trăm lẻ tám biến, chương cú thần chú này ông hướng đến mọi nơi nên giải thích như pháp dùng hoa cúng dường Phật, hoa cúng dường nơi khác cũng như vậy.

Lại trong kinh Hoa Nghiêm nói: Xưa trong người có hương thơm tên gọi Đại Tượng Tạng, bởi vì đánh nhau với loài Rồng mà phát ra. Nếu đốt một viên thì xuất hiện ánh sáng lớn, có vầng mây nhỏ che phía trên, mùi vị giống như cam lộ, bảy ngày bảy đêm rưới xuống làn mưa mùi nước thơm ngát. Nếu chạm vào thân thì thân có sắc vàng sáng rực; nếu chạm vào áo quần cung điện lầu đài, thì cũng đều có sắc vàng rực rỡ. Nếu có chúng sinh được ngửi thấy mùi hương này, thì trong bảy ngày bảy đêm hoan hỷ vui cười, diệt trừ tất cả bệnh tật không còn oan ức thô bạo, tâm xa lìa sợ hãi nguy hại, chỉ hướng về đại Từ nghĩ đến tất cả chúng sinh. Mình biết điều ấy rồi nên vì mọi người thuyết pháp, khiến cho vô lượng chúng sinh được bất thối chuyển. Còn Ngưu đầu Chiên Đàn từ núi Ly Cấu Sinh ra, nếu lấy xoa vào thân thì lửa không thể đốt cháy.

Còn trong kinh Bách Duyên nói: Xưa thời Phật còn tại thế, trong thành Ca tỳ la vệ có một Trưởng giả, nhà đó rất giàu có, tiền của châu báu vô lượng, không thể tính kể được, sanh ra một bé trai, dung mạo đoan chánh ít có ở thế gian, các lổ chân lông nơi thân thể phát ra mùi hương Chiên Đàn, từ miệng cậu bé tỏa ra mùi hương của hoa Ưu Bát. Cha mẹ thấy con mà hoan hỷ vô lượng, nhân đó đặt tên cho con là Chiên Đàn Hương. Tuổi dần lớn lên, cầu Phật xuất gia đạt được quả vị A la hán. Tỳ kheo thấy rồi bèn thưa với đức Phật rằng: Chiên Đàn Hương này, đời trước gieo trồng phước thiện gì mà sanh trong dòng dõi tôn quý, thân miệng tỏa ra mùi hương, lại được gặp Đức Thế tôn xuất gia đắc đạo? Đức Phật bảo với Tỳ kheo: Trong chín mươi mốt kiếp quá khứ trước kia, sau khi đức Phật Tỳ bà thi nhập Niết bàn, lúc ấy có vị vua tên gọi Bàn đầu Mạt đế, thâu nhận Xá lợi phất của Phật xây dựng tòa tháp bằng bốn thứ báu, cao một do tuần mà thường xuyên cúng dường. Lúc ấy có vị Trưởng giả đi vào trong tháp Phật, thấy đất rơi rụng hư hoại bèn nhào bùn đất xoa lên sửa sang lại, dùng hương chiên đàn vẩy lên trên tháp, phát nguyện rồi mà đi. Nhờ công đức này, từ lúc ấy đến nay trải qua chín mươi mốt kiếp, không rơi vào đường ác, sanh trong loài người hay trên cõi Trời thân miệng thường tỏa mùi hương, hưởng phước vui sướng, cho đến bây giờ mới gặp được ta nên cầu xin xuất gia đạt được đạo quả.

Lại trong Đại Trang nghiêm Luận nói: Đức Phật dạy: Xưa Ta từng nghe, thời đức Phật Ca diếp có một Pháp sư thuyết pháp cho mọi người, ở giữa đại chúng ca ngợi đức Phật Ca diếp, nhờ duyên này cho nên mạng chung sanh lên lõi Trời người thường được vui sướng. Vào một trăm năm sau khi đức Thích Ca văn Phật nhận Niết bàn, lúc A du ca Vương, làm Đại Pháp Sư, đạt được quả vị A la hán, thường có mùi hương kỳ lạ tỏa ra từ miệng mình. Lúc ấy vị Đại Pháp sư cách nhà vua không xa đang thuyết pháp cho mọi người, mùi hương trong miệnglan tỏa đến nơi nhà vua, nhà vua ngửi thấy mùi hương trong tâm sinh ra nghi hoặc, dấy lên tư duy rằng: Tỳ kheo ấy vì hoa hương thơm kỳ lạ ngậm vào trong miệng chăng, mùi hương mới như vậy! Dấy lên ý nghĩ này rồi, nói với Tỳ kheo rằng: Mở miệng súc miệng còn có mùi hương chăng? Tỳ kheo nói với nhà vua: Vì sao nói tôi há miệng súc miệng? Lúc ấy nhà vua đáp rằng: Bởi vì ta ngửi thấy mùi hương trong tâm sinh ra nghi ngờ, cho nên khiến há miệng và súc miệng. Mùi hương càng ngào ngạt, chỉ có mùi hương trong miệng Tỳ kheo này, Tỳ kheo khác không thể có được. Nhà vua nói với Tỳ kheo: Nguyện vì Ta nói cho biết điều ấy! Tỳ kheo mỉm cười, liền nói kệ rằng:

