Đệ tử Phật, muốn cầu đạo vô vi tĩnh lặng, phải lìa xa những nơi huyên náo, ở một mình nơi yên vắng. Hoặc ở chốn núi rừng, nơi a lan nhã; hoặc tu hạnh đầu đà(1), ban đêm ngồi nơi gốc cây hay ở giữa bãi tha ma; hoặc tu tập các phép quán bất tịnh và cửu tưởng, tự thấy thân mình dơ bẩn đầy khắp mà lòng kinh hãi, hoặc bị ác ma biến hóa ra các hình tướng, khiến cho lòng sợ sệt, tâm đạo nhân đó mà sa sút. Trong mọi tình huống như thế, ta nên thực tập tám niệm(2) để tiêu trừ tâm sợ hãi:
Một là niệm Phật. Chúng ta quán tưởng đức Phật có ba mươi hai tướng tốt(3) và tám mươi vẻ đẹp(4), đầy đủ mười sức(5) và bốn điều không sợ sệt(6), thần thông rộng lớn, uy đức không cùng; tất cả chúng sinh đều được Ngài khéo léo cứu hộ, huống chi là người tu học phạm hạnh. Ta nay là đệ tử Phật, chắc chắn sẽ được ánh sáng của Ngài chiếu soi. Chư Phật trong khắp mười phương chắc chắn đều đến ở trên ta, đều ở bên ta mà che chở. Như thế thì có gì phải sợ!
Hai là niệm Pháp. Ta thấy rõ rằng, chánh pháp có khả năng đánh tan lòng sợ hãi, chuyển hóa mọi phiền não, điều phục các ma oán, cứu giúp mọi khổ đau. Ta nay đang tu tập chánh pháp ấy, nó giống như cây xử kim cương, đủ sức mạnh để sử dụng, thì còn có gì đáng sợ nữa!
Ba là niệm Tăng. Ta quán niệm chư Bồ tát tăng, Duyên giác tăng và Thanh văn tăng trong khắp mười phương, đều đầy đủ các pháp ba la mật, đầy đủ thần thông và công đức, có thể đẩy lui ma quân, gìn giữ và bảo hộ chốn đạo tràng. Tất cả các bậc thánh hiền tăng đó đều là bạn bè của ta. Như thế thì có gì để cho ta phải sợ sệt!
Bốn là niệm giới. Ta biết rõ, biệt giải thoát luật nghi có thể ngăn ngừa mọi tội ác, thân được an ổn; tĩnh lự luật nghi có thể diệt hết phiền não, tâm được an lạc; vô lậu luật nghi có thể chặt đứt mọi gốc rễ xấu ác, được niềm vui giải thoát. Ta nay giữ gìn giới luật một cách cẩn mật, thân và tâm đều vững vàng, thì còn có gì để phải sợ hãi đâu!
Năm là niệm xả. “Xả” có hai nghĩa: buông xả bằng cách bố thí và buông xả bằng cách dứt bỏ. Hãy quán niệm rằng, đối với giáo pháp và của cải, không có gì mà ta không bố thí, cho nên phát sinh công đức lớn; đối với ba thứ phiền não độc hại(7), không thứ gì mà ta không dứt bỏ, cho nên được trí tuệ lớn. Cả trong lẫn ngoài đều trống rỗng, phước đức và trí tuệ gồm đủ; thế thì có gì để sợ sệt!
Sáu là niệm thiên. Quán niệm rằng, chư thiên đời trước nhờ có tu tập thiền định và mười nghiệp lành, có giữ giới và thực hành bố thí, cho nên nay được sinh lên các cõi trời, hưởng được niềm an vui lớn lao, các tai ương không xâm phạm được. Ta nay cũng tu tập các giáo pháp đó, mà lại còn có phần hơn thế nữa, thì còn có gì đáng sợ hãi!
