Home > Khai Thị Phật Học
Tu Tập Thiền Quán Để Diệt Trừ Tâm Dâm Dục
Cư Sĩ Phương Luân | Cư Sĩ Hạnh Cơ, Việt Dịch


Thế giới của chúng ta thuộc trong phạm vi cõi Dục. Bởi vậy, từ loài người cho đến các loài chim, thú, cá, côn trùng, đều có sắc dục(1); đó là do chúng sinh nghiệp nặng đem tới. Tâm sắc dục, chỉ riêng chúng sinh ở cõi Dục mới có. Chưa dứt trừ tâm này thì vẫn chưa thoát khỏi cõi Dục, huống hồ là các cõi Sắc và Vô sắc!

Đối với hai chúng tại gia(2), đức Như Lai không cấm đoán sự hành dâm chính đáng(3); nhưng đó chỉ là pháp phương tiện. Nếu luận đến chỗ rốt ráo, phải đúng như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tâm dâm dục không dứt trừ, không thể thoát ra khỏi cõi trần. Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nhưng nếu không dứt bỏ tâm dâm dục, chắc chắn sẽ rơi vào cõi ma.” Như thế có thể biết, tâm dâm dục là cội gốc của luân hồi, là chướng ngại trên đường tu. Hành giả nếu muốn đối trị(4) cái tâm ái dục, cần phải tu tập bảy phép quán niệm về “bất tịnh”(5) và chín phép quán niệm về “cửu tưởng”; nhất định tâm dâm dục sẽ tự bình lặng.

Bảy phép quán niệm sau đây được gọi là “bất tịnh quán”, là những phép quán tưởng đối với thân thể con người lúc còn sống:

1. Thân này lấy kết nghiệp trong đời quá khứ làm nhân; nó do từ tham ái, phiền não sinh ra. Đó là chủng tử không trong sạch.

2. Ngay lúc cha mẹ giao hợp, nó nhận lấy cả hai giọt tinh huyết trắng đỏ làm thể. Đó là sự thọ sinh không trong sạch.

3. Ở trong bào thai, nó nằm dưới sinh tạng và trên thục tạng, hôi hám, bẩn thỉu, trơn nhớt, tối tăm, chật hẹp, kín mít. Đó là chỗ ở không trong sạch.

4. Ở trong bào thai, nó chỉ ăn máu mẹ. Đó là ăn uống không trong sạch.

5. Khi đủ mười tháng, đầu hướng xuống âm hộ, máu mủ đều tuôn ra, chất dơ bẩn gớm ghiếc tung tóe. Đó là sự sơ sinh không trong sạch.

6. Da thịt bao bọc một bộ xương, trong đó chứa đầy phân và nước tiểu; chín lỗ(6) thường tiết ra chất dơ. Đó là toàn cả thân thể không trong sạch.

7. Sau khi chết thì nó sình chương rữa nát, côn trùng ăn thành phân, lửa đốt thành tro. Đó là cái rốt ráo không trong sạch.

Chín phép quán niệm sau đây được gọi là “cửu tưởng quán”:

1. Quán lúc mới chết: Quán tưởng người lúc mới chết, thân cứng thịt lạnh, diện mạo dễ sợ, hình trạng thật đau thương.

2. Quán bầm xanh: Quán tưởng sau vài ngày chưa liệm, máu đông bầm xanh, thân xác phát ra mùi hôi, mắt không dám nhìn, tay không dám đụng.

3. Quán máu mủ: Quán tưởng xác chết rữa nát, thịt thối thành mủ, ruột và bao tử đều tan thành nước, mỡ máu gần như nhỏ giọt.

4. Quán nước đỏ: Quán tưởng thịt rữa, máu mủ lại biến hóa, thành ra chất nước màu đỏ, từ mọi nơi tiết ra, hôi thối không ngửi nổi.

5. Quán trùng ăn: Quán tưởng xác chết rữa nát lâu ngày, giòi sinh sản cùng khắp, xuyên gân đục xương, toàn thân như tổ ong.

6. Quán gân buộc ràng: Quán tưởng da thịt đều tiêu tan hết, nhưng vẫn còn gân với xương, như dây cột củi, không bị tản lạc.

7. Quán xương tản lạc: Quán tưởng gân cũng tiêu hoại, và các đốt xương vương vãi dọc ngang, đầu lâu tơi tả, chẳng còn gì là hình thù con người.

8. Quán xương trắng: Quán xương cốt lâu ngày trở thành trắng như tuyết, dãi nắng dầm mưa, nằm phơi nơi hoang dã.

9. Quán đốt ra tro: Quán tưởng xương trắng bị đốt thành ra tro bụi, như đất như cát, trở về đại địa.

Trong khi quán niệm chín phép quán tưởng(7) ở trên, hành giả nên nghĩ đến thân thể của chính mình và của cả mọi người thân thuộc, đều chưa thoát khỏi được tình trạng này, sao có thể lưu luyến cái xác thân huyễn hóa để cứ mải mê đắm trong biển tham ái!