Trên Trời dưới đất vẫn tự tại,
Nay sẽ nói rõ cho người biết
Đây không phải là hương trầm thủy,
Lại không phải hoa lá thân cành
Các loại hương chiên đàn huân lục,
Hoà hợp có thể sinh ra được,
Ta sinh tâm vô cùng hy hữu,
Mà dấy lên nói lời như vậy,
Nhờ xưa ca ngợi Phật Ca diếp,
Đã có được mùi hương như vậy
Thời đức Phật ấy đã có rồi,
Cùng với mùi hương mới không khác
Ngày đêm luôn luôn có mùi hương,
Chưa hề có lúc nào đoạn tuyệt.

Lại trong kinh Nhật Vân nói: Khói hương không hết bỏ xuống đất mang lấy tội vượt bỏ, (Việt khí tội) suốt năm trăm năm rơi vào địa ngục Phẫn Niệu. Tại vì sao? Nởi vì tâm ngang nhiên làm càn.

Còn trong kinh Dạ Vấn nói: Vật dụng cúng dường trang nghiêm, dùng miệng thổi đi bụi đất, thì đọa vào địa ngục Ưu bát la, gần quả báo làm Thần Vương của gió.

Lại trong kinh Yếu Dụng nói: Lổ mũi ngửi mùi hương, bởi vì làm giảm mùi hương cho nên không có phước đức gì, chánh báo rơi vào địa ngục Ba Đầu Ma, đời vị lai tỷ căn không có hương vị.

Còn trong kinh Cúng Dường nói: Lúc cúng dường hương thơm mà miệng không khép lại, sẽ rơi vào địa ngục Hắc Phẫn Niệu, hết nửa kiếp nhận chịu tội lỗi ấy là báo ứng không có niềm tin phước tuệ. Tại vì sao? Bởi vì dấy lên trạng thái không muốn bụi hương.

(Những kinh trên đây tuy không có mục lục nhưng đều cảm ứng

với thần giáo cho nên tách biệt sơ lược ghi lại vậy)

Còn trong Tam Thiên Oai Nghi nói: Đốt hương đặt ở trước Phật có ba điều: Một Thay hương cũ trong lò; hai- nhưng nên tự mình lấy hương; ba Nên bố thí cho người. Chuẩn bị lò hương có ba điều: 1. Nên trước tiên đổ tro cũ nhặt lấy hương trong lò giữ lại một bên; 2. Nên lau chùi làm cho sạch sẽ mới đặt lửa vào, vẫn lấy hương cũ bỏ vào trong lò; 3. Lúc đưa lửa vào cháy rực lên không được thổi làm cho tắt than.

Tụng rằng:

Từ lâu chán ngán cây vô minh,
Mới vui mừng tìm hoa Nại Uyển
Bắt đầu đi vào vùng núi Hương,
Vẫn gặp cỗ xe ngôi nhà lửa
Cha hiền nhiều lần dẫn đưa ra,
Con thơ làm trái nợ ân tình
Tuy hiểu mối nguy chuột gặp cây,
Mà vẫn đau thương trong giỏ rắn.
Lộc uyển Thiền lâm luôn tốt tươi,
Thứu Lĩnh làm rung chuyển nhánh cây,
Nụ hoa Định sinh ra quả Trí,
Cưỡi hư không tìm cách vượt dòng,
Làn mưa pháp luôn luôn rưới xuống,
Áng mây thơm vần vũ thêm nhiều
Dường như muốn mọc cánh thành Tiên,
Đến cứu giúp Phật bầy hươu mắc lưới.

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

Sơ lược dẫn ra bảy chuyện: 1. Sa môn Cầu Na Bạt Ma thời Tống; 2. Tề Cao Sĩ Minh Tăng Thiệu; 3. Sa môn Thích Tuệ Chiêu thời Lương; 4. Tấn An Vương Tiêu Tử Mậu thời Nam Tề; 5. Sa môn Thích Tuệ Chủ thời Đường; 6. Hương thơm kỳ lạ ở hang Báo vùng Nam sơn Vị Nam Ung Châu thời Đường; 7. Đưa ra những nơi sản sinh hương thơm.

