Chúng Ta Không Chịu Xoay Đầu Nhìn Lại Chính Mình
Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân | Dịch Giả :Thượng Tọa Thích Hằng Đạt

Xưa kia, Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:

- Thế nào là đạo?

Nam Tuyền đáp:

- Tâm bình thường là đạo.

- Có thể hướng đến được không?

- Nếu vừa nghĩ hướng đến tức có giai cấp.

- Nếu không suy nghĩ thì làm sao biết đó là đạo?

- Đạo không bám chấp vào cái biết hay cái không biết. Biết tức là vọng giác. Không biết tức là vô ký. Nếu thật sự đạt đến chỗ không còn nghi ngờ gì về đạo, giống như hư không, rộng rãi thênh thang, sao còn bám vào thị phi nhân ngã?

Triệu Châu nghe lời này bèn ngộ đạo.

Chúng ta bắt chước người xưa, nói lời trống rỗng, bảo để tâm bình thường, mà tâm này ai ai cũng có, nhưng thấy được đạo gì? Điều trọng yếu là nếu nhận ra tâm bình thường, thì nơi nơi đều là đạo. Không nhận biết tâm bình thường thì điên đảo suốt ngày. Tại sao? Chúng ta không chịu xoay đầu, nhìn lại chính mình, chỉ lo hướng ngoại truy cầu, bỏ tánh giác, hợp với trần lao. Từ sáng đến tối, lưu chuyển theo ngoại cảnh, bỏ đạo rong đuổi bên ngoài, tìm sờ không được gương mặt của mình. Sao gọi là tâm bình thường? Tâm bình thường tức là tâm dài lâu. Từ đầu năm đến cuối năm, từ sanh đến tử, thường thường như thế, mới gọi là tâm bình thường.

Ví như người thế tục, nếu tiếp đãi khách quen thuộc, thì chỉ dùng cơm nước bình thường, mà không bày biện món ngon vật lạ. Tiếp đãi như thế, có thể làm dài lâu, tức là bình thường. Nếu khách quý đến, phải bày biện món ngon vật lạ, nhưng chỉ có thể thiết đãi trong vài ngày, nên nào phải là bình thường. Nhà nhà không thể thường có lễ lộc, vì chiêu đãi khách khứa bất bình thường thì không thể làm dài lâu. Người tu đạo, nếu dụng tâm không tạo tác, không an bài, không cải biến, không có lời hoa ngôn xảo ngữ, tức là hợp với đạo, tức là tâm bình thường, và tức là khởi trực tâm. Lục Tổ bảo thiền sư Trí Hoàng:

- Nếu tâm ông như hư không, chẳng chấp không kiến, ứng dụng vô ngại, động tĩnh vô tâm, tình ái phàm thánh đều quên, năng sở đều câu thông diệt mất, thì tánh tướng như như, không thời bất định.

Những lời này, bàn về tâm bình thường. Nếu không thể tu hành tương ưng với những lời dạy đó thì luôn sống trong hang động quỶ ma, tức tâm không bình thường.

Đêm qua, tôi có nói đến giới luật. Người vừa phát khởi tín tâm, liền quy y Tam Bảo, cầu thọ năm giới. Tiến lên một bước, biết đời người là khổ, nên xả tục xuất gia, vào núi tu đạo. Nhận biết tỳ kheo là tôn quý, nên phát tâm thọ giới cụ túc. Lại phát tâm rộng lớn, cầu thọ giới Bồ Tát. Tại giới đường, nghe thầy dẫn lễ bảo:

- Phải luôn khởi tâm sám hối, hổ thẹn.

Khi ấy, vì sợ khổ đau trong sáu đường luân hồi mà phát tâm tu hành. Nghe pháp mà rơi lệ.

Tiếp đến, hòa thượng giới sư bảo:

- Quý vị có thể trì giới được không?

Các tân giới tử liền đáp:

- Chúng con có thể phụng trì.

Như thế, liền thọ xong giới. Song, vừa thọ giới xong các thói quen tật xấu lại phát sanh, khiến thối thất đạo tâm, tức tâm không bình thường. Nghĩa là cứ mãi dùng tham sân si làm tâm bình thường.

