Home > Học Phật Căn Bản
Tam Giới
Sa Môn Thích Đạo Thế chùa Tây Minh biên soạn | Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Việt Dịch


Tam giới có hai loại: Một là Tứ châu. Hai là chư Thiên.

I. THUYẾT MINH TỨ CHÂU

Tứ châu có mười phần: Thuật ý, Hội danh, Địa lượng, Sơn lượng, Giới lượng, Phương thổ, Thân lượng, Thọ lượng, Y lượng, Ưu liệt.

Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý

Xét rằng: Tam giới yên vị, lục đạo phân chia. Tinh thô khác vẻ, khổ lạc không đồng. Xem tận ngọn nguồn, không lìa hai chữ sắc tâm. Kiển nghiệm cứu cách, chẳng có gì ngoài sinh diệt. Sinh diệt luân hồi, chính thị vô thường. Sắc tâm ảnh huyễn, ấy là gốc khổ. Thế nên, kinh Niết Bàn thí dụ với Đại hà, kinh Pháp Hoa so sánh với Đại trạch. Thánh nhân mở đường giác ngộ, dừng bước lại để quay về. Mau mau vượt khỏi Tam giới, dần dần bước sang Thập địa. Tìm tòi bản thể của thế gian, gặp đúng thời tiết mới sinh ra. Vùi dập qua bao tai kiếp, cuối cùng trở lại hư không. Cái gọi là thọ ngắn, nghĩa là có thọ dài. Có dài mới hiện rõ nghĩa của ngắn.

Than ôi! Hư không chẳng thấy, nên giới hạn thật vô cùng. Thế giới bao la, nên có thiên hình vạn trạng. Ở đấy, Đại thiên do Pháp vương thống lãnh, Tiểu thiên được Phạm vương điều hành. Tu di là chỗ Đế thích cư trú. Thiết vi là thành trì của chư Thiên. Đại hải là vực lớn của tám phương, nhật nguyệt là đèn đuốc của bốn hướng. Đông đảo quần sanh, hân hoan xem đấy là nhà. Nhung nhúc vạn vật, chẳng nghĩ đến chỗ đày đọa! Đắm giữa tục mà xem, chỉ là lời viễn vông vu khoát. Lấy đại đạo để xét, chính là việc gần gũi tấc gang.

Thế gian sùng thượng Châu công, Khổng Tử có công san định điển phần, nhưng hai vị Thánh ấy luận bàn về vũ trụ, ức đoán không nổi! Dịch gọi Huyền thiên, vốn đặt tên cho cõi thâm u. Trang nói Thương thiên, chỉ gần màu nhìn từ xa vậy. Do đó, kẻ dốt cả tin, bảo: “Trời xanh như ngọc”. Nho sĩ dựa sách, nói: “Trời đen như sơn”. Xanh, đen thật khác biệt, hiểu sai lạc cũng giống như nhau. Nho dốt dẫu chẳng đồng, không biết gì, đều chỉ là một! Mới hay, đời tôn kính tên Trời mà không rành chân tướng. Há biết được vẻ tráng lệ của cõi Lục dục, sự quang minh của chốn Thập phạm đến mức nào? Than ôi! Hiện trạng vủa Tam giới còn chẳng ai hay. Không nghĩ đến diệu lý, đương nhiên gác bỏ.

Thiết tưởng các kinh điển Đại thừa đã nói nhiều về “không” sâu xa: Tìm tòi các kinh Trường A hàm, Lâu Thán, nói về thế giới, mà văn chương uyên bác, kệ tán rất nhiều, rốt lại, cũng khó nghiên cứu. Nay chỉ chọn lọc những điều thiết yếu, đại lược, cốt nêu cao chỗ thâm viễn mà thôi.

Thứ hai: PHẦN HỘI DANH

Theo các kinh Trường A hàm và Khởi Thế nói: “Giữa trung tâm bốn châu là núi Tu di, phía ngoài núi nầy có tám ngọn núi khác bao bọc chung quanh. Dưới chân núi Tu di là biển lớn, sâu tám vạn bốn ngàn do tuần. Bên cạnh tám ngọn núi là biển lớn, phần trước rộng tám ngàn do tuần, trong có nước tám công đức. (Theo luận Thuận Chánh Lý nói: một là ngọt, hai là mát, ba là diệu, bốn là nhẹ, năm là trong, sáu là không hôi, bảy là không rát họng, tám là uống rồi không đau bụng). Cứ thế, biển hẹp dần. Đến dưới chân ngọn núi thứ bảy, biển còn rộng một ngàn hai trăm năm mươi do tuần. Phía ngoài rộng vô bờ bến. Ngoài biển này còn có ngọn núi khác, tức là núi Đại Thiết Vi bao bọc chung quanh và mặt trời mặt trăng ngày đêm luân phiên nhau soi sáng thiên hạ bốn phương, gọi là một quốc độ. Lấy một quốc độ nầy làm đơn vị, đủ một ngàn núi Thiết Vi bao quanh xong, gọi là một Tiểu thiên thế giới. Lại đủ một ngàn núi Thiết Vi bao quanh xong, gọi là một Trung thiên thế giới. Từ số Trung thiên này, lại đủ một ngàn núi Thiết Vi bao quanh xong, gọi là một đại thiên thế giới. Trong đó, trên núi Chúa của bốn châu đều có gắn mặt trời mặt trăng soi chiếu. Thậm chí số đỉnh núi của Đại thiên thế giới nhiều đến vạn ức”. (Xưa nói trăm ức là tính sai).

Thành thì cùng hành, hoại thì cùng hoại, đều là cõi do một đức hóa Phật thống lãnh, gọi là Tam thiên đại thiên thế giới, hiệu là Ta Bà thế giới. Chính gốc tiếng Phạm gọi là Tát Ha thế giới. Theo kinh Tự Thệ Tam Muội nói: “Ta Ha thế giới (Tiếng Hán là Nhẫn giới, là do người ở đây bản tính cương cường, gặp chuyện khó nhẫn nhục nên gọi là nhẫn) có đức Phật tên Năng Nhân thống lãnh một cõi bao la gọi là Tam giới gồm có: một là Dục giới, hai là Sắc giới, ba là Vô sắc giới. Trước tiên là Dục giới. Có bốn loại dục: một là tình dục, hai là sắc dục, ba là thực dục, bốn là dâm dục. Thứ hai là Sắc giới. Có hai loại Sắc giới: một là tình dục, hai là sắc dục. Thứ ba là Vô sắc giới thì chỉ có tình dục. Trong Dục giới có bốn loại vừa nói trên, vì dục mạnh, sắc yếu, nên gọi là Dục giới. Trong Sắc giới thứ hai, vì sắc mạnh, dục yếu, nên gọi là Sắc giới. Trong Vô sắc giới thứ ba, sắc hết, dục yếu, nên gọi là Vô sắc giới”. (Theo kinh Hoa Nghiêm, biện luận về Tam thiên đại thiên thế giới vốn có nhiều loại. Ở đây không cần phải thuật lại rườm ra).