1: Xưa kia trong niên hiệu Vĩnh Gia đời Tống, có Tam Tạng Pháp sư cầu na bạt ma là người nước ngoài, nhà vua sắc chỉ mới đến chùa Kỳ hoàn, cứ mỗi lần giảng thuyết thì bốn chúng quy tụ rất đông. Đã từng kết thúc mùa hạ an cư, người tín tâm hái các loại hoa cúng dường đặt trong tất cả chổ ngồi của chúng Tăng, kiểm tra thấy chổ ngồi của mạt Ma hoa vẫn tươi đẹp như ban đầu. Biết trước giờ chết, y theo ngày giờ tắm gội trước, chắp tay tụng kinh ngồi trang nghiêm mà hóa diệt, thân thể thơm tho mềm mại, ở dưới chổ ngồi có một quyển văn để lại bút tích của mình, trong đó kệ nói rằng:

Mạt Ma người ở nước La bà,
Đến ở trong chùa A lan nhã
Tôi ban đầu đạt được Thánh quả,
Dấu tích của đạo lìa phiền não
Nếu như hướng về nước Sư tử,
Thôn xóm tên là Kiếp Ba Lợi
Tiến tu đạt được quả thứ ba,
Đây gọi là quả Tư đà hàm.

Văn Đế càng thêm vui mừng vô cùng. Lại ở trên thi hài thấy có một vật, hình dạng giống như rồng rắn, dài khoảng một thước, vút thẳng lên Trời cao. Tăng chúng đau buồn ngậm ngùi, mới y theo pháp của nước ngoài, lấy củi thơm làm giàn hỏa táng dựng tháp phụng thờ.

Câu chuyện trên đây trích từ Lương Cao Tăng Truyện.

2: Chùa Tây Hà thời Tề, ở trong núi Tần Giai Lý Nhiếp thuộc vùng Giang Thùy Bắc quận Lang Nha phía Nam Từ Châu do Tề cao Sĩ bình nguyên Minh Tăng Thiệu, vào giữa niên hiệu Thái Thỉ nhà Tống đã bắt đầu xây dựng, từng nghe tiếng chuông tự ngân vang. Chùa trên núi cách thôn xóm chừng năm, sáu dặm, trong thời Tống Thăng Minh, vào rạng sáng mà dân chúng trong thôn đều trông thấy lưng chừng núi có phan cái bày ra rực rỡ, khói mây năm màu sáng rực chiếu rọi giữa hư không. Già trẻ gái trai nhìn về nơi ấy đều nói là thật, tranh nhau đến xem thì hoàn toàn không thấy gì cả.Lúc ấy có pháp Sư Pháp Độ, ở chùa trên núi giảng về kinh Vô Lượng Thọ, giữa đêm bỗng nhiên có ánh sáng vàng rực chiếu rọi vào chùa, ở trong ánh sáng ấy giống như có lâu đài hình tượng đang giảng thuyết. Tăng chúng trong chùa và những người hành hương, thực hành không như pháp tắc, và khách tục nam nữ có uế trược đi vào chùa, thì cọp liền xuất hiện gầm gào tuần phòng, âm vang chấn động núi rừng. Cho đến bây giờ hãy còn như vậy, hoặc có người niệm tụng có chút mệt mỏi lười nhác, thì Sơn Thần hiện hình, nhưng mặc áo đen thân cao một trượng, tay cầm dây thừng, làm cho Tăng chúng kinh sợ, tụng niệm tu tập không dám lười biếng.

3: Thời nhà Lương có chùa Nam Minh Chân, ở vùng Trung Hưng huyện Mạt Lăng, do Sa môn Tuệ Chiêu sáng lập vào năm thứ năm niên hiệu Phổ Thông nhà Lương, Tuệ Chiêu sanh ra trong nhà họ Từ, thời nhà Tề ban đầu đi theo cậu đến Lư Lăng, giữa đường nhặt được một túi vải, trong túi vải có chiếc khăn thêu, trong khăn thêu có tờ giấy năm màu, tất cả làm thành một gói. Bắt đầu mở bốn lớp cũng không hề thấy gì, mở lớp cuối cùng thấy có ánh sáng, giống như ánh điện chiếu sáng rực cả căn nhà. Vì vậy nhiều lần cảm ứng điềm lành kỳ lạ, đi vào nước không chìm, đi vào lửa không cháy, người nhà cho là phát điên, mới đưa vào cũi nhốt rất chặt, trong chốc lát đã thoát ra ngoài, mới biết là nhờ thần lực. Vì thế thiết lập tòa cao thỉnh cầu phước đức giữa hư không có tiếng nói rằng: Ta là Bồ tát Trường Sanh, làm lợi ích cho đất nước các người nên y theo Phật pháp cúng dường thanh tịnh! Thế là mọi người tranh nhau đem hương hoa dâng cúng, cứ đến là có linh nghiệm. Người ở Phương Nam là Lý Thúc Hiến sau đó nguyện xin lợi ích cho Châu của mình, về sau quả nhiên làm Thái Sử Giao Châu, bèn làm tượng thần bằng trầm hương. Người thế gian cho rằng thần chú trọng đến hoa hương, nhân đó gọi là Hoa Nương Thần. Mọi người đưa lễ vật cúng dường đến tổ chức trai hội, những gì còn lại Tuệ Chiêu giáo hóa đều dùng để xây chùa.