CHÚ THÍCH

01. “Hoặc” cũng có tên là “kết”. Các hành vi thiện ác do hoặc mà sinh khởi, gọi là “nghiệp”. Kết hợp cả suy nghĩ và hành động thì gọi là “kết nghiệp”.


PHỤ CHÚ

(01) Sắc dục: Trong “phụ chú” số 5 của bài học 19, sách Giáo Khoa Phật Học Cấp Một (GKPH I), chúng tôi có trình bày ý nghĩa tổng quát của chữ “sắc” trong thuật ngữ Phật học “sắc pháp”. Riêng trong bài này, chữ “sắc” trong từ “sắc dục”, được dùng để chỉ cho dung nhan, hình mạo đẹp đẽ, quyến rũ của nam nữ. “Sắc dục” là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa là tâm ham muốn tình ái giữa nam nữ. Bởi vậy, từ “sắc dục” ở đây cũng đồng nghĩa với các từ “ái dục”, “tình dục”, “dâm dục”.

Ngoài ra, “sắc dục” cũng là một trong năm dục (ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc; hay tài, sắc, danh, thực, thùy).

(02) Hai chúng tại gia: tức hai chúng cận sự nam (ưu bà tắc) và cận sự nữ (ưu bà di).

(3) Từ “chánh dâm” tác giả dùng trong bài này, có ý chỉ cho sự hành dâm giữa hai vợ chồng chính thức và hợp phá đó là sự hành dâm chính đáng. Người đàn ông ăn nằm với bất cứ ai không phải là người vợ chính thức của mình; hoặc người đàn bà ăn nằm với bất cứ ai không phải là người chồng chính thức của mình, đều phạm tội “tà dâm”. Ngay như giữa hai vợ chồng chính thức, mà sự hành dâm xảy ra không đúng lúc (như người vợ đang mang thai, hay trong thời kì trai giới chẳng hạn), không đúng chỗ (như nơi chùa, miếu, trước công chúng chẳng hạn), không đồng thuận (có tính cách cưỡng ép, lỗ mãng), đều bị coi là “tà dâm”.

(04) Đối trị: Đây là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa gần như từ “đối phó”; và mạnh mẽ, dứt khoát hơn nữa là “đoạn diệt”.

(05) Bất tịnh: không sạch sẽ. Trong Phật học, từ “bất tịnh” là một thuật ngữ quan trọng luôn luôn có ý cảnh tỉnh người tu hành. Trong Phật học, nó ít được dùng với ý nghĩa thông thường, như khi nói áo quần không sạch, chân tay đầy bùn đất, thức ăn hôi hám, v.v...; nhưng nó thường được dùng để chỉ rõ những cái không sạch sẽ chứa đựng trong cơ thể, mà người tu tập thiền quán phải quán sát để đối trị lòng tham dục (như đã thấy rõ trong bài học này). Trong ý nghĩa sâu xa hơn, từ “bất tịnh” được dùng để chỉ cho tất cả những ý nghĩ, lời nói và hành động xấu ác, tội lỗi, không đúng với chánh pháp. Suy nghĩ một kế hoạch để lừa bịp người, đó là một ý nghĩ bất tịnh. Một món ăn do giết hại, giành giật, hay ăn cắp mà có, đó là món ăn bất tịnh. Dâm dục là hành động bất tịnh, vì đó là căn nguyên của sinh tử luân hồi. Nói lời thêu dệt, đâm thọc để gây xáo trộn, chia rẽ trong gia đình người khác, đó là lời nói bất tịnh. Sống xa hoa kiêu ngạo trên sự đau khổ của bao nhiêu người khác, đó là đời sống bất tịnh. Thậm chí, người tu hành, dù là khất thực để nuôi mạng sống, nhưng trong khi đi khất thực, chỉ lo cho sự no đủ của chính bản thân mình mà không nghĩ tới sự no đủ của người khác, thì thức ăn đó cũng trở thành thức ăn bất tịnh. Mặt khác, thuyết pháp mà chỉ vì lợi dưỡng cho bản thân, thì đó cũng chỉ là thuyết pháp bất tịnh!

(06) Chín lỗ: Khắp thân thể con người có chín lỗ, qua đó, các chất dơ bẩn từ bên trong tiết ra ngoài; gồm có: 2 lỗ con mắt (tiết ra nước mắt, ghèn); 2 lỗ mũi (tiết ra nước mũi); 2 lỗ tai (tiết ra ráy tai); miệng (tiết ra nước miếng, đờm); lỗ tiểu tiện (tiết ra nước tiểu); và lỗ đại tiện (tiết ra phân).