Thứ ba: PHẦN ĐỊA LƯỢNG

Theo kinh Hoa Nghiêm nói: “Tam thiên đại thiên thế giới, vì vô lượng nhân duyên mà thành. Hơn nữa, như thế giới nương tựa vào thủy luân, thủy luân dựa vào phong luân, phong luân lại nương tựa vào không luân. Không luân không nương tựa vào đâu. Còn chúng sinh chịu nghiệp lực nên thế giới an trụ”. Bởi thế, luận Trí Độ nói: “Tam thiên đại thiên thế giới đều nương tựa vào phong luân để làm nền tảng”. Hơn nữa, kinh Tân Phiên Bồ Tát Tạng nói: “Vì chư Phật thành tựu được trí tuệ bất khả tư nghị nên biết được các tướng của mưa gió. Biết được thế gian có cơn gió lớn tên Ô lô bác ca, biết đến chúng sinh vì có giác quan nên đều bị cơn gió lớn nầy lay độn, cơn gió nầy ước lượng cao đến ba câu lô xá. Ở trên cơn gió nầy, trong không trung lại có cơn gió gọi là Vân phong luân, nổi lên, cơn gió nầy ước lượng cao đến năm câu lô xá. Ở trên cơn gió nầy, trong không trung lại có cơn gió gọi là Chiêm bạc ca, nổi lên, cơn gió nầy ước lượng cao đến mười du thiện na. Ở trên cơn gió nầy, trong không trung lại có cơn gió nổi lên, gọi là Khuyển tác phược ca, cơn gió này ước lượng cao đến ba mươi du thiện na. Lại trên cơn gió này, giữa không trung còn có cơn gió nổi lên, gọi là Khứ lai, cơn gió này ước lượng cao đến bốn mươi du thiện na. Như thế, này Xá lợi tử, lần lượt xoay lên đến sáu vạn tám ngàn câu đê tướng của phong luân, Như Lai giác ngộ đạo vô thượng, dựa vào đại trí tuệ đều biết hết tất cả. Này, Xá lợi tử! Phong luân ở trên cùng tên là Châu biến. Trên đó là chỗ thủy luân nương tựa. Nước này ước lượng cao đến sáu mươi tám ức du thiện na, là chỗ thế giới ấy nương tựa. Đất của thế giới ấy cao đến sáu mươi tám ngàn du thiện na. Này, Xá lợi tử, trên đất ấy ước lượng có một Tam thiên đại thiên thế giới”. Vả lại, kinh Lâu Thán nói: “Đất nầy sâu hai mươi ức vạn dặm. Dưới có kim túc cũng sâu hai mươi ức vạn dặm. Dưới có kim cương cũng sâu hai mươi ức vạn dặm. Dưới có nước giới hạn sâu tám mươi ức vạn dặm. Dưới nước có gió lớn vô cùng, sâu đến năm trăm hai mươi ức vạn dặm. Trên đây có sáu tầng. Bốn tầng trước là địa luân, tầng thứ năm là thủy luân, tầng thứ sáu là phong luân”. Kinh Kim Quang Minh nói: “Đất nây sâu một ngàn sáu vạn tám ngàn do tuần. Dưới có kim sa. Kim sa chính là kim túc. Dưới có kim cương địa. Giải thích rằng: “Phong luân trước kiên cố không thể hủy hoại. Có lực sĩ Đại lạc na dùng chày kim cương đánh vào làm cho chày vỡ mà phong luân không hề hư hao. Lực sĩ Đại lạc na ấy là đệ tứ Phạm vương có sức na la diên. Đấy cũng là sức của Phật thân, cũng gọi là phong luân na la diên. Trên phong luân nầy có thủy luân. Theo kinh Lập Thế thì thủy luân nầy sâu đến một trăm mười ba vạn do tuần, kém hơn phong luân ba mươi tám vạn do tuần. Vì nghiệp lực của chúng sinh nên nước nầy không chảy đi được. Giống như ăn không tiêu, không vào ruột được vậy. Lại giống như bồ chứa gạo bên trong, ngoài đem buột chặt. Thủy luân cũng thế, vì ngoài có gió giữ lại, không cho chảy đi. Như thế gian quậy bơ làm sữa, sức gió nầy thổi thuận chiều. Nước nầy biến thành kim thủy, sâu đến một trăm mười ba vạn do tuần. Khi đã êm thắm thành kim thủy chỉ còn sâu được tám mươi vạn do tuần. Số ba mươi ba vạn do tuần giảm bớt thuộc về kim địa. Kim địa nầy từ ít hóa thành nhiều, nên dày đến mười hai lạc na. Mỗi lạc na có mười vạn do tuần. Kim địa nầy có hai chiều ngang dọc đều bằng nhau”.

Thứ tư: PHẦN SƠN LƯỢNG

Nay dựa vào trong một cõi Tam thiên đại thiên thế giới, đều có chư Phật hiện thân giáo hóa, hiện thân giáng sinh, hiện thân sinh diệt, chỉ đường tứ Thánh, mở lối lục phàm. Ước chừng trong một quốc độ bốn phương thiên hạ, tức là cõi được một vầng nhật nguyệt luân phiên soi chiếu, ở giữa có núi Tô Mê Lô ngự trị. (Đời Đường hiện nay dịch là núi Diệu cao xưa gọi là núi Tu di, còn gọi là Mê lưu, cũng gọi là núi Di lâu. Đều hơi lầm cả). Núi nầy cao ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, do bốn loại bảo vật tạo thành. Mặt Đông bằng vàng, mặt Nam bằng lưu ly, mặt Tây bằng bạc trắng, mặt Bắc bằng pha lê. Giữa rốn biển cũng sâu ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, nương tựa trên kim luân, như kinh Khởi Thế nói: “Dưới chân núi Tu di, có tám lớp núi khác. Lớp núi đầu tiên tên là Khư Đề La, cao bốn vạn hai ngàn do tuần, trên mặt cũng rộng như thế, do bảy loại bảo vật tạo thành. Giữa hai ngọn núi Tu di và Khư Đề La là khoảng cách rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, có chu vi rộng vô lượng. Ngoài núi Khư Đề La, còn có núi khác là Y Sa Đà La, cao hai vạn một ngàn do tuần, trên mặt cũng rộng như thế, do bảy loại bảo vật tạo thành. Khoảng cách giữa hai núi nầy là bốn vạn hai ngàn do tuần, có chu vi rộng vô lượng. Ngoài núi Y Sa Đà La, còn có núi khác là Du Càn Đà La, cao một vạn hai ngàn do tuần, trên mặt cũng rộng như thế, do bảy loại bảo vật tạo thành. Khoảng cách giữa hai núi nầy là hai vạn một ngàn do tuần, có chu vi rộng vô lượng. Ngoài núi Du Càn Đà La, còn có núi khác là Thiện Kiến, cao sáu ngàn do tuần, trên mặt cũng rộng như thế, do bảy loại bảo vật tạo thành. Khoảng cách giữa hai núi nầy là một vạn hai ngàn do tuần, có chu vi rộng vô lượng. Ngoài núi Thiện Kiến, còn có núi khác là Mã Ngưu Đầu, cao ba ngàn do tuần, trên mặt cũng rộng như thế, do bảy loại bảo vật tạo thành. Khoảng cách giữa hai ngọn núi nầy là sáu ngàn do tuần, có chu vi rộng vô lượng. Ngoài núi Mã Ngưu Đầu, còn có núi khác là Ni Dân Đà La, cao một hai trăm do tuần, trên mặt cũng rộng như thế, do bảy loại bảo vật tạo thành. Khoảng cách giữa hai núi nầy là hai ngàn bốn trăm do tuần, có chu vi rộng vô lượng. Ngoài núi Ni Dân Đà La, còn có núi khác là Tỳ Na Da Ca, cao sáu trăm do tuần, trên mặt cũng rộng như thế, do bảy loại bảo vật tạo thành. Khoảng cách giữa hai núi nầy là một ngàn hai trăm do tuần, có chu vi rộng vô lượng. Ngoài núi Tỳ Na Da Ca, còn có núi khác là Chước Ca La (đời Tùy gọi là núi Luân Vi, tức là núi Thiết Vi), cao ba trăm do tuần, trên mặt cũng rộng như thế, do bảy loại bảo vật tạo thành. Khoảng cách giữa hai núi nầy là sáu trăm do tuần, có chu vi rộng vô lượng. Phía trên bày bố các núi khác, ở giữa là biển nước. Trên mặt biển có các loại hoa Ưu bát la, Bát đầu ma, Câu mâu đà, Bôn trà lợi ca và các loại hương thơm phủ đầy. Cách núi Chước Ca La một khoảng không xa, có một khoảng đất trống, phủ đầy cỏ xanh tức là biển nước. Phía Bắc biển nước này, có cây chúa tên Diêm phù. Chu vi thân cây đến bảy mươi do tuần, rễ cây ăn sâu vào đất đến hai mươi mốt do tuần. Thân cây cao đến một trăm do tuần, đến nỗi cành là phủ kín bốn phía rộng đến năm mươi do tuần”. Kinh Trường A hàm nói: “Giữa chỗ đất trống của núi nầy có biển lớn tên là Uất Thiền Na. Dưới biển nầy là đường của Chuyển luân vương, rộng mười hai do tuần. Hai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây bao bọc trang hoàng, do bảy loại bảo vật tạo thành. Khi Chuyển luân vương xuất hiện ở cõi Diêm phù đề, nước tự nhiên rút mất, con đường bằng phẳng hiện ra. Cách biển không xa, có núi tên Uất Thiền Na. Cách núi nầy không xa, lại có núi khác tên là Kim Bích. Qua khỏi núi nầy, lại có núi khác tên Tuyết Sơn, ngang dọc rộng năm trăm do tuần, cũng sâu năm trăm do tuần.