Hai chuyện trên đây trích từ Lương Kinh Tự ký.

4: Tấn An Vương Tiêu Tử Mậu thời Nam Tề, tự là Vân Xương, là con của Vũ Đế. Năm mới 7 tuổi Nguyễn Thục Viện đã từng mắc bệnh nguy cấp, thỉnh Tăng đến hành đạo, có người dâng hoa sen cúng dường đức Phật, chúng Tăng lấy bình đồng chứa nước, cắm cây hoa vào muốn làm cho không héo rũ, như vậy ba ngày mà hoa càng tươi đẹp Tử Mậu rơi nước mắt lạy Phật thề rằng: Nếu làm cho Dì con nhân đây được yên lành, nguyện cầu uy lực của đức Phật khiến cho hoa đến cuối cùng trai hội không úa tàn. Bảy ngày trai kết thúc mà cành hoa càng thêm tươi hồng, xem thấy bình có đôi chút rễ mảnh sinh ra, bệnh của Mẹ lại khỏi hẳn. Thời bấy giờ gọi là hiếu cảm vậy. Em trai của Tử Mậu là Nam Hải Vương Tử Hãn, tự là Linh Hoa. Người mẹ tên là Lạc Dung Hoa Mắc bệnh nặng, Tử Hãn ngày đêm lễ lạy cầu khấn. Lúc ấy lấy tre làm đèn nối tiếp đèn ấy, chiếu sáng Trời đêm vô cùng rõ ràng. Nếu tiếp như vậy suốt đêm mà cành lá tươu tốt hẳn lên, bệnh của mẹ lại lành hẳn.

Sự việc này trích từ Ngô Quân Xuân Thu.

5: Thời đời Đường ở huyện Vĩnh An Thỉ Châu có Sa môn Thích Tuệ chủ, họ Giả là người trì luật bậc nhất và tạo nhiều phước nghiệp. Sau trở về quê cũ ở Nam Sơn ẩn tích chỉ ăn là tùng, nhiều loài cầm thú cùng tụ tập không một tiếng động. Hoặc là có Sơn Thần cùng đưa Phục Linh Cam Tùng Hương đến tặng. Sáu thời hành đạo không thiếu một thời nào, các loài cầm thú đi theo bên cạnh lễ Phật tụng kinh, tựa như nghe theo để nương nhờ. Sau khi thọ Bồ tát giới có bầy khỉ nói là vị vua khác loài nhưng cùng chung một ánh mặt Trời Phật pháp. Tuệ chủ hết sức kỳ lạ, súc sanh có thể nói được thật là điều chưa có bao giờ. Lại có điềm lành là rồng bay thú vật tụ tập mang hương kỳ lạ chứa đầy trong núi. Sau có tám người đều mang cung gỗ, vô cùng kinh hãi, đến an ủi Tuệ Chủ rằng: Thánh quân xuất thế lúc ấy là niên hiệu khai Hoàng rồi.

Đến năm thứ ba niên hiệu Trinh Quán đời Đường, trong chùa có minh Thiền Sư, sáng suốt hơn hẳn mọi người, ban ngày ngồi một mình, thấy không có nửa thân, hướng về mọi người nói rằng: Tôi và Tuệ Chủ Luật Sư xây dựng chùa này, hai người một lòng bỗng nhiên mất đi nửa thân, hay là Tuệ Chủ Luật Sư bỏ đi trước chăng? Đến giờ ăn ngày mai, người trong vùng kinh ngạc nói rằng: Hôm qua trong chùa thiết hội, thấy có bốn ngã đường, khách Tăng đông đến mấy ngàn người đi vào chùa, nay ở nơi nào? Bỗng nhiên vào giờ Ngọ hôm ấy Tuệ Chủ không bệnh gì mà qua đời, hưởng thọ 89 tuổi.

6: Thời đời Đường ở vách đa hang Báo vùng Nam Sơn huyện vị Nam Ung Châu, có vách đá dựng đứng hình dạng giống như con Báo lộn ngược, nhân đó lấy làm tên gọi vậy thôi. Hang đá có mỏm cao hình tượng giống như khuôn mặt đức Phật, cũng gọi là hang Tượng. Cổ xưa tuyên truyền rằng Xưa có vị Tăng người Hồ Đến đây nói: Ta nghe hang đá này có núi tượng Diện và khám thờ Thất Phật. Xưa có Thất Phật đã từng đến hang này để thuyết pháp, trong khe núi có hoa Chiêm Bặc, thường mang đến cúng dường. Gần đến giữa niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường, Sa môn Trí Tích ở chùa Long Trì Nam Sơn, nghe chuyện tìm đến, đến gần hang đá ngửi thấy mùi hương nhưng chẳng biết ở nơi nào, hết sức ngạc nhiên khi biết mùi hương từ cát trong khe núi tỏa ra, bèn gạt cát xem thử, hình dạng giống như rễ cỏ tranh, bọc trong đất cát nhưng mà vọ cùng thơm ngát, đem đến dòng nước giũ sạch thì có khe núi đều thơm ngào ngạt mang về trong điện Phật chùa Long Trì thì cả Đại Điện đều sực nức mùi thơm, vô cùng dễ chịu. Dân làng sống dưới chân núi thì trông thấy núi này, có lúc giống như tháp Phật, có lúc hoàn toàn giống như khuôn mặt đức Phật hiện ra uy nghiêm giữa bầu Trời, cho nên gọi là Tượng Đầu chứ không phải là hư cấu mà đặt tên. Cách đó không xa có hang đá rất đẹp, chính là nơi cư trú của Vương Gia vào thời Diêu Tần.