Bảy là niệm hơi thở vào ra, tức là “sổ tức quán”. Trong lúc ngồi thiền, từ đầu đến cuối, khi mũi thở hơi ra, hành giả thầm đếm từ một đến mười; khi hít hơi vào, cũng đếm từ một đến mười; lúc nào cũng chuyên nhất thì tâm ý được định tĩnh, lòng sợ sệt tiêu tan.
Tám là niệm sự chết. Chết có hai trường hợp: khi thọ báo hết thì mạng chung, đó là cái chết tự nhiên; bị tai họa mà chết, đó là cái chết do các duyên khác tạo nên. Nếu không chết vì các duyên khác thì cũng sẽ chết theo cách tự nhiên; hôm nay không chết thì sau này thế nào cũng chết. Đã nhận rõ chết là điều tất nhiên, tâm sợ hãi liền tiêu mất.
Lại nữa, chư Phật và Bồ tát thường dùng danh hiệu của mình để thực hiện hạnh bố thí vô úy; cho nên, hành giả tu tập, nếu tâm khởi lên mối lo sợ nào, ngoài tám phép quán niệm ở trên, cũng có thể xưng niệm danh hiệu chư Phật và Bồ tát, để diệt trừ tâm sợ hãi. Như khi đi trong đêm tối, hay những lúc ngồi một mình, nếu lòng cảm thấy khiếp sợ, hãy nhất tâm niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, hoặc “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, lòng khiếp sợ sẽ tiêu mất ngay.
CHÚ THÍCH
01. Chỗ huyên náo dễ làm cho tâm ý tán loạn.
02. “A lan nhã” có nghĩa là nơi vắng vẻ, yên tịnh, là tiếng gọi chung những nơi chư vị tì kheo cư ngụ, như chùa, viện, v.v...
03. Vị tì kheo tu hạnh đầu đà cũng được gọi là vị “đầu đà”, dịch nghĩa là hăng hái, tức là phấn chấn diệt trừ lòng tham đối với ba thứ áo, cơm và chỗ ở. Người tu hạnh đầu đà phải tuân thủ mười hai điều qui định, gọi là “mười hai đầu đà”.
04. Trong mười hai qui điều của hạnh đầu đà, điều thứ tám là “ngồi giữa bãi tha ma”, tức là thường cư trú ở những nơi mồ mả; điều thứ chín là “ngồi nơi gốc cây”. Hai qui điều này đều nói về nơi cư trú.
05. Xin xem lại chú thích số 11, bài 14, sách Sơ Cấp Phật Học Giáo Bản.
06. Như trên.
07. “Chánh pháp” nghĩa là đạo pháp chân chính, tức là Pháp Bảo trong Tam Bảo, lấy “giáo lí hành quả”(8) làm thể.
08. “Xử” nguyên là một thứ binh khí của người Ấn độ. “Kim cang xử” tượng trưng cho chánh trí cứng chắc như kim cương, có thể phá trừ kiến chấp hai bên thường và đoạn mà đứng ở trung đạo; như vua trời Đế Thích, tay cầm xử kim cương đánh dẹp quân A tu la vậy.
09. “Ba la mật” cũng tức là “ba la mật đa”, dịch ra Hán ngữ là “đáo bỉ ngạn”; ý nói, từ bờ sinh tử khổ não ở bên này sang đến bờ giải thoát an lạc ở bên kia. Các pháp môn tu tập của hàng Bồ tát có “sáu pháp qua bờ” và “mười pháp qua bờ”.
10. “Biệt giải thoát” là tên gọi khác của “giới pháp”. Giới có thể tiêu trừ các nghiệp ác của thân miệng ý một cách riêng biệt. Các loại giới pháp như Năm Giới, Tám Giới, v.v... có thể phát sinh vô biểu sắc(9) “thiện” ở trong thân, hợp với luật nghi(10), cho nên gọi là “biệt giải thoát luật nghi”.