Giữa núi Tuyết Sơn là núi Bảo Sơn, cao hai mươi do tuần. Chóp núi Tuyết Sơn mọc cao một trăm do tuần, trên đỉnh có ao A nậu đạt, ngang dọc rộng năm mươi do tuần. Nước ao mát mẻ, trong trẻo, không dơ bẩn. Bờ ao do bảy loại bảo vật tạo thành. Dưới đáy ao đọng đầy cát vàng. Ao có loài hoa lớn như bánh xe, cuống hoa lớn như ổ xe, cuống hoa tiết nhựa trắng như sữa, ngọt như mật. Phía Đông của ao có sông Căng Già, từ miệng Trâu phát nguồn, theo năm trăm sông nhỏ đổ vào biển Đông. Phía Nam của ao có sông Tân Đầu, từ miệng sư tử phát nguồn, theo năm trăm sông nhỏ đổ vào biển Nam. Phía Tây của ao có sông Bác Xoa, từ miệng Ngựa phát nguồn, theo năm trăm sông nhỏ đổ vào biển Tây. Phía Bắc của ao có sông Tư Đà, từ miệng Voi phát nguồn, theo năm trăm sông nhỏ đổ vào biển Bắc”. Theo sách Tây Quốc truyện của Pháp sư Huyền Trang nói: “Nằm giữa trung tâm của châu Thiệm Bộ là ao A na bà đáp đa (đời Đường ngày nay dịch là Vô nhiệt, xưa gọi là ao A nậu đạt là sai, nằm tại phía Nam Hương Sơn, phía Bắc Đại Tuyết Sơn, chu vi tám trăm dặm. Bờ sông được trang hoàng bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê. Có cát vàng trải đầy, sóng xanh lấp lanh như gương soi. Do có nguyện lực vô biên, Bồ tát Thập Địa hóa thân làm Long vương, đến cư ngụ ở nơi nầy, đem dòng nước trong lành mát mẻ cung cấp cho châu Thiệm Bộ. Bởi thế, ở phía Đông của ao, từ miệng Trâu bạc phát nguyên sông Căng Già (xưa gọi là sông Hằng hà, còn gọi Hằng Già là sai), chảy một vòng quanh ao, rồi đổ vào biển Đông Nam. Ở phía Nam của ao, từ miệng Voi vàng phát nguyên sông Tín Độ (xưa gọi sông Tân Đầu là sai), chảy một vòng quanh ao, rồi đổ vào biển Tây Nam. Ở phía Tây của ao, từ miệng Ngựa lưu ly phát nguyên sông Phược Sô (xưa gọi sông Bác Xoa là sai), chảy một vòng quanh ao, rồi đổ vào biển Tây Bắc. Ở phía Bắc của ao, từ miệng Sư tử pha lê phát nguyên sông Tỷ Đa (xưa gọi sông Tư Đà là sai), chảy một vòng quanh ao, rồi đổ vào biển Đông Bắc. Có người bảo: “Chảy ngầm từ dưới mặt đất rồi đổ ra núi Tích Thạch, tức là sông Tỷ Đa. Đó là nguồn sông của Trung Quốc vậy”. Bấy giờ chưa có Chuyển luân vương xuất thế, châu Thiệm Bộ chỉ có bốn cái chủ tể. Phương Nam lấy voi làm chủ, nên nắng ấm thích hợp cho loài voi. Phương Tây lấy bảo vật làm chủ, nên bờ biển đầy bảo vật. Phương Bắc lấy ngựa làm chủ, nên giá lạnh hợp với loài ngựa. Phương Đông lấy người làm chủ nên hòa hợp đông đúc. Thế nên nước lấy voi làm chủ thì nôn nóng, hiếu học, rành rẽ thuật lạ. Nơi ấy bảo vật làm chủ thì không có lễ nghĩa, coi trọng của cải. Cõi lấy ngựa làm chủ thì bản tính hung bạo, tàn nhẫn hiếu sát. Đất lấy người làm chủ thì phong tục thuần hậu, nhân nghĩa sáng tỏ. Xét tập quán của bốn cái chủ tế, thì phương Đông cao hơn hết: Nhà ở mở cửa về hướng Đông. Ban ngày nhìn về hướng Đông cúng bái. Đất lấy người làm chủ thì tôn kính nhà vua. Thuần phong mỹ tục, đại khái như thế. Về mặt lễ nghĩa quân thần trên dưới, nghi thức pháp độ, văn chương, ở đất lấy người làm chủ, chẳng nước nào hơn. Về mặt giáo hóa cách tẩy tâm giải nghiệp, thoát ly sinh diệt luân hồi, ở nước lấy voi làm chủ, xem ra có chủ trương hơn. Tất cả điều nầy được viết thành kinh điển, ban bố khắp người thông kẻ dốt, tập tành học rộng chuyện xưa nay, khảo cứu tinh tường chuyện kiến thức. Thế thì, đức Phật xuất hiện ở phương Tây, chánh pháp truyền bá sang Đông độ. Phiên dịch sai âm, nói năng lầm tiếng. Sai âm thì mất nghĩa, lầm tiếng thì trái lý. Cho nên mới bảo rằng: “Cần nhất phải minh định danh từ. Chủ yếu tránh khỏi sai lầm vậy”.

Hơn nữa, kinh Khởi Thế nói: “Trong cung A Nậu Đạt có ngôi đền năm cột. Long vương A Nậu Đạt thường xuyên cư trú ở đây. Phật bảo: “Vì sao lại gọi là A Nậu Đạt? Có nghĩa là gì?”. Tất cả Long vương của cõi Diêm phù đề nầy đều có ba điều hoạn nạn. Chỉ có Long vương A Nậu Đạt không bị ba điều hoạn nạn nầy. Ba điều hoạn nạn gì?

+ Một là hết thảy các Long vương đều bị gió nóng, cát nóng thổi chạm vào mình, thiêu đốt da thịt, thiêu đốt đến tận xương tủy, gây nên khổ não. Chỉ có Long vương A Nậu Đạt không bị hoạn nạn như thế.

+ Hai là hết thảy Long cung đều bị gió dữ nổi lên, thổi mạnh vào cung, làm bay mất áo quý có gắn bảo vật, lộ ra mình rồng, gây nên khổ não. Chỉ có Long vương A Nậu Đạt không bị hoạn nạn như thế.

+ Ba là hết thảy Long vương, mỗi vị đều ở trong cung cùng vui thích. Bỗng chim Kim sí lớn bay vào mổ cắn, hoặc nảy cách muốn ăn thịt Long vương, khiến cho Long vương khiếp sợ, thường ôm khổ não. Chỉ có Long vương A Nậu Đạt không bị hoạn nạn như thế.