Hai chuyện trên đây trích từ Đường Cao Tăng Truyện.

7: Trong Sưu Thần Ký nói: Xưa kia Phu nhân Câu Dặc vì có tội nên phải chịu tội chết, khâm liệm thi thể không thối mà lại thơm.

Tục Sưu Thần Ký nói: Cửa sông hợp thì có một chiếc thuyền lớn

màu trắng lật úp ở trong nước, người làm nghề chài lưới ban đêm ngủ lại gần đó, nghe âm thanh của đàn tranh sáo địch vang vọng, lại có mùi hương kỳ lạ phát ra. Tương truyền rằng: Tào công chở kỷ nữ dạo chơi bị lật thuyền ở tại đây.

Dị Uyển nói: Mẹ của Vệ Sĩ Độ ở Tư Châu thường xuyên tụng kinh trường trai, việc trái với đạo lý thì không làm, đã từng đi ra từ trai đường, chúng Tăng chưa ăn, đều nhìn thấy trong vầng mây có một vật đã rơi xuống ở trước mặt, chính là chiếc bát lớn chứa đầy cơm thơm trong đó, tất cả ngồi yên tự cảm thấy lễ lạy cung kính trong một lúc, bà mẹ tự mình phân ra trao cho, người thọ trai trong bảy ngày không đói.

Thuật Dị Ký nói: Xưa có người đi đến Lư Sơn lấy gỗ tùng, nghe nói rằng: Nơi này không được lấy! Người này theo âm thanh mà trèo lên, thấy một đóa hoa kỳ lạ có hình thể rất đáng yêu, mùi hoa thơm vô cùng, biết là loài hoa thần dị, vì vậy lấy mà ăn, sống thọ được ba trăm năm.

U Minh Lục nói: Trần Tương Tử, người vùng Ô Trình, Ngô hưng, lần đầu trông thấy kinh Phật, liền học tháp thuật lên mây, đến khi ở nhân gian giữ mình trai tịnh, thì nghe giữa hư không có âm thanh kỳ lạ mùi hương tỏa ra ngào ngạt tiếng nhạc véo von.

Hứa Mại Biệt Truyện nói: Hứa Mại thuở nhỏ tên là Ánh, Cao Bình Diêm Khánhđều tìm đến theo học. Ban đầu cao Bình Diêm Khánhcòn cách xa Ánh, đốt hương đều có làn khói năm màu tỏa ra.

Phật Đồ trừng Truyện nói: Đồ Trưng dùng bình bát đựng nước, đốt hương chú nguyện rồi, trong chốc lát mọc lên đóa hoa sen màu xanh.

Bác vật Chí nói: Sứ giả Tây Vực dâng tặng hương liệu, nhà Hán quy định dâng tặng hương liệu không đủ cân thì không thể nhận được. Sứ giả Tây Vực sắp đi mới phát ra đồ đựng hương liệu, giống như hạt đậu lớn, thử đặt trước cửa cung điện, mùi hương tỏa ra bốn phía Trường An trong mấy mươi dặm đều ngửi thấy, qua một ngày mới hết mùi hương.

Phù Nam Truyện nói: Người ở nước Đốn Tốn, luôn luôn dùng hương hoa thờ cúng Thiên thần, hương có nhiều loại, phân biệt chọn ra cánh hoa kỹ càng, tất cả các loại hoa trộn lẫn chế biến thành một loại hoa, mùa Đông mùa Hạ không suy tàn, hàng ngày chở mấy chục xe vào chợ để bán, khô ráo lại càng thơm, cũng có thể làm phấn thơm xoa vào thân thể.

Thuật Chinh Ký nói: Vùng Bắc Hoang có một phần của Trương Mẫu, xưa kia nói là vợ của Vương Thị, mai táng có ghi lại nămtháng.

Về sau khai quật mộ phần mà lửa hương hãy còn cháy, nhà ấy thờ phụng xưng là Thanh Thủy Đạo.

Thế Thuyết nói: Thời Hoàn Xa Kì có người ở trang ấp họ Trần, đi vào trong núi Vũ Đang học đạo, nơi cư trú có khói trắng mùi thơm ngửi thấy ngào ngạt.