Người hiểu đạo, động tĩnh vô tâm, không nghĩ thiện ác. Tánh không tức vô tâm. Vô tâm tức là đạo. Người vừa xuất gia, không biết như thế nào là Phật pháp, quy củ, tu hành. Nếu muốn cắt đứt sanh tử, phải hành theo quy củ. Khổng Tử chế lễ nhạc chẳng ngoài việc dạy quy củ cho người. Thân chấp trì giới pháp tức là trừ khử tập khí. Thân được tự do, thì tâm có chỗ để nương y.

Người xưa có viết kệ về bốn oai nghi, đi đứng nằm ngồi:

"Cử tiếng niệm Phật, nước chảy chậm
Tụng kinh hành đạo, nhạn du hành
Chắp tay trước ngực, như bưng nước
Thân thẳng trên đầu, tựa chén dầu
Xem trước nhìn sau, nhẹ nhàng bước
Phải trái xoay thân, khép nửa mắt
Oai nghi động tĩnh, thường như thế
Chẳng uổng cửa không, làm tỳ kheo".

Âm thanh ngọc ngà trong trẻo thanh khiết, xưng niệm thánh hiệu chư Phật, tức là hành pháp môn niệm Phật. Tiến lên một bước, tự hỏi mình rằng ai đang niệm Phật, tức tham thiền. Không chịu xoay đầu nhìn lại chính mình, miệng chỉ niệm Phật mà tâm lại khởi vọng tưởng, lưu chuyển theo vọng tình. Nếu như thế, niệm Phật thật vô dụng. Khi niệm Phật, miệng niệm tâm phải tư duy, và dùng trí quán chiếu; âm thanh không nhanh không chậm, như nước chảy từ từ. Miệng niệm, tai lắng nghe, không khởi vọng tưởng, thì niệm niệm lưu nhập vào biển khổ Ta Bà. Nghe một danh hiệu Phật, được vô lượng công đức. Chỉ dùng một danh hiệu Phật, mà có thể độ vô lượng chúng sanh. Khi tụng kinh, hoặc nhìn thẳng mà đọc, hoặc ngồi mà đọc, hoặc quỳ mà đọc, hoặc mặc niệm mà đọc, hoặc học thuộc lòng, v.v..., mọi cách thức đều được cả.

Tùy theo kinh văn mà quán tưởng, và xem trong kinh bàn luận về đạo lý gì. Hành đạo tức đi kinh hành. Đi từng bước chân chậm rãi, không loạn động, không nghiêng bên đông, ngả bên tây, mà đi như nhạn bay trật tự trên nền trời. Từng bước đi không khẩn cấp, không chậm chạp. Mọi cử chỉ hành động đều dụng công. Chấp hai bàn tay lại mà chẳng để vô tâm. Mười ngón tay khắn khít với nhau, không chênh lệch, không co giản, dạng trạng như bưng cốc nước. Nếu nghiêng lệch, thì nước liền đổ ra. Thân đứng thẳng như cây tùng. Hai bàn chân hợp lại thành chữ bát. Hai ngón chân cái cách nhau khoảng tám phân. Hai gót chân cách nhau khoảng hai phân. Gáy cổ phải chạm cổ áo.

Đầu thẳng thừng, không nghiêng ngửa, như đang đội chén dầu, nếu không chú ý thì sẽ đổ xuống. Đi như gió, phải xem xét trước sau. Bước đi nhẹ nhàng, không kéo lê giày dép. Đi trên cầu thang, chớ làm vang tiếng động lớn. Cỏ xanh chớ dẫm, phải thương mến hộ trì sanh vật. Mắt chỉ nên mở phân nửa, nhìn không quá năm bảy thước. Đi đứng nằm ngồi, oai nghi nếu trang trọng nghiêm túc, sẽ khiến người nhìn, sanh tâm cung kính. Lúc đầu, nếu không tự khiển trách, thì tương lai làm sao giáo hóa chúng sanh được! Tự thúc thủ hành vi chân chánh, không bị đọa lạc, thì mới nhiếp hóa chúng sanh. Có tu đạo hay không, cử chỉ hành động như thế nào, người khác nhìn vào liền biết rõ. Tâm bình thường tức là tâm trước sau như một. Trải qua bao phong ba hiểm nạn, tâm này vẫn như như bất động.

Ví như Hám Sơn lão nhân, Ngài là bậc mô phạm cho chúng ta. Ngài sanh vào đời nhà Minh, ngày mười hai tháng mười năm Gia Tĩnh thứ hai mươi lăm (1546). Năm mười hai tuổi, xin cha mẹ cho xuất gia, rồi lễ hòa thượng Tây Lâm tại chùa Báo Ân, ở Nam Kinh, làm thầy thế độ. Sau đó, Ngài thọ giới cụ túc nơi hòa thượng Vô Cực. Sau khi hòa thượng Tây Lâm viên tịch, dầu chỉ mới được hai mươi tuổi, mọi việc lớn nhỏ trong chùa, đại chúng đều nghe theo sự quyết định của Ngài. Sau này, Ngài theo đại sư Vô Cốc ngồi thiền tại chùa Thiên Giới. Năm hai mươi tám tuổi, nhân du hành đến núi Ngũ Đài, thấy cảnh núi Hám Sơn thâm sâu hùng vĩ, nên Ngài tự lấy tên núi mà đặt danh hiệu cho mình. Năm hai mươi chín tuổi, Ngài duyệt xem "Triệu Luận", bèn liễu ngộ mà không bám văn nghĩa. Thiền sư Cao Phong, pháp lữ của Ngài, bảo:

- Xin chúc mừng! Thầy có vốn trụ núi rồi!

Năm ba mươi tuổi, Ngài đốn ngộ, bèn viết kệ:

"Chớp mắt tâm niệm cuồng dừng
Căn trần nội ngoại đều thấu suốt
Thân bay độc phá thái hư không

Vạn tượng xum la từ khởi diệt".

Từ lúc cắt tóc xuất gia, đến năm bảy mươi mốt tuổi, đôi chân Ngài đi du hành khắp nơi. Mỗi lần Ngài lên tòa thuyết pháp, nói một hơi cả ngàn lời. Việc này được thị giả ghi lại đầy đủ trong quyển tiểu sử niên giám của Ngài. Sự tích về cuộc đời Ngài, kể rõ rằng trong bao thập niên, dầu hoàn cảnh thiên biến vạn hóa, chịu muôn ngàn khổ đau, nhưng đạo tâm thủy chung bất biến. Đó là tâm bình thường, dài lâu. Lúc bị đày đến Lôi Dương, Ngài có viết bài Quân Trung Ngâm:

"Cởi áo tu liền đổi dạng
Vốn tin tùy duyên là đạo tràng
Chịu đựng nắng gắt như lửa cháy
Nan tiêu băng tuyết lạnh tâm tràng".

Tâm Ngài kiên cố bất biến, mới thổ lộ ra những lời này. Ngài chính là bậc mô phạm cho chúng ta.

Ngày nay, Phật pháp bị suy vi quá mức, vì trải qua bao phong ba bão táp. Trước ngày giải phóng, tăng ni toàn quốc có khoảng tám trăm ngàn vị. Năm ngoái, chỉ còn bảy mươi ngàn vị. Trong mười người thì có tới chín người hoàn tục. Đó là vì tâm không dài lâu, và không kiên cố. Bị lửa đốt một chút là chân đứng không yên. Nếu là Phật tử chân chính, phải nên lập chí nguyện, có đầy đủ tâm tràng sắt đá. Đầu tiên phải học oai nghi, tuân theo quy củ, mà không sợ kẻ khác bảo mình là người cứng đầu. Phải giữ tâm đến chết, mãi mãi tôn kính giáo giới của Phật. Do bao kiếp trồng căn lành, nên đời này mới được vào cửa Phật. Phải nỗ lực cầu đạo, trừ khử tập khí. Làm được những việc này rồi, thì từ từ sẽ trở thành những bậc đại tu hành, sớm đắc nhập lý thể. Chớ chạy vào chợ búa danh lợi, làm tay sai cho quốc vương. Tâm phải kiên cố, vĩnh cửu không đổi. Tâm bình thường động tĩnh nhất như.

Trích từ: Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ

Kinh Sách Liên Quan

   
1 Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Bảo Thân Tiết Dục Pháp Ngữ, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về
2 Pháp Ngữ Của Hòa Thượng Tịnh Không, Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Tải Về
3 Pháp Ngữ Của Thiền Sư Hư Vân, Thượng Tọa Thích Hằng Đạt Tải Về
4 Tịnh Độ Pháp Ngữ, Nhiều Dịch Giả Tải Về
5 Ngẫu Ích Đại Sư Pháp Ngữ, Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc Tải Về
6 Ấn Quang Pháp Sư Gia Đình Giáo Dục Pháp Ngữ, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về
7 Pháp Ngữ, Hòa Thượng Thích Như Điển Tải Về