Nếu chim Kim sí chúa nào nảy ý muốn bay vào Long cung làm hại, sẽ bị chết liền. Vì thế, mới gọi là A Nậu Đạt. A Nậu Đạt nghĩa là không phiền não (đời Tần dịch). Phật bảo Tỳ kheo: “Bên mặt Tuyết Sơn có thành tên là Kim Tỳ Ly. Phía Bắc thành có bảy ngọn núi Đen. Phía Bắc núi Đen có Hương Sơn. Trong núi thường có tiếng âm nhạc ca múa, hát xướng. Núi có hai hang động. Động thứ nhất tên là Hết, động thứ hai tên là Khéo Hết, do bảy loại bảo vật làm thành, mềm mại thơm tho tựa áo trời. Chúa thần âm nhạc Càn Thát Bà có năm trăm nhạc công tùy tùng, thường ở tại đây”. Vả lại, luận Thuận Chánh Lý nói: “Trong bốn châu, chỉ riêng châu Thiệm Bộ có chiếc ghế kim cương, trên cao đến đất, dưới tựa vào kim luân. Các vị Bồ tát chứng được tối hậu pháp thân, sắp bước lên quả vị Vô thượng Bồ đề, đều ngồi lên nó. Phát khởi kim cương định, dùng vô dư y và hữu dư y cũng như tất cả lực kiên cố khác để giữ chặt chiếc ghế nầy”. Lại nữa, kinh A Trường Hàm nói: “Phật bảo Tỳ kheo: “Có bốn vị thiên thần của Tứ đại. Là bốn vị nào? Một là Địa thần, hai là Thủy thần, ba là Phong thần, bốn là Hỏa thần. Trong Tứ đại nầy, mỗi đại đều có đầy đủ cả Tứ đại”. Thế nên, Địa thần nảy ra ác kiến, nói: “Trong Địa không có Thủy, Hỏa, Phong!” Bấy giờ Ta biết được vong niệm của Địa thần nầy, liền đến bảo rằng: “Ông thường nảy sinh vọng niệm, bảo rằng trong Địa không có Thủy, Hỏa, Phong chăng?” Địa thần trả lời: “Thật sự trong Địa không có Thủy, Hỏa, Phong!” Bấy giờ, Ta liền bảo rằng: “Ông đừng nảy sinh vọng niệm mà nói thế này: Trong Địa không có Thủy, Hỏa, Phong! Tại sao như thế? Trong Địa vốn có Thủy, Hỏa, Phong. Chẳng qua, vì Địa nhiều hơn, nên được mang tên Đại Địa đấy thôi”. Phật bảo Tỳ kheo: “Ta giúp cho Địa thần ấy trừ bỏ ác kiến, chỉ giáo lợi lạc để chứng được pháp nhãn thanh tịnh. Trong Thủy có Địa, Hỏa, Phong. Trong Hỏa có Địa, Thủy, Phong. Trong Phong có Địa, Thủy, Hỏa. Song Đại đầu tiên nói trên có thành phần nhiều hơn, nên được mang tên đấy thôi!”.

Thứ năm: PHẦN GIỚI LƯỢNG

Theo luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Ngoài biển rất mặn, có núi tên là Thiết Vi, ngập trong nước sâu ba trăm mười hai do tuần rưỡi, nổi lên khỏi mặt nước cũng cao như thế, bề mặt cũng rộng như thế, chu vi ba mươi sáu ức một vạn 3năm mươi do tuần. Từ ranh giới phía Nam Diêm phù đề đến núi Thiết Vi xa ba ức sáu vạn sáu trăm sáu mươi ba do tuần. Từ trung tâm Diêm phù đề đến trung tâm Đông Phất vu đãi xa ba ức sáu vạn sáu trăm do tuần. Từ trung tâm Diêm phù đề đến trung tâm Tây Cù da ni xa ba ức sáu vạn sáu trăm do tuần. Từ ranh giới phía Bắc Diêm phù đề đến Bắc Uất đơn việt xa bốn ức bảy vạn bảy ngàn năm trăm do tuần. Từ bờ biển ở chân núi Thiết Vi đên tận cùng hải phận phía Tây của núi Thiết Vi ước lượng xa khoảng hai mươi ức hai ngàn tám trăm hai mươi lăm do tuần. Chu vi hải phận của núi Thiết Vi là mười sáu ức tám ngàn bốn trăm bảy mươi lăm do tuần. Từ đỉnh núi Tu di nầy đến đỉnh núi Tu di kia xa mười hai ức ba ngàn bốn trăm năm mươi do tuần. Từ trung tâm núi Tu di nầy đến trung tâm núi Tu di kia xa mười hai ức tám vạn ba ngàn bốn trăm năm mươi do tuần. Từ chân núi Tu di nầy đến chân núi Tu di kia xa mười hai ức ba ngàn mười lăm do tuần. Tất cả điều nầy là do đức Phật bảo. (Theo kinh Trường A hàm nói: “Diêm phù đề có lãnh thổ ngang dọc rộng bảy ngàn do tuần. Tây Cù da ni có lãnh thổ ngang dọc rộng tám ngàn do tuần. Đông Phất vu đãi có lãnh thổ ngang dọc rộng chín ngàn do tuần. Bắc Uất đơn việt có lãnh thổ ngang dọc rộng mười ngàn do tuần).

Thứ sáu: PHẦN PHƯƠNG THỔ

Tìm tòi ở các sách Địa lý, con người vốn khác biệt, không giống nhau. Tổng quát có hai loại người: Một là phàm, hai là Thánh. Nếu theo địa phương mà nói, thì có bốn giống người, gọi là người của bốn cõi thế giới. Nếu theo chỗ ở mà nói, trong bốn cõi thế giới gồm có bốn ngàn lẻ tám chỗ, thì có bốn ngàn lẻ tám giống người. Nếu chỉ xét một cõi Diêm phù đề mà nói, thì như kinh Lâu Tán bảo: “Có ba mươi sáu nước lớn, giống người cũng cùng số nầy”. Nếu xem các luận khác, thì có hai ngàn năm trăm nước nhỏ, giống người cũng như vậy. Hơn nữa, trong từng nước một, có ngần này giống người: Hồ, Hán, Khương, Lỗ, Man, Di, Sở, Việt. Mỗi giống người, tùy theo môi trường địa lý dị biết mà có hình dạng khác nhau, không thể nói hết ra đây. Do đó, kinh Lâu Thán có nói: “Chủng tộc của cõi Nam Diêm phù đề nầy sai biệt, gồm có sáu ngàn bốn trăm giống người”. Nhưng chỉ nói gom tổng số, không kể riêng tên của mỗi giống người. Kinh Trường A hàm nói: “Phật bảo Tỳ kheo: “Bốn cõi thế giới nầy có tám ngàn thế giới bao quanh bên ngoài. Lại có biển lớn bao quanh tám ngàn thế giới ấy. Lại có núi Đại Kim Cương bao quanh biển lớn ấy. Ngoài núi Đại Kim Cương này, còn có núi Đại Kim Cương thứ hai. Khoảng cách giữa hai núi nầy sâu xa thâm thẳm. Dù thiên thần nhật nguyệt có uy lực vĩ đại, cũng không thể đem ánh sáng soi chiếu tận tám cõi địa ngục lớn ấy được!”