Xạ hương, trong Sơn Hải Kinh nói: Núi Thuý âm u có nhiều Cầy Hương. Bổn Thảo kinh nói: Xạ Hương có vị cay, trừ bỏ ác khí giết chết quỷ tinh, sống trong vùng Đài Sơn.

Uy Nhuy Hương, trong Tôn Thị Thụy Ứng Đồ nói: Uy Nhuy

Hương ấy là vị vua lễ nghi đầy đủ lắm thì phát sanh vốn có một ngày; vị vua yêu quý mạng người thì sanh ra, cùng gọi là Uy Hương.

Uất Kim Hương, trong Chu lễ Xuân Quan thượng Uất Nhân nói: Người Uất ức nắm vật dụng trong tay, hễ bước lên chào đón nắm tay khách bạn, quan hệ hài hòa uất ức thông suốt, đem sự thật theo phép tắc mà bày tỏ (Trúc Uất Kim nấu để hòa với rược xưởngvậy).

Thuyết Văn nói: Hoa của nhiều loại cỏ tươi tốt suôn sẻ, từ phương xa dâng tặng tốt đẹp cho người khác, người Uất ức hợp lại mà nung nấu để làm cho tinh thần phải thuần phục.

Tô Hợp Hương, trong Tục Hán Thư nói: Nước Đại Tần tổng hợp các loại hương mà sắc lại, chất lỏng đó gọi là tô Hợp. Trong Quảng Chí nói: Tô Hợp Hương xuất phát từ nước Đại Tần; hoặc nói là nước Tô Hợp, là người trong nước sưu tập chế biến mà thành, ép chất lỏng đó để làm dầu thơm, mới bán cặn lắng của hổn hợp đó cho khách buôn. Hoặc nói; Tổng hợp các loại cỏ thơm nấu cô lại làm Tô Hợp, không phải là một loại vật tự nhiên nào. Trong Phó tử nói: Các nước phương Tây nói liều, Tô Hợp Hương ấy là loài thú đã tạo ra Trung Quốc đều lấy làm kỳ lạ,

Kê Thiệt Hương, trong Ngô Thời Ngoại Quốc Truyện nói: Ngũ Mã Châu sản xuất ra Kê Kiệt Hương. Trong Tục Sưu Thần Kỳ nói: Lưu Quảng là người quận Dự Chương, tuổi trẻ chưa kết hôn, đến Điền Xá gặp một cô gái nói: Tôi là Hà tham quân phái nữ, năm 14 tuổi đã chết yểu, được Tây vương Mẫu nuôi dưỡng, khiến xuống trần gian kết bạn với con người. Lưu Quảng cùng với cô gái quấn quýt không rời, hôm ấy ở dưới chiếu thấy có chiếc khăn tay bên trong giấu Kê Thiệt Hương. Mẹ Lưu Quảng lấy khăn đốt bỏ, thì chính là Hỏa Cán Bố (vải chịu lửa). Trong Nam Châu Di Vật chí nói: Kê Thiệt Hương sinh ra từ cây Đường Lề. Bạc Châu nói: Cỏ này có thể chứa mùi thơm bên trong. Du Ích Kỳ Tiên nói: Người nước ngoài luôn luôn nói liềuvề các loại hương, cùng là một cây, hoa của cây là Kê Thiệt Hương vậy.

Trước Đầu Hương, trong Giang Biểu Truyện nói: Ngụy Văn Đế sai sứ đến nước Ngô tìm kiếm Tước đầu Hương.

Huân Lục Hương, trong Ngụy Lược nói: Đại Tần sản xuất ra Huân Lục. Trong Nam Phương Thảo vật trạng nói: Huân Lục Hương phát xuất từ nước Đại Tần, nói rằng ở bên bờ biển tự nhiên có cây lớn lên từ trong cát, lúc giữa mùa hạ mủ cây chảy ra trên cát người tộc Di nhặt lấy bán cho người ta. Nam Châu Dị Vật Chí cùng có đủ như vậy, nhưng nói là hình dạng như mủ cây Đào; Điển Thuật cũng như vậy chỉ nói: Giống như nhựa cây Đào cây Thông theo pháp ăn uống Tăng thêm khiến nối thông được với thần linh. Du Ích Kỳ Tiên nói: Các loại hương cùng chung một cây này, nhựa cây làm thành Huân Lục.

Lưu Hoàng Hương, trong Ngô Thời Ngoại Quốc Truyện nói: Lưu Hoàng Hương phát xuất từ nước Đô Côn, ở về phía Nam vùng Phù Nam hơn ba ngàn dặm. Trong Nam Châu Dị Vật Chí cũng nói vậy. Trong Quảng Chí nói: Lưu Hoàng Hương sản sinh từ đất nước bên bờ biển phía Nam.

Thanh Mộc Hương, trong Quảng Chí nói: Thanh mộc phát sinh từ Giao Châu. Trong Từ Trung Nam phương Ký nói: Thanh Mộc Hương có ở nước Thiên Đốc, không biết rõ hình dáng. Trong Nam Châu Dị Vật Chí nói: Thanh Mộc Hương sinh ra ở Thiên Trúc, thân của loại cỏ này hình dạng giống như Cam Thảo. Trong Du Ích Kỳ Tiên nói: Các loại hương cùng chung một cây này, mắt trên thân cây là Thanh Mộc Hương.

Chiên Đàn Hương, trong Trúc Pháp Chân Đăng La Sơn Sớ nói: Chiên Đàn Hương sinh ra ở nước ngoài, cuối niên hiệu Nguyên Gia nhà Tống có Tăng Thành Đằng, ở trong núi thấy một cây to, tán tròn che mát mấy mẫu chu vi hơn ba trượng, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt, trong đó có cành khô mấy thước, trèo lên dùng dao để chặt, đó là Bạch Chiên Đàn.

Trong Du Ích Kỳ Tiên nói: Các loại hương cùng chung một thân cây, thân cây là Chiên Đàn Hương vậy.

Cam Tùng Hương, trong Quảng Chí nói: Cam Tùng có ở các núi vùng Lương Châu. Đâu Nạp Hương, trong Ngụy Lược nói: Đâu Nạp Hương phát sinh từ nước Đại Tần. Trong Quảng Chí nói: Đâu Nạp Hương phát sinh từ phương Tây.

Ngải nạp hương, trong Quảng Chí nói: Ngải Nạp Hương phát sinh từ nước Phiêu. Trong Nhạc Phủ Ca nói: Người Hồ đi từ đâu đến, các nước mang đến cái gì, thảm len xếp lại đưa về, năm loại Mộc Hương say mãi, Ngãi Nạp cùng với Đô Lương.

Hoắc Hương, trong Quảng Chí nói: Hoắc Hương phát sinh từ các nước phương Nam. Trong Ngô Thời Ngoại Quốc Truyện nói: Hoắc Hương phát sinh từ vùng Phù Nam thuộc nước Đô Côn. Trong Nam Châu Dị Vật chí nói: Hoắc Hương phát sinh từ nước Điển Tốn bên biển, thuộc về Phù Nam, hương giống như Đô lương, có thể đặt vào trong áo quần. Trong Du ích Kỳ Tiên nói: Các loại hương cùng chung một cây này, lá cây là Hoắc Hương.

Phong Hương, trong Nam phương Ký nói: Phong Hương là cây có hạt giống như trứng vịt, phơi khô bung ra có thể đun cháy. Trong Ngụy Vũ Lệnh nói: Nhà cửa phòng ốc không trong lành thì có thể đốt mủ cây Phong và cây hoa Huệ khiến cho trong lành.

Sạn Hương, trong Quảng Chí nói: Sạn Hương phát sinh từ các nước phương Nam. Mộc Mật Hương, trong Dị Vật Chí nói: Mộc Mật hương gọi là hương Thụ, sống ngàn năm gốc rễ rất lớn, bốn, năm năm trước chặt dao không vào, bèn đến xem thử. Trải qua năm tháng dài lâu, thân cây mục nát tàn tạ, nhưng lỗi cây bên trong rất cứng, chỉ còn lại mùi thơm ngào ngạt mà thôi. Trong Quảng Chí nói: Mộc Mật Hương phát sinh từ Giao Châu và phương Tây. Trong Bổn Thảo Kinh nói: Mộc Hương cùng một tên gọi Mật Hương, vị cay mà ấm.

Bình hương, trong Nam Phương Thảo vật trang nói: Thân cây Bình Hương sinh trưởng ở vùng Ô Hứa.

Đô Lương Hương, trong Quảng Chí nói: Đô Lương Hương phát sinh từ vùng Hoài Nam. Trầm Hương, trong Dị Uyển nói: Sa môn Chi Pháp còn ở Quảng Châu, có tám thước đệm bông, lại có tấm ván giường tám thước bằng trầm Hương. Trong thời Thái Nguyên nhà Ngô, Vương Hán là Châu Đại nhi, khuyên nhủ cầu xin hai vật này không được, bèn giết hại mà lấy về cho mình. Trong Nam Châu dị Vật Chí nói: Mộc Hương sản sinh từ vùng Nhật Nam, muốn lấy được trước tiên phải chặt đổ cây, nằm trên tích lũy lâu ngày, phần bên ngoài mục nát hư hoại, phần lõi trong ruột cây rất cứng, bỏ vào nước thì chìm nên gọi là Trầm Hương. Sau đó ở trong ruột chuyển sang màu trắng, không cứng lắm, bỏ vào trong nước không chìm không nổi, cân bằng với mặt nước, đó gọi là Sạn Hương; loại đó nhỏ nhất hơi trắng, thì gọi là Tạm Hương. Trong Cố Vi Quảng Châu Ký nói: Huyện Tân Hưng đều biết đến Trầm Hương, giống như loài cây Đồng Tâm, người địa phương chặt ngã trải qua hơn năm thì vỏ ngoài mục rã, còn lại lõi cứng bên trong chính là Trầm hương. Trong Du Ích Kỳ Tiên nói: Các loại hương cùng chung một loài cây, phần lõi của cây làm thành Trầm Hương.

Giáp Hương, trong Quảng Chí nói: Giáp Hương phát sinh ở Nam Phương. Trong Phạm Hoa Hòa Hương Phương nói: Giáp Hương trứơc kia sắc lại chính là sạn Hương vậy.

Mê Diệp Hương, trong Nguỵ Lược nói: Đại sản xuất ra Mê Điệp hương. Trong Quảng Chí nói: Mê Điệp Hương phát sinh từ trong Tây Hải.

Linh Lăng Hương, trong Nam Việt Chí nói: Linh Lăng Hương, người địa phương nói là Yên Thảo Vân hương. Người lớn vào mùa hạ theo lễ nghi tôn kính, trẻ nhỏ vào tháng Giêng hái cỏ Vân Hương làm thức ăn trảy hội. Trong Lễ Ký Nguyệt lệnh nói: Tháng Trọng Đông cỏ Vân Hương bắt đầu mọc. Trong Trịnh huyền nói là Vân Hương Thảo. Thuyết Văn nói: Cỏ Vân Hương tựa như cỏ Mục Túc (Linh Lăng). Hoài Nam nói: Cỏ Vân Hương có thể chết đi mà sinh sôi trở lại.

Lan Hương, trong Chu Dịch hệ Từ nói: Nói là cỏ Đồng Tâm thì mùi vị ấy giống như cỏ Lan; Vương Quảng nói là Lan Phương vậy. Trong Dịch Thông Quái Nghiệm nói: Tiết Đông Chí lạnh lẽo không có gió thổi đến thì cỏ Lan bắt đầu sinh sôi rồi: Thuyết Văn nói: Lan Hương Thảo vậy. Trong Bổn Thảo kinh nói: Lan Thảo cùng chung tên gọi Thủy Hương, uống nhiều có ích cho sức khỏe, thân thể nhẹ nhàng không già đi. Hòa Hương sinh ra từ trong Mông Sở, cho nên tra cứu hợp lại thuật làm bài tựa về Hòe Hương.

Đâu Mạt Hương, trong Hán vũ Cố Sự nói: Tây Vương Mẫu sẽ đi lên phía trên đốt Đâu Mạt Hương. Đâu Mạt Hương ấy là do nước Đâu Cừ dâng tặng, giống như hạt đậu lớn, xoa hương trên cửa thì trăm dặm cũng ngửi thấy. Vùng Quan Trung đã từng xảy ra đại dịch, người chết tiếp theo nhau, đốt hương này lên thì người chết ngưng lại.

Phản Sanh Hương, trong Chân Nhân Quan Doãn Truyện nói: Lão Tử rằng: Lúc Chân Nhân đi lại tất cả đều ngồi trên hoa sen, hoa lớn mười trượng có Phản Sinh Linh Hương, ngược gió ba mươi dặm cũng ngửi thấy.

Thần Hương, trong Thập Châu Ký nói: Năm thứ ba niên hiệu Thiên Hán thời Tây Hán, sứ giả nhà vua Tây Quốc dâng tặng Linh Giao Cát Cầu Thần Hương, sứ giả nói: Hương này khi dấy lên bệnh tật chết người làm cho non yếu, thì tốt lên sẽ trừ được tai họa. Vào niên hiệu Hậu Nguyên Tây Hán trong thành Trường An xảy ra Đại dịch người chết mỗi ngày cả trăm mạng, nhà Vua thử lấy thần Hương của nước Nguyệt Chi đốt lên ở trong thành, người chết chưa quá ba ngày đều sống lại, mùi thơm trải qua ba ngày vẫn còn. Nhà vua sai người bí mật ghi lại về sau bỗng nhiên thất lạc.

Kinh Tinh Hương, trong Thập Châu Ký nói: Tụ lại nói là Châu, ở giữa Tây Hải, phía trên có nhiều lầu quán linh thiêng của Thần Tiên, cửa phía Bắc của cung điện có cây lớn, tương tự cây Phong mà lại thơm ngát, cách mấy trăm dặm vẫn ngửi thấy, tên gọi là cây là cây phản hồn. Gõ vào cây có thể phát ra tiếng như trâu rống. Người nghe kinh động khiếp sợ mà chặt đổ, lấy lõi thân cây bỏ vào trong nồi ngọc sắc lấy chất lỏng, lại cô đặc khiến cho có thể vo tròn, gọi là kinh Tinh Hương, hoặc gọi là Chấn Linh, lại gọi là Phản Sanh Hương, hoặc gọi là Nhân Điểu Tinh, hoặc gọi là Khước Tử Hương. Hương tỏa xa mấy trăm dặm, thây xác còn trên đất ngửi mùi hương vẫn sống lại được.

Từ Ngữ Phật Học Trong: Thiên Thứ 33: Hoa Hương