11. “Tĩnh lự” là tên gọi khác của “thiền định”. Khi hành giả nhập định, trong thân tự phát ra vô biểu sắc “phòng quấy ngăn xấu”, hợp với luật nghi, cho nên gọi là “tĩnh lự luật nghi”, cũng gọi là “định cộng giới”, tức là giới pháp cùng phát sinh đồng thời với thiền định.
12. Bậc thánh, khi trí vô lậu phát sinh, trong thân tự có đầy đủ vô biểu sắc vô lậu “phòng quấy ngăn xấu”, hợp với luật nghi, cho nên gọi là “vô lậu luật nghi”, cũng được gọi là “đạo cộng giới”, tức là giới pháp cùng phát sinh đồng thời với đạo.
PHỤ CHÚ
(01) Đầu đà: là tiếng dịch âm từ Phạn ngữ “dhuta”, có nghĩa là trừ bỏ phiền não trần cấu. Đầu đà là một trong những phương pháp tu khổ hạnh, cho nên cũng được gọi là “hạnh đầu đà”, cốt để tôi luyện thân tâm, bằng cách diệt trừ lòng tham trước đối với ba vấn đề thiết yếu của đời sống hằng ngày là cơm nước, áo quần và chỗ ở. Chư vị tì kheo thường tu tập hạnh đầu đà, cho nên cũng còn được gọi là chư vị “đầu đà”. Trong sinh hoạt hằng ngày, người tu tập hạnh đầu đà phải chấp hành mười hai điều qui định – được gọi là mười hai hạnh đầu đà – như sau: 1. Tránh xa chỗ đông đảo người đời, ở những nơi vắng vẻ, u tĩnh; 2. Ở giữa bãi tha ma, những nơi mồ mả; 3. Nghỉ ở gốc cây; 4. Ngồi ở những nơi trống trải, lộ thiên; 5. Ngồi nhiều nằm ít, hoặc chỉ ngồi suốt đêm mà không bao giờ nằm; 6. Thường đi xin ăn; 7. Đi xin ăn theo thứ lớp, lần lượt từ nhà này đến nhà khác, không phân biệt nhà giàu hay nhà nghèo; 8. Chỉ ăn một bữa mỗi ngày; 9. Ăn một bữa, nhưng chỉ ăn những gì xin được trong bát; và chỉ ăn vừa đủ, không ăn quá mức; 10. Ăn một bữa, vào buổi trưa, và sau bữa ăn đó thì không ăn một lần nào nữa; dù là nước gạo cũng không uống; 11. Mặc áo bằng những mảnh vải rách người ta bỏ đi, đem chắp vá lại; 12. Mỗi người chỉ được có ba chiếc áo, không được có nhiều hơn.
(02) Niệm: “Niệm” nghĩa là giữ cho ý thức có mặt trong giây phút hiện tại; nhưng không phải là ở trạng thái rỗng không, mà phải luôn luôn là “niệm cái gì.” Như vậy, “niệm”, phải nói cho đầy đủ, là có ý thức về một đối tượng. Mặc dù vậy, “niệm” cũng chỉ mới là phần đầu của công phu thiền tập; – nó chỉ có công năng đình chỉ loạn tưởng. Mục đích của thiền tập là phát sáng trí tuệ. Trí tuệ phát sáng mới dứt trừ được vô minh và các phiền não tham, sân, si, v.v... Chủ đích của bài học này là diệt trừ tâm sợ hãi. Cũng vậy, một khi trí tuệ được thắp sáng thì tâm sợ hãi tiêu mất. Muốn thắp sáng trí tuệ thì tiếp theo tu “niệm”, phải tu “quán”. “Quán” là quán chiếu, tức là nhìn sâu vào lòng đối tượng để thấy và hiểu rõ bản chất của nó. Nhờ cái thấy và cái hiểu đó, hành giả sẽ hóa giải được vô minh, phiền não; đạt được giải thoát, an lạc. Nội dung bài học trên đã cho ta thấy cái tiến trình NIỆM và QUÁN ấy. Vậy NIỆM và QUÁN là một toàn bộ của công phu thiền tập; bởi đó mà chúng ta có thuật ngữ “QUÁN NIỆM”. Và “quán niệm” chính là nội dung của thiền tập. Cả “tám niệm” ở trong bài học trên là tám đề tài thiền quán để diệt trừ tâm sợ hãi.
(03) Ba mươi hai tướng tốt của Phật (tam thập nhị tướng): Ba mươi hai tướng quí mà người thường không có, chỉ có Chuyển luân thánh vương và thân ứng hóa của Phật mới có. Luận Đại Trí Độ liệt kê ba mươi hai tướng như sau: 1) Dưới bàn chân bằng phẳng, đầy đặn, mềm mại, lúc đứng thì khít khao với mặt đất. Tướng này biểu trưng cho công đức dắt dẫn và làm lợi ích chúng sinh của Phật. 2) Các đường chỉ ở dưới hai bàn chân xoay tròn làm thành hai bánh xe, với trục bánh xe, vành bánh xe và cả ngàn căm bánh xe. Tướng này biểu thị cho công đức phá trừ ngu si và vô minh, hàng phục mọi thứ ma oán. 3) Các ngón tay và ngón chân đều thẳng, tròn đầy, thon dài; biểu trưng cho tâm kiêu mạn đã hoàn toàn dứt tuyệt, thọ mạng lâu dài, khiến chúng sinh qui y trong niềm yêu kính, an vui. 4) Gót chân rộng và đầy đặn, tương xứng với mu bàn chân; biểu trưng cho công đức hóa độ tất cả chúng sinh đến cùng tận đời vị lai. 5) Các kẽ tay và kẽ chân đều có màng mỏng như lưới; biểu trưng cho công đức xa lìa trọn vẹn phiền não và ác nghiệp, nhiếp độ chúng sinh, biến hiện tự tại vô ngại. 6) Tay chân mềm mại, biểu thị rằng, do đức từ bi mà đức Phật dùng đôi tay mềm mại để nhiếp độ tất cả mọi người, thân cũng như sơ. 7) Mu bàn chân nổi cao và đầy đặn, tương xứng với gót chân; biểu thị đức đại bi vô thượng, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. 8) Bắp đùi thon tròn như bắp đùi của nai chúa; biểu thị công đức diệt trừ trọn vẹn tất cả tội chướng. 9) Đôi tay thòng thẳng xuống thì dài quá đầu gối; biểu thị công đức hàng phục tất cả ma chướng, thường lân mẫn xoa đầu chúng sinh. 10) Nam căn ẩn kín; biểu thị cho thọ mạng lâu dài, độ được nhiều đệ tử. 11) Thân tướng cao rộng, đoan nghiêm, trái phải trước sau trên dưới đều viên mãn; biểu trưng cho đức tôn quí tự tại của bậc pháp vương vô thượng. 12) Tóc và lông đều hướng lên trên, mềm mại xanh biếc, xoắn tròn qua bên phải; khiến cho ai được chiêm ngưỡng, đều sinh tâm hoan hỉ, được lợi ích vô lượng. 13) Mỗi lỗ chân lông mọc một sợi lông, không tạp loạn, óng ánh màu xanh ngọc lưu li, thường tiết ra mùi hương vi diệu; biểu thị lòng phục vụ chúng sinh, giáo hóa không mệt mỏi; ai trông thấy ánh sáng ấy được tiêu trừ tội chướng trong hai mươi kiếp. 14) Toàn thân lóng lánh màu vàng ròng, khiến người chiêm ngưỡng liền xả bỏ niệm ái dục, tiêu tội, sinh niệm lành. 15) Chung quanh thân thể thường có ánh sáng chiếu ra rộng một trượng, biểu thị cho tất cả chí nguyện đều đầy đủ. 16) Da mỏng và mịn, bụi đất nước không dính được, biểu thị Phật là bình đẳng, không cấu nhiễm, luôn luôn dùng tâm đại từ bi giáo hóa, làm lợi ích cho chúng sinh. 17) Hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân, hai vai, và cổ, bảy chỗ đó đều đầy đặn, biểu thị công đức của Phật làm cho tất cả chúng sinh được tiêu tội lỗi, sinh điều lành. 18) Hai nách đầy đặn, không lõm, biểu thị Phật cho chúng sinh y dược, cơm áo, và tự xem bệnh cho chính mình. 19) Nửa thân trên rộng lớn, đi đứng nằm ngồi, dung nghi uy nghiêm như sư tử chúa; biểu thị uy dung cao quí, đức từ bi tròn đầy. 20) Thân tướng rộng lớn, ngay thẳng, biểu thị cho công đức trì giới sát, đạo một cách trọn vẹn, dứt hẳn tâm kiêu mạn, ai trông thấy liền dứt khổ đau, được chánh niệm, khởi tu mười nghiệp lành. 21) Hai vai tròn đầy, cân đối, biểu thị sự diệt trừ trọn vẹn phiền não, nghiệp chướng, công đức vô lượng. 22) Bốn mươi chiếc răng, ngang bằng, chân sâu, trắng sạch, thường tiết mùi hương tịnh diệu; biểu thị rằng, Phật có công năng ngăn ngừa nghiệp ác khẩu của chúng sinh, diệt vô lượng tội lỗi, được vô lượng an lạc. 23) Tất cả răng khít khao, đều đặn, không cái nào to, không cái nào nhỏ; biểu thị đức hòa thuận, thanh tịnh. 24) Bốn chiếc răng cửa trắng đẹp, sáng bóng, nhọn bén, cứng như kim cương; biểu thị, diệu tướng này có thể tiêu diệt ba phiền não độc hại, mạnh mẽ, cứng chắc (tức tham sân si) của chúng sinh. 25) Hai má đầy đặn như má sư tử; người thấy được tướng này, được tiêu trừ tội chướng trong trăm kiếp, được diện kiến chư Phật. 26) Trong miệng luôn luôn có vị thơm tinh khiết tối thượng, biểu thị diệu pháp của Phật giúp cho chí nguyện của chúng sinh được tròn đầy. 27) Lưỡi mỏng, rộng và dài, thè ra thì phủ cả mặt, đụng đến chân tóc; quán tưởng tướng này sẽ tiêu trừ được tội chướng sinh tử trong trăm ức tám vạn bốn ngàn kiếp, được tám mươi ức chư Phật và Bồ tát thọ kí. 28) Tiếng nói như tiếng Phạm Thiên, rền vang như trống trời, tao nhã, sâu thẳm; biểu thị lời nói luôn luôn chân thật, người nghe tùy theo căn cơ đều thông hiểu, bao mối nghi hoặc đều tan biến. 29) Cặp mắt xanh biếc như hoa sen xanh, biểu thị đức Phật đời đời kiếp kiếp, lúc nào cũng dùng tâm từ, mắt từ và tâm hoan hỉ để tiếp độ chúng sinh. 30) Lông mi đều đặn, không rối, biểu thị tình thương chúng sinh như cha mẹ thương yêu, đùm bọc con cái. 31) Trên đỉnh đầu có nhục kế (tức cục thịt bằng nắm tay), nổi cao, biểu thị tự mình thọ trì và dạy cho mọi người thọ trì pháp thập thiện. 32) Giữa hai chân mày có sợi lông trắng, dài hơn một trượng, trắng sáng đẹp sạch như ngọc, mềm mại, uốn xoay về bên phải và thu ngắn lại, thường phóng ra ánh sáng, gọi là “hào quang”; biểu thị rằng, đức Phật luôn luôn tán thán những chúng sinh nào siêng năng tu tập ba pháp học vô lậu.
(04) Tám mươi vẻ đẹp của Phật (bát thập chủng hảo bát thập tùy hảo): Ngoài ba mươi hai tướng tốt, đức Phật còn có phụ thêm tám mươi vẻ đẹp; hợp chung lại gọi là “tướng hảo”. Ba mươi hai tướng tốt thì hiển lộ rõ ràng, tám mươi vẻ đẹp thì tế nhị, ẩn mật hơn. Chuyển luân thánh vương cũng có 32 tướng tốt, nhưng 80 vẻ đẹp này thì chỉ Phật và các vị Bồ tát lớn mới có. Kinh Đại Bát Nhã ghi tám mươi vẻ đẹp như sau: 1) Móng tay nhỏ dài, sáng sạch, ánh màu đồng đỏ. 2) Ngón tay và ngón chân tròn trịa, thon dài, đều thẳng, mềm mại, các đốt xương ẩn kín. 3) Hai tay, hai chân, mỗi đôi bằng nhau, không so le, giữa kẽ các ngón đầy đặn. 4) Tay chân viên mãn như ý, sáng láng, mềm mại, tinh sạch, màu như hoa sen. 5) Gân mạch liền lạc chắc chắn, ẩn sâu không lộ. 6) Mắt cá chân ẩn kín. 7) Bước đi thẳng tới, uy nghiêm mà hiền hòa như voi chúa. 8) Bước đi oai vệ, nghiêm chỉnh như sư tử chúa. 9) Bước đi không gấp không hoãn, an tường như trâu chúa. 10) Bước tới, dừng lại, cử chỉ dịu dàng như ngỗng chúa. 11) Mỗi khi ngó lại phía sau, giống như voi chúa, mặt cùng xoay theo thân mình sang bên phải. 12) Các đốt xương tay chân tròn trịa, đặt để khéo léo. 13) Các đốt xương nối kết nhau không có kẽ hở. 14) Đầu gối tròn đầy chắc chắn. 15) Những nếp nhăn ở chỗ kín khéo đẹp, hoàn toàn thanh tịnh. 16) Thân thể mượt mà, sáng bóng sạch sẽ, bụi đất không dính. 17) Dung mạo đoan chính, thuần hậu, không bao giờ có nét sợ sệt. 18) Thân thể đầy đặn, cứng chắc đủ các tướng lành. 19) Thân thể an định, không hề lay động, viên mãn không hoại. 20) Thân tướng như vua tiên, trước sau trái phải đều đoan nghiêm, sáng láng, khiết tịnh. 21) Thân tự tỏa sáng ra khắp chung quanh. 22) Bụng ngay ngắn, mềm mại, các tướng đều trang nghiêm. 23) Rún sâu, xoáy về bên phải, sạch sẽ sáng láng. 24) Rún dầy, không lồi không lõm. 25) Da không bao giờ bị ngứa ngáy, ghẻ lở, không có nốt ruồi hay thịt thừa. 26) Bàn tay mềm mại, đầy đặn, dưới bàn chân bằng phẳng. 27) Chỉ tay sâu, dài, thẳng, rõ ràng, không đứt đoạn. 28) Môi đỏ, bóng mượt, dưới trên tương xứng. 29) Mặt không dài không ngắn, không lớn không nhỏ, vừa vặn đoan nghiêm. 30) Lưỡi mềm, mỏng, rộng, dài, màu như đồng đỏ. 31) Tiếng nói trong trẻo, rõ ràng, uy nghiêm, vang rền sâu xa như tiếng rống của voi chúa. 32) Âm vận đầy đủ mĩ diệu, như tiếng vang từ hang sâu. 33) Mũi cao và thẳng, lỗ mũi không lộ ra. 34) Răng tề chỉnh, trắng trẻo. 35) Răng cửa tròn, nhọn bén, trắng trẻo, sáng bóng. 36) Cặp mắt trong sáng. 37) Mắt dài, mở rộng. 38) Lông nheo dầy, trên dưới tề chỉnh. 39) Cặp lông mày dài, mịn. 40) Lông mày thuận theo một chiều, đẹp đẽ, màu xanh biếc. 41) Lông mày cao, cong như mặt trăng non. 42) Tai dầy, lớn, rộng, dài, trái tai đầy đặn. 43) Hai tai cân đối, không có những khuyết điểm như tai người thường. 44) Dung nghi khiến cho ai trông thấy cũng sinh lòng kính mộ. 45) Trán rộng, ngay ngắn. 46) Nửa thân trên viên mãn, uy nghiêm như sư tử chúa, không ai sánh bằng. 47) Tóc dài, dầy và mịn, màu xanh biếc, không bạc trắng. 48) Tóc xoắn mềm mại, mùi thơm tinh khiết. 49) Tóc đều, không rối, không dính đùm. 50) Tóc không rụng, không đứt. 51) Tóc bóng mượt, bụi bặm không dính bám được. 52) Thân thể đầy đặn, cứng chắc. 53) Thân thể cao lớn, đoan chính. 54) Các lỗ đều trong sạch. 55) Thể lực thù thắng, không ai sánh bằng. 56) Thân tướng, ai nhìn cũng cảm thấy an vui, nhìn không biết chán. 57) Mặt sáng, khiết tịnh, như trăng tròn mùa thu. 58) Hình mạo, dung nhan thư thái, mỉm cười trước khi nói, chỉ hướng thuận mà không trái nghịch. 59) Nét mặt tươi sáng, không bao giờ cau có. 60) Da sạch sẽ, không cáu bẩn, không mùi hôi. 61) Lỗ chân lông thường tiết ra mùi thơm vi diệu. 62) Trên mặt thường thoảng mùi thơm thù thắng. 63) Đầu tròn đều đặn, đẹp như lọng trời. 64) Lông xanh biếc, sạch sẽ, sáng bóng, óng ánh màu đồng đỏ. 65) Pháp âm theo chúng mà có lớn có nhỏ, nhưng không thêm không bớt, ứng với thật lí, không sai lạc. 66) Tướng trên đỉnh đầu không ai trông thấy được. 67) Màng ở ngón tay ngón chân rõ ràng, trang nghiêm đẹp đẽ, ửng màu đồng đỏ. 68) Lúc đi, chân cách mặt đất khoảng bốn ngón tay, nhưng vẫn in dấu trên mặt đất. 69) Thân tự vững vàng, không xiêu ngã, không cần sự hộ vệ của người khác. 70) Uy đức rúng động khắp mọi loài, kẻ ác tâm trông thấy liền sinh vui mừng, người sợ hãi thấy liền được an ổn. 71) Âm thanh không thấp không cao, tùy thuận tâm ý chúng sinh, hòa vui cùng lời nói. 72) Tùy thuận các loài hữu tình mà thuyết pháp, tâm ý, lời nói, âm thanh đều vui vẻ. 73) Một lời nói pháp, nhưng tùy từng loại chúng sinh, ai nghe cũng đều thông hiểu. 74) Thuyết pháp y theo thứ lớp, phù hợp nhân duyên, không lời nào là bất thiện. 75) Quán sát bình đẳng các loài chúng sinh, tán thán người lành, chê trách người ác, nhưng không thương ghét. 76) Muốn làm việc gì, trước quán sát, sau mới làm, đầy đủ mẫu mực. 77) Tướng tốt của Phật, chúng sinh chiêm ngưỡng, không thể thấy trọn vẹn được. 78) Xương ót tròn đầy, cứng chắc. 79) Dung nhan thường trẻ, không già. 80) Tay chân và trước ngực đều có tướng cát tường (tức chữ “VẠN”).
(05) Mười sức (thập lực): tức mười trí lực. (Xin xem lại phụ chú số 5, bài 14, sách GKPH I.)
(06) Bốn điều không sợ sệt (tứ vô sở úy – Xin xem lại phụ chú số 6, bài 14, sách GKPH I.)
(07) Ba phiền não độc hại (tam độc): chỉ cho ba thứ phiền não tham dục, sân hận và ngu si. Tham dục là mê đắm trước thuận cảnh; sân hận là giận dữ trước nghịch cảnh; ngu si là không sáng suốt, không thấy rõ các lí lẽ. Ba thứ này vừa đứng đầu và thông với tất cả các loại phiền não khác, vừa nhiếp cả ba cõi, gây nguy hại bậc nhất cho thiện tâm của chúng sinh, dìm chúng sinh chìm đắm mãi trong biển khổ sinh tử, khó mong thoát khỏi, cho nên chúng được gọi là “độc hại”. Luận Đại Trí Độ chia ra có “chánh tam độc” (gồm tham dục, sân hận và ngu si) và “tà tam độc” (gồm tà tham dục, tà sân hận và tà ngu si). Hàng Thanh văn, Duyên giác còn có tâm cầu chứng niết bàn, đó là tham dục; chán ghét sinh tử, đó là sân hận; không thấy được con đường trung đạo, đó là ngu si. Hàng Bồ tát còn tâm mong cầu học rộng Phật pháp, đó là tham dục; trách cứ hàng nhị thừa, đó là sân hận; chưa thấy rõ trọn vẹn Phật tính, đó là ngu si. Tuy nhiên, loại “chánh tam độc” này dễ dứt trừ, và ở các cõi tịnh độ vẫn có; còn loại “tà tam độc” chỉ có trong sáu nẻo luân hồi, rất khó diệt trừ. Lại nữa, ba thứ phiền não độc hại này, bản chất của chúng là bất thiện, cho nên cũng là căn nguyên làm phát sinh tất cả các nghiệp ác thuộc thân miệng ý, do đó, chúng còn được gọi là “ba căn bất thiện” (tam bất thiện căn).
(08) Giáo lí hành quả: Đây là những thuật ngữ Phật học, chỉ cho “Pháp Bảo” trong “Tam Bảo”; do đó, chúng thường được gọi là “tứ pháp bảo”. “Giáo” tức là giáo pháp của chư Phật giảng dạy; “lí” tức là nghĩa lí của giáo pháp được giải thích một cách cặn kẽ; “hành” tức theo giáo lí ấy mà tu hành; “quả” tức là đạo quả giải thoát niết bàn do công năng tu tập mà chứng được. Các nhà Phật học cho rằng, bốn pháp này là một trình tự tu chứng: Nương vào giáo pháp mà giải thích nghĩa lí; Nương vào nghĩa lí mà phát tâm tu tập; Nương vào công phu tu tập mà đạt được đạo quả giác ngộ giải thoát.
(09) Vô biểu sắc. (Xin xem lại chú thích số 6, bài “Tổng Hợp Yếu Chỉ các bài 22, 23 và 24”, sách GKPH I.)
(10) Luật nghi chỉ cho giới thể, là một loại vô biểu sắc. Do khi tu tập thiền định mà chứng được Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền hay Tứ thiền, thì tự thân phát sinh ra giới thể, có khả năng phòng quấy ngăn xấu. (Xin xem lại các chú thích số 6 và 14, bài “Tổng Hợp Yếu Chỉ các bài 22, 23 và 24”, sách GKPH I.)
BÀI TẬP
1) Tám phép quán niệm là những gì?
2) Sao gọi là “biệt giải thoát luật nghi”, “tĩnh lự luật nghi”, và “vô lậu luật nghi”?
3) Sao gọi là “niệm xả” và “niệm thiên”? Hai từ này có ý nghĩa gì?
4) Thực tập phép quán đếm hơi thở như thế nào?
5) Khi hành giả tu tập, nếu tâm phát sinh sợ hãi, ngoài tám phép quán niệm này ra, còn có pháp môn nào khác có thể tiêu trừ tâm sợ hãi không?