Thứ nhất là nói về nước Bắc Uất đơn việt. Theo kinh Trường A hàm nói: “Thế giới phía Bắc núi Tu di là nước Uất đơn việt, có lãnh thổ rất vuông, ngang dọc rộng một vạn do tuần. Mặt người cũng vuông vức giống như địa hình ở đấy. Có cây chúa lớn tên là Am Bà La, chu vi bảy do tuần, cao 1 trăm do tuần, cành lá che kín bốn phía năm mươi do tuần. Nước ấy có nhiều núi non, ao tắm, hoa quả tốt tươi, vô số chim chóc ca hót. Đất sinh cỏ mượt, ngả về phía hữu, màu xanh lục biếc như lông chim khổng tước, thơm tho ngào ngạt như mùi Bà sư, dịu dàng như tấm áo trời. Đất ở đấy mềm mại, co dãn được. Lấy chân dẫm xuống, lún sâu bốn tấc, giở chân lên, đất lại trồi lên như cũ. Mặt đất lại bằng phẳng, như lòng bàn tay, không còn chỗ cao thấp. Bốn phía của nước có bốn ao A Nậu Đạt, ngang dọc rộng một trăm do tuần, bờ ao do bảy loại bảo vật tạo thành. Có bốn dòng sông xuất phát từ bốn ao nầy, rộng đến mười do tuần. Trên mặt sông chim chóc hòa ca. Đất ấy không có hang sâu khe hiểm, cây cối gai góc khổ sở, cũng không có muỗi mòng độc hại, trong đất thuần đầy các loại bảo vật. Âm dương điều hòa, bốn mùa thuận tiện, thảo mộc sinh sôi. Không có mùa đông rét buốc, mùa hạ oi nồng. Đất ấy luôn sinh ra giống lúa cho gạo có cám tự nhiên. Không trồng mà mọc, không có vỏ trấu, như chùm hoa trắng muốt. Trông giống như thức ăn trên Trời Đao lợi, có đủ hương vị ngon lành. Đất ấy cũng luôn có loại nồi tự nhiên. Có loại châu quý báu tên là Diệm quang. Đem châu đặt dưới nồi, khi cơm chín thì ánh sáng của châu tự tắt, không cần củi lửa, không phí sức người. Đất ấy có cây tên là Khúc cung, cành lá sắp lớp, trời mưa không thấm nước. Trai gái ở đấy thường nghỉ ngơi dưới tán cây này. Lại có cây Hương cao bảy mươi dặm, hoa quả tốt tươi. Đến khi quả chín, vỏ tự nhiên nứt, mùi hương bay ra. Hoặc có cây lớn cao sáu mươi dặm, hoặc có cây cao năm mươi dặm, cây nhỏ chỉ cao năm dặm. Đến khi quả chín, vỏ tự nhiên nứt, tuôn ra các loại áo quần, hoặc tuôn ra các loại trang sức, hoặc tuôn ra các loại đồ dùng, hoặc tuôn ra các loại thức ăn. Đôi khi đùa giỡn trên sông, có các loại thuyền bằng bảo vật. Khi người dân ở đấy muốn vào trong nước tắm rửa nô đùa, liền cởi y phục bỏ lại trên bờ. Chèo thuyền ra giữa dòng sông, rong chơi thỏa thích. Xong xuôi, rẽ nước lên bờ, gặp được áo quần, mặc lấy tự nhiên. Người lên trước mặt trước, kẻ lên sau mặt sau, không cần tìm đúng áo quần của mình. Sau đó, đến bên cây Hương, cây liền cong xuống, người ấy lấy tay chọn lựa nhạc khí, lên dây và cất tiếng hát du dương, hòa theo tiếng đàn mà đi vào vườn thưởng thúc vui thú. Đất ấy vào nữa đêm, Long vương A Nậu Đạt thường hay cho nổi lên các đám mây thanh tịnh bao quanh thế gian, rồi đổ xuống cơn mưa ngọt ngào, bằng khoảng thời gian vắt xong bầu sữa bò mẹ, đem nước tám công đức tưới thấm chan hòa. Nữa đêm về sáng, bầu trời trong suốt, không có mây che. Mặt biển nổi lên làn gió mát mẻ, thổi nhẹ vào người, khiến toàn thân khoan khoái. Đất ấy được mùa, nhân dân thịnh vượng. Nếu cần ăn uống, lấy gạo thiên nhiên cho vào nồi, đem châu Diệm quang đặt vào phía dưới. Khi cơm vừa chín, ánh sáng của châu tự tắt. Có người tìm thấy, tự nhiên lấy ăn. Chủ nhân nằm yên, cơm không bao giờ hết. Nếu chủ nhân ngồi dậy, cơm sẽ hết liền. Cơm ấy tinh khiết ngon lành, như chùm hoa trắng muốt, mùi vị thơm tho tựa thức ăn trên các cõi Trời, không sinh ra bệnh tật. Sức lực đầy đủ, nhan sắc vui tươi, không chút héo mòn. Con người đất ấy, thân hình dung mạo giống nhau, không thể phân biệt. Nét mặt của người lớn, trông chừng như người Diêm phù đề vào tuổi hai mươi. Người ở đấy, răng mọc đều đặn, trắng tinh, không hở. Tóc xanh hoe đỏ, không dính bụi bặm, rủ xuống tám lóng tay, xòa ngang chân mày, không ngắn không dài. Người ở đấy, khi nổi lòng dục, nhìn say đắm người nữ, rồi lặng lẽ bỏ đi. Người nữ biết ý, đi theo đến chỗ vườn cây. Nếu người nữ thuộc hàng bà con ruột thịt với cha mẹ của người nam thì không thể hành dâm được, cây không uống cong đậy tàn lá lại. Mỗi người lặng lẽ bỏ đi. Nếu không thuộc hàng thân thích bà con, cây Khúc cung liền cong mình đậy tàn lá lại. Hai bên tự do hoan lạc trong một hai ngày, có khi lên đến bảy ngày, rồi hờ hững bỏ nhau ra đi. (Luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Người châu Bắc không hỏi vợ, không rước dâu, không mua bán. Khi người nam muốn lấy vợ, nhìn say người nữ. Khi người nữ muốn người nam, cũng phải nhìn say người nam. Nếu không thấy được người nam nhìn mình, các người nữ khác bảo giúp: “Người nầy nhìn bạn đấy!”, thế là trở thành vợ chồng. Người nam không thấy được người nữ nhìn mình thì các người nam khác bảo giúp: “Người nữ này nhìn bạn đấy!”, thế là trở thành vợ chồng. Nếu hai người cùng nhìn nhau, liền đi theo nhau đến chỗ vắng vẻ. Như người có nhiều dục vọng, trong một đời, lên đến năm lần. Hạng trung bình, hoặc bốn hoặc ba bận. Cũng có người tu hành, đến già không hề hành dục. Người nữ ở đấy, khi mang thai, chỉ dùng thức ăn dở). Người nữ ở đây mang thai chỉ có bảy, tám ngày thì sinh. Dù trai hay gái, đều đem bỏ ở ngã tư đường lớn rồi đi. Gặp các người bộ hành qua lại chỗ ấy, chìa ngón tay cho đứa trẻ bú. Sữa theo ngón tay trào ra, no nê đầy mình đứa trẻ. Bảy ngày sau, đứa trẻ trưởng thành, cao bằng người lớn ở đấy. Nam sống theo đám người nam, nữ sống theo đám người nữ. Người ở đấy khi chết không khóc thương nhau. Tẩm liệm thi thể xong, đem đặt ở ngã tư đường lớn rồi bỏ đi. Có loài chim tên là Ưu úy Thiền già mang thi thể ấy đi nơi khác. (Theo luận Lập Thế nói: “Chim ấy ngoạm lấy mạng thi thể ra ngoài chỗ núi non để ăn thịt). Vả lại, người ở đấy, khi đi đại tiểu tiện, đất liền nứt ra. Đi xong, đất tự khép mặt trở lại. Người ở đấy không có tình thương yêu lưu luyến, cũng không để dành của cải. Có tuổi thọ nhất định. Khi chết sinh lên cõi Trời. Tại sao người ở đây có tuổi thọ nhất định? Vì người ở đấy, kiếp trước tu hạnh Thập thiện. Khi mệnh chung được sinh vào nước Uất đơn việt, hưởng thọ một ngàn tuổi, không tăng không giảm. Thế nên người ở đấy có tuổi thọ bằng nhau. Nếu có người hay úng dường cho các Sa môn, Bà la môn và bố thí cho các trẻ em nghèo khổ đi ăn xin, các người bị bệnh tật hành hạ khổ sở, bằng cách giúp cho áo quần, thức ăn, xe cộ, tràng hoa, sáp thơm, giường sập, phòng ốc hay xây dựng tháp, chùa, cúng dường đèn đuốc. Khi mệnh chung, người ấy sinh vào nước Uất đơn việt, hưởng thọ một ngàn tuổi, không tăng không giảm. Đất ấy không thọ trì Thập thiện, nhưng cư xử tự nhiên, phù hợp với Thập thiện. Khi mệnh chung sinh lên các cõi Trời tốt lành. Thế nên người ở đấy được gọi là Thắng. So với ba cõi kia, nước Uất đơn việt này cao nhất, nên đời Tần dịch nghĩa Uất đơn việt là Tối thượng. Luận Lập Thế nói: “Người dân nước ấy, hết thảy đều có nước da trắng trẻo, trang sức bằng cách để búi tóc xanh đen mướt trên đầu. Chung quanh thường gọt sạch theo kiểu Châu La. Năm ngày sau, tóc tự nhiên mọc lại, rũ ngang xuống bảy lóng tay. Không mọc thêm hay giảm bớt nữa”. Luận Thuận Chánh Lý nói: “Châu Bắc Câu Lô, hình dáng như tòa vuông, ước lượng bốn phía đều bằnh nhau, mỗi mặt hai ngàn”. Đã nói cõi đất ấy vuông, mỗi mặt hai ngàn, thì cũng đủ nghĩa. Bên cõi ấy có hai châu trung gian: một là châu Đoản Bà, hai là châu Kiêu Để Bà. Cả hai châu này đều có người ở”.