(07) Cửu tưởng quán là phép quán tưởng về chín tướng trạng, hay chín giai đoạn tàn hoại của thân thể con người sau khi chết, bỏ nằm nơi đồng trống hay bãi tha ma; vì vậy nó cũng được gọi là “cửu tướng quán”. Ngoài cách liệt kê chín phép quán tưởng ở bài này, còn có vài chỗ liệt kê khác, có chút ít khác biệt về thứ tự cũng như về các chi tiết.

Phật Quang Đại Tự Điển liệt kê: 1. Quán tử thi trở nên bầm xanh; 2. Quán tử thi bị rữa, máu mủ rịn ra từ chín lỗ; 3. Quán tử thi sinh giòi tửa, bị chim thú ăn thịt; 4. Quán tử thi sình chương lên; 5. Quán máu mủ từ tử thi chảy ra lênh láng trên mặt đất; 6. Quán tưởng da thịt bầy nhầy, rữa nát; 7. Quán tưởng da thịt tiêu hết, chỉ còn xương gân vương vãi; 8. Quán tưởng tử thi bị thiêu đốt thành tro bụi; 9. Quán tưởng tử thi chỉ còn là một đống xương trắng tản mác.

Tam Tạng Pháp Số ghi: 1. Quán tưởng tử thi sình chương lên; 2. Quán tưởng tử thi bầm xanh; 3. Quán tưởng tử thi da thịt bầy nhầy, đầu mình tay chân rã rời, phủ tạng rữa nát; 4. Quán tưởng tử thi, từ đầu đến chân, máu mủ chảy tràn lan; 5. Quán tưởng giòi mủ từ chín lỗ của thi thể tứa ra, da thịt nát bấy, vương vãi trên mặt đất, hôi thúi cùng cực; 6. Quán tưởng tử thi bị giòi bọ rúc rỉa, chim thú kéo đến mổ xé tơi bời; 7. Quán tưởng tử thi tan rã, gân đứt, xương lìa, đầu chân mỗi cái mỗi nơi; 8. Quán tưởng thi thể hoàn toàn tiêu hết da thịt, chỉ còn đống xương trắng phơi bày, rời rã; 9. Quán tưởng thi thể bị lửa thiêu đốt, cuối cùng chỉ còn tro bụi.

Luận Đại Trí Độ ghi: 1. Quán tưởng thi thể sình chương; 2. Quán tưởng thi thể rã hoại; 3. Quán tưởng thịt máu tràn lan; 4. Quán tưởng mủ máu chảy khắp, rất là hôi thúi; 5. Quán tưởng thi thể xanh bầm; 6. Quán tưởng thi thể bị giòi trùng rúc ăn, chim thú mổ xé; 7. Quán tưởng gân xương đứt lìa, rời rạc mỗi thứ mỗi chỗ; 8. Quán tưởng thi thể bây giờ chỉ còn là xương trắng, vương vãi khắp nơi; 9. Quán tưởng thi thể bị lửa thiêu đốt, biến thành tro than.

Sách Con Đường Chuyển Hóa (kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm) của Nhất Hạnh ghi: 1. Xác chết sình lên, xanh lại, thối nát ra; 2. Xác chết bị các loài giòi bọ rúc rỉa, bị quạ, diều hâu, kên kên và chó sói rừng xé ăn; 3. Xác chết chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu; 4. Chỉ còn là một bộ xương, hết thịt nhưng còn dính máu; 5. Chỉ còn là một bộ xương, không còn dính máu, nhưng các đốt xương còn dính vào nhau; 6. Chỉ còn một đống xương rời rạc; nơi này là xương ống tay, nơi kia là xương ống chân, nơi nọ là đầu lâu...; 7. Chỉ còn một đống xương trắng màu vỏ ốc; 8. Chỉ còn một mớ xương khô; 9. Xương đã mục, chỉ còn lại một mớ bụi.

Từ đó chúng ta thấy, tuy nói là “cửu tưởng quán”, thật sự, những đề mục quán tưởng không nhất thiết là có con số nhất định, có thể là 9, 10, hay nhiều hơn nữa; miễn là những đề mục ấy thuận theo một thứ tự hợp lí từ lúc bắt đầu cho đến lúc chấm dứt, cốt làm cho thấy rõ cái tính chất bất tịnh của thân xác con người.


BÀI TẬP

1) Tâm sắc dục không diệt trừ, có thể thoát khỏi ba cõi được không?

2) Kinh Lăng Nghiêm đã nói gì về tâm dâm dục?

3) Muốn đoạn trừ tâm ái dục, hành giả nên tu tập những phép quán gì?

4) Hãy nêu ra danh mục của bảy phép quán “bất tịnh”.

5) Hãy nêu ra danh mục của chín phép quán “cửu tưởng”.