Thứ hai là Đông Phất vu đãi. Theo kinh Trường A hàm nói: “Phía Đông núi Tu di có cõi đất tên là Phất vu đãi, có lãnh thổ thật tròn, ngang dọc chín ngàn do tuần. Mặt người cũng tròn trịa giống như địa hình ở đấy. Có cây chúa tên là Già Lam Phù, chu vi bảy do tuần, cao một trăm do uần, cành lá che khắp bốn phía năm mươi do tuần”. Kinh Tạo Thiên Địa nói: “Người ở phương Đông ấy hơn người ở Diêm phù đề. Người ở đấy dùng vải lụa mua bán với nhau”. Theo kinh Trường A hàm nói: “Người ở đấy thọ hai trăm tuổi, ít kẻ có tuổi tho tăng thêm, trái lại, nhiều người có tuổi thọ giảm xuống”. (Kinh Lâu Thán nói: “Người ở đấy thọ ba trăm tuổi”). Họ sống bằng cá thịt. (Kinh Lập Thế nói: “Họ không sát sinh, không nhờ người khác sát sinh. Nếu có sinh vật chết thì đem ăn thịt”). Họ đem lúa gạo, tơ lụa, châu ngọc mua bán với nhau. Có lễ nghi cưới vợ gả chồng. (Kinh Lập Thế nói: “Người Đông Phất bà đề, có kẻ nhiều dục, suốt đời hành dâm bảy lần. Kẻ trung bình tới năm, sáu lần. Cũng có kẻ tu hành, đến chết không hành dâm. Duy ở hai châu Đông Tây, không có người da đen. Ở các châu khác, cũng giống ở Diêm phù đề, thân người có nhiều màu da khác nhau. Người ở đấy trang sức đầu tóc theo lối cắt bớt phía trước, để dài phía sau. Áo trên, áo dưới đều thả xuống. Riêng áo trên may quấn quanh thân mình”). Theo luận Thuận Chánh Lý nói: “Châu Đông Thắng Thân, phía Đông hẹp, phía Tây rộng, ba bên bằng nhau. Hình dáng như nữa vầng trăng.

Phía Đông đo được 353, ba bên còn lại, mỗi bên đo được hai ngàn. Phía Đông của châu ấy, vì rộng ở cực Nam của châu, nên có hình như nữa vầng trăng. Bên châu ấy có hai châu trung gian: một là châu Đề ha, hai là châu Tỳ đề ha. Cà hai châu này đều có người ở”.

Thứ ba là Câu da ni. Theo kinh Trường A hàm nói: “Cõi đất phía Tây núi Tu di tên là Câu da ni. Lãnh thổ ấy có hình dáng tròn như vầng trăng đầy, ngang dọc tám ngàn do tuần. Mặt người cũng tròn đầy giống địa hình ở đấy. Có cây chúa tên là Cân Đề, chu vi bảy do tuần, cao một trăm do tuần, cành lá che khắp bốn phía năm mươi do tuần”. (Kinh Khởi Thế nói: “Dưới gốc cây chúa ấy, có con trâu đá lớn một do tuần. Vì nguyên nhân này nên gọi là Cù đà ni, nghĩa là dùng trâu làm hàng hóa trao đổi”). Người ở đấy thọ ba trăm tuổi, đem trâu ngựa, châu ngọc ra mua bán với nhau. Người ở đấy cũng hơn người ở Diêm phù đề. Luận Lập Thế nói: “Ở đấy, hoặc tự tay sát sinh, hoặc nhờ người khác sát sinh. Sống bằng thịt như người Diêm phù đề. Nếu có thân nhân chết, đưa xác vào núi thiêu, xong rồi bỏ về. Hoặc đổ tro vào sông, hoặc chôn dưới đất, hoặc để giữa đất trống. Sinh hoạt ở hai châu Đông Tây ấy đại khái cũng giống ở Diêm phù đề, hôn lễ cũng giống. Kẻ có nhiều dục, suốt đời hành dâm đến mười hai lần. Kẻ trung bình tới mười lần. Cũng có kẻ tu hành đến chết, không hành dâm. Người ở đấy trang sức theo lối búi tóc, trên dưới mặc áo”. Theo luận Thuận Chánh Lý nói: “Châu Tây Ngưu hóa có hình tròn núc như vầng trăng đầy, đường kính hai ngàn năm trăm, chu vi bảy trăm năm trăm. Bên cạnh có hai châu trung gian: một là châu Hào, hai là châu Ốt Đát La Mạn Lý Noa. Cả hai châu này đều có người ở”.

Thứ tư là Diêm phù đề. Theo kinh Trường A hàm nói: “Cõi đất phía Nam núi Tu di là Diêm phù đề. Lãnh thổ hẹp ở phía Nam, rộng ở phía Bắc, ngang dọc bảy ngàn do tuần. Mặt người cũng giống địa hình ở đấy. Có cây chúa tên là Diêm phù đề, chu vi bảy do tuần, cao một trăm do tuần, cành lá che khắp bốn phía năm mươi do tuần. (Kinh Khởi Thế nói: “Dưới gốc cây chúa này, có đống vàng Diêm phù na Đàn cao hai mươi do tuần. Vì có đống vàng tốt nổi lên dưới gốc cây, nên gọi là vàng của cây Diêm phù na). Lại có cây của chim chúa Kim Sí tên là Câu Lợi Thiểm Bà La, chu vi bảy do tuần, cao một trăm do tuần, cành lá che khắp bốn phía năm mươi do tuần. Chúa A tu la có cây tên là Thiện Tận, chu vi bảy do tuần, cao một trăm do tuần, cành lá che khắp bốn phía năm mươi do tuần. Trời Đao lợi có cây tên là Trú Độ, chu vi bảy do tuần, cao một trăm do tuần, cành lá che khắp bốn phía năm mươi do tuần. Người Diêm phù đề thọ một trăm tuổi. Có nhiều người chết yểu nữa chừng. Lên mười tuổi chưa biết gì, lên hai mươi tuổi thì hơi biết một chút nhưng chưa sáng lắm. Lên ba mươi tuổi thì có nhiều dục vọng. Lên bốn mươi tuổi thì hành động tùy tiện. Lên năm mươi tuổi thì làm việc có nhiều kinh nghiệm. Lên sáu mươi tuổi thì sống hay nuối tiếc. Lên 70 tuổi thì tinh thần và thể chất chậm chạp. Lên tám mươi tuổi thì không chú trọng bề ngoài. Lên chín mươi tuổi thì đau ốm khổ sở. Lên một trăm tuổi thì nguyên khí suy tổn. Cũng có người không sống đủ ba trăm mùa Đông, Hạ, Thu. Không hưởng đủ ba vạn sáu ngàn ngày ăn uống no nê”. Luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Người Diêm phù đề có nhiều loại y phục, trang sức không giống nhau. Có người để tóc dài, chia thành hai búi. Có người cạo sạch tóc râu. Có người chừa lại một búi trên đỉnh đầu, chung quanh cạo sạch, gọi là kiểu tóc Châu La. Có người nhổ trụi tóc râu. Có người cắt bớt tóc râu. Có người bện tóc đuôi sam. Có người hớt tóc ngăn gọn. Có người tỉa trước cắt sau cho tròn. Có người không mặc quần áo. Có người mặc quần áo, che trên lộ dưới, hoặc là che dưới lộ trên, hoặc trên dưới đều che, hoặc chỉ che phía trước, phía sau. Người ở châu này, ăn uống nhiều thứ, không thể kể hết. Về chuyện hôn nhân, mua bán, xem qua hiện trạng, có thể biết rõ”. Nhưng luận ấy bảo rằng: “Người Diêm phù đề, chuyện dục suốt đời, nhiều đến vô lượng, không giống như người ở ba châu còn lại, chuyện dục ít oi. Cũng có người tu hành, suốt đời vô dục”. Theo luận Thuận Chánh Lý nói: “Châu Nam Thiệm Bộ có hai châu trung gian: một là châu Già mạt la, hai là châu Phiệt la già la. Cả hai châu nầy đều có người ở”.

Thứ bảy: PHẦN THÂN LƯỢNG

Theo kinh Lập Thế nói: “Người Diêm phù đề có thân hình ngắn ngủn. Khi lên mười tuổi, thân hình thấp bé, hoặc cao từ hai đến ba vốc tay. Nếu đo thân trưởng thành của họ, thì cũng chỉ cao khoảng tám vốc tay”. Luận Tỳ đàm nói: “Khi người Diêm phù đề sống đến một trăm tuổi, thân mình cao ba tấc rưỡi hoặc bốn tấc”. (Kinh Trường A hàm nói: “Cao ba tấc hoặc không chắc chắn như thế, chỉ nói đại khái mà thôi”). Người Phất bà đề cao tám tấc. Người Cù da ni cao mười sáu tấc. Người Uất đơn việt cao ba mươi hai tấc.

Thứ tám: PHẦN THỌ MỆNH

Như luận Tỳ đàm nói: “Người Diêm phù đề có tuổi thọ không ổn định, chia làm ba hạng: hạng thượng thọ sống một trăm hai mươi lăm tuổi, hạng trung thọ sống một trăm tuổi, hạng hạ thọ sống sáu mươi tuổi. Trong đó, hạng chết yểu nữa chừng nhiều không kể xiết. Vả lại, dựa theo thời kiếp giảm, mới nói có ba hạng này. Nếu căn cứ theo thời Sơ kiếp thì tuổi thọ nhiều vô lượng, có khi lên đến tám vạn bốn ngàn tuổi”. Theo kinh Trường A hàm nói: “Người Diêm phù đề thọ một hai mươi tuổi, kẻ chết yểu nữa chừng cũng nhiều. Người Đông Phất vu đãi thọ hai trăm tuổi. (Kinh Lâu Thán nói thọ ba trăm tuổi). Người Tây Câu da ni thọ ba trăm tuổi. Người Bắc Uất đơn việt thọ một ngàn tuổi. (Người ba châu còn lại đều có kẻ chết yểu nữa chừng. Chỉ có người Bắc Uất đơn việt sống ổn định một ngàn tuổi mà thôi).

Thứ chín: PHẦN Y LƯỢNG

Theo kinh Khởi Thế nói: “Thân hình người Diêm phù đề cao ba tấc rưỡi, mặc áo dài bảy tấc, rộng ba tấc rưỡi. Người Cù đà ni, người Phất bà đề có thân mình và quần áo giống hệt của người Diêm phù đề. Người Uất đơn việt có thân hình cao bảy tấc, mặc áo dài mười bốn tấc, trên bảy tấc, dưới bảy tấc. A tu la có thân hình cao một do tuần, mặc áo dài hai do tuần, rộng một do tuần, nặng nữa khởi lợi sa”. (Đời Tùy dịch là nữa lượng. Các kinh khác nói A tu la có thể trạng lớn nhỏ không nhất định, như A tu la Tỳ bà chất đa cao gấp bốn núi Tu di).

Thứ mười: PHẦN ƯU LIỆT

Kinh Trường A hàm nói: “Phật bảo Tỳ kheo: “Người Diêm phù đề có ba sự kiện hơn người Câu da ni. Là ba sự kiện nào? Một là dũng mãnh nhớ kỹ, thường tạo hạnh nghiệp. Hai là dũng mãnh nhớ kỹ, siêng tu phạm hạnh. Ba là dũng mãnh nhớ kỹ, Phật sinh ở đấy.

Người Câu da ni có ba sự kiện hơn người Diêm phù đề. Là ba sự kiện nào? Một là nhiều trâu, hai là nhiều dê, ba là nhiều châu ngọc.

Người Diêm phù đề có ba sự kiện hơn người Phất vu đãi. Là ba sự kiện nào? Một là dũng mãnh nhớ kỹ, thường tạo hạnh nghiệp. Hai là dũng mãnh nhớ kỹ, siêng tu phạm hạnh. Ba là dũng mãnh nhớ kỹ, Phật sinh ở đấy.

Người Phất vu đãi có ba sự kiện hơn người Diêm phù đề. Là ba sự kiện nào? Một là đất ấy rất rộng, hai là đất ấy rất lớn, ba là đất ấy rất đẹp. Người Diêm phù đề có ba sự kiện hơn người Uất đơn việt. Là ba sự kiện nào? Một là dũng mãnh nhớ kỹ, thường tạo hạnh nghiệp. Hai là dũnh mãnh nhớ kỹ, thường tu phạm hạnh. Ba là dũng mãnh nhớ kỹ, Phật sinh ở đấy. Người Uất đơn việt lại có ba sự kiện hơn người Diêmphù đề. Là ba sự kiện nào? Một là không bị lệ thuộc, hai là không có tư hữu, ba là có tuổi thọ nhất định một ngàn tuổi. Người Diêm phù đề cũng lấy ba sự kiện nói trên để hơn loài ngạ quỷ. Loài ngạ quỷ cũng có ba sự kiện hơn người Diêm phù đề. Là ba sự kiện nào? Một là trường thọ, hai là thân lớn, ba là người làm mình chịu. Người Diêm phù đề cũng lấy ba sự kiện nói trên để hơn loài chim Kim sí. Loài chim Kim sí lại có ba sự kiện hơn người Diêm phù đề. Là ba sự kiện nào? Một là trường thọ, hai là mình lớn, ba là có cung điện.

Người Diêm phù đề lấy ba sự kiện nói trên để hơn loài A tu la. Loài A tu la lại có ba sự kiện hơn người Diêm phù đề. Là ba sự kiện nào? Một là cung điện cao rộng, hai là cung điện trang nghiêm, ba là cung điện thanh tĩnh.

Người Diêm phù đề lấy ba sự kiện nói trên để hơn Trời Tứ thiên vương. Trời Tứ thiên vương lại lấy ba sự kiện nói trên để hơn người Diêm phù đề. Là ba sự kiện nào? Một là trường thọ, hai là đoan chánh, ba là nhiều an vui.

Người Diêm phù đề cũng lấy ba sự kiện nói trên để hơn các Trời Đao lợi, Trời Diệm ma, Trời Đâu suất, Trời Hóa lạc, Trời Tha hóa tự tại. Chư Thiên này lại có ba sự kiện hơn người Diêm phù đề. Là ba sự kiện nào? Một là trường thọ, hai là đoan chánh, ba là nhiều an vui”.

II. CHƯ THIÊN

Có hai mươi hai phần: Biện vị, Hội danh, Nghiệp nhân, Thọ sinh, Giới lượng, Thân lượng, Y lượng, Thọ lượng, Trụ xứ, Quảng hiệp, Trang sức, Tấu thỉnh, Thông lực, Thân quang, Thị dịch, Hôn lễ, Ẩm thực, Bộc thừa, Quyến thuộc, Quý tiện, Bần phú, Tống chung.

Thứ nhất: PHẦN BIỆN VỊ

Như trong luận Bà sa nói: “Trời có ba mươi hai loại: dục giới có mười loại, sắc giới có mười tám loại, vô sắc giới có bốn loại. Gộp lại thành ba mươi hai loại Trời vậy.

+ Thứ nhất là mười loại Trời của dục giới: một là Trời Thiên thủ, hai là Trời Trì hoa man, ba là Trời Thường phóng dật, bốn là Trời Nhật nguyệt tinh tú, năm là Trời Tứ thiên vương, sáu là Trời Tam thập tam (gọi chung là Trời Đao lợi), bảy là Trời Viêm ma, tám là Trời Đâu suất đà, chín là Trời Hóa lạc, mười là Trời Tha hóa tự tại. (Trời Nhật nguyệt tinh tú ở đầu và bốn Trời ở sau, tất cả năm Trời này đều cư trú giữa không trung. Các Trời Thiên thủ, Trì hoa man, Phóng dật, Tứ thiên vương, Đao lợi, tất cả năm Trời này đều cư trú trên núi. Tại phần thứ chín Trụ xứ, có nói đầy đủ).

+ Thứ hai là sắc giới có mười tám Trời. Trong cõi Sơ Thiền có ba Trời: một là Trời Phạm chúng, hai là Trời Phạm phụ, ba là Trời Đại phạm. (Trời Đại phạm này không có chỗ ở riêng, song Trời Phạm phụ có lâu đài, nguy nga hoành tráng, Thiên vương Đại phạm một mình ngự trên đó, để phân biệt với quần thần. Trong ba Trời nầy, Trời Phạm chúng là thứ dân, Trời Phạm phụ là quần thần, Trời Đại phạm là vua. Chỉ ở cõi Sơ thiền này mới có sự phân biệt quân thần. Từ đây trở lên hết thảy đều không có như thế). Trong cõi Nhị Thiền lại có ba Trời: Một là Trời Thiểu quang, hai là Trời Vô lượng quang, ba là Trời Quang Âm. Trong cõi Thứ ba Thiền, cũng có ba Trời: Một là Trời Thiểu tịnh, hai là Trời Vô lượng tịnh, ba là Trời Biến tịnh. Riêng trong cõi Đệ tứ Thiền cũng có 9 Trời: một là Trời Phước sinh, hai là Trời Phước ái, ba là Trời Quảng quả, bốn là Trời Vô tưởng (Trời Vô tưởng này không có chỗ ở riêng, chỉ ở cùng chỗ với Trời Quảng quả. Do đây là ngoại đạo cư trú, nên chia thành hai tên khác nhau), năm là Trời Vô phiền, sáu là Trời Vô nhiệt, bảy là Trời Thiện hiện, tám là Trời Thiện kiến, chín là Trời Sắc cứu cánh (cũng gọi là Trời A ca nị tra).

+ Thứ ba là vô sắc giới cũng có bốn Trời: một là Trời Không xứ, hai là Trời Thức xứ, ba là Trời Vo sở hữu xứ, bốn là Trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ (như thế gọi là Tam giới, gồm có ba mươi hai loại Trời).

Hỏi: “Chưa rõ trong ba mươi hai cõi Trời nầy, có bao nhiêu cõi phàm, bao nhiêu cõi Thánh?”. Đáp: “Chỉ có hai cõi phàm, năm cõi Thánh. Trong hai mươi lăm cõi còn lại, phàm Thánh ở chung. Hai cõi được gọi chỉ có kẻ phàm ở là: một là Trời Đại phạm của Sơ Thiền, hai là Trời Vô tưởng trong Tứ Thiền, là chỗ cư trú chỉ dành cho kẻ ngoại đạo”.

Hỏi: “Vì sao hai cõi nầy chỉ có kẻ phàm ở?”.

Đáp: “Vì Thiên vương Đại phạm không thấu đạt nghiệp nhân, nên phát ngôn: “Ta có khả năng tạo dựng tất cả trời đất chúng sinh”. Ỷ thị vào sự ngã mạn này mà khinh miệt tất cả Thánh nhân, nên chẳng ở chung với họ. Hơn nữa, trong Trời Vô tưởng, chỉ có kẻ ngoại đạo tu tập định vô tưởng, nên sinh vào đấy, hưởng thọ phước báo năm trăm kiếp vô tâm. Kẻ ngoại đạo ấy không thấu đạt, cho đây là Niết bàn. Đến khi phước báo đã hết, tất nhiên nảy sinh tà kiến, lại sinh vào địa ngục. Vì lý do này, tất cả Thánh nhân đều không sinh vào đấy. Năm cõi được gọi chỉ có Thánh nhân cư trú là năm Trời Tĩnh cư, kể từ Trời Quảng quả trở lên các trời Vô phiền, Vô nhiệt, là chỗ cư trú của các bậc A na hàm, La hán. Nếu kẻ phàm muốn sinh vào đấy, phải nhắm đạt đến pháp thân A na hàm, chứng được Tứ Thiền, phát trí vô lậu, hun đúc Thiền nghiệp, tu luyện một phẩm cho đến năm phẩm, mới được sinh vào đấy. Kẻ phàm phu vì không huân tập Thiền nghiệp, nên không sinh vào đấy.

Nếu nói A na hàm sinh vào cõi ấy thì đúng lý, khỏi phải nghi ngờ”. Vậy hỏi: “A la hán đã là bậc vô sinh, vì sao lại nói sinh vào cõi ấy?”.

Đáp: “Điều này có nghĩa rằng từ dục giới, A na hàm nhờ sinh vào đấy mà chứng quả A la hán, chứ không có nghĩa rằng trước đã là A la hán mới sinh vào đấy. hai mươi lăm cõi Trời còn lại, Thánh phàm cùng ở chung, không nói cũng đã rõ”. Nếu căn cứ hoàn toàn theo giáo lý Đại Tiểu thừa, thì gồm có bốn Trời, nên kinh Niết bàn nói: “Có bốn loại Trời: một là Thế gian thiên, hai là Sinh thiên, ba là Tịnh thiên, bốn là Nghĩa thiên. Thế gian thiên là như các quốc vương. Sinh thiên là từ Trời Tứ thiên vương đền Trời Phi tưởng vô tưởng. Tĩnh thiên là từ Tu đà hoàn đến Bích chi Phật . Nghĩa thiên là Thập trụ Bồ tát ma ha tát. Vì sao Thập trụ Bồ tát gọi là Nghĩa thiên? Vì thường hiểu rõ nghĩa lý các pháp, thấy rõ tất cả các pháp đều có nghĩa không”.

Thứ hai: PHẦN HỘI DANH

Thứ nhất là Tứ thiên vương. Theo kinh Trường A hàm nói: “Thiên vương ở phương Đông tên là Đa la tra, nghĩa là Chúa trị nước (luận Trí Độ gọi là Đề Đầu Lại Tra), thống lãnh Càn thát bà và các thần tướng và Tỳ xá xà, hộ vệ nhân dân nước Phất bà đề khỏi bị xâm lăng. Thiên vương ở phương Nam tên là Tỳ lưu ly, nghĩa là Chúa sinh trưởng (luận Trí Độ gọi là Tỳ lâu lặc xoa), thống lãnh các thần Cưu bàn trà và Bệ lệ, hộ vệ nhân dân nước Diêm phù đề. Thiên vương ở phương Tây tên là Tỳ lưu bát xoa, nghĩa là chúa lời dữ (luận Trí Độ gọi là Tỳ lâu bát xoa), thống lãnh tất cả loài Rồng và Phú đơn na, hộ vệ nhân dân nước Cù da ni. Thiên vương ở phương Bắc tên là Tỳ sa môn, nghĩa là chúa kiến thức, thống lãnh các Dạ xoa và La sát, hộ vệ nhân dân nước Uất đơn việt”. Luận Trí Độ nói: “Thiên Đế thích, đầy đủ theo Phạm âm, phải nói là Đề bà na nhân. Thích Ca là Năng (đời Tần dịch), Đề bà là Thiên, Nhân là chúa. Gộp lại mà nói, là Năng Thiên Chúa nghĩa là Thiên chúa tài năng. Tu dạ ma thiên là Diệu thiện (đời Tần dịch). Đâu suất đà là Diệu túc (đời Tần dịch). Tu niết mật đà là Hóa lạc (đời Tần dịch). Bà xá bạt đề là Tha hóa tự tại thiên (đời Tần dịch). Phạm Thiên vương tên là Thi khí (đời Tần dịch là Đại đỉnh, các đời khác dịch là Đại khí). Thủ đà bà thiên là Tĩnh cư thiên”. (Đời Tần dịch. Vả lại theo luận Trí độ chỉ giải thích các Trời chính, số trời ngoài đây ra thì các tên đều được nói đầy đủ trong luận Bà sa hiềm vì văn từ phức tạp, nên không thể chép lại tất cả). Kinh Trung A hàm nói: “Bấy giờ, có Tỳ kheo xa lạ, tìm đến chỗ Phật, dập đầu lạy dưới chân Ngài, rồi lui ra đứng xa, bạch Phật rằng: “Thưa Thế tôn, vì nguyên nhân nào, gọi là Thích đề hoàn Nhân?”. Phật bảo Tỳ kheo ấy: “Thích đề hoàn Nhân, khi còn làm người, vốn thường hay bố thí cho các Sa môn, Bà la môn nghèo nàn khổ sở, các thứ đồ ăn uống, tiền của, đèn đuốc. Vì có khả năng nhẫn nhịn bố thí như thế, nên gọi tên là Thích đề hoàn Nhân”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là Phú lan đà la?”. Phật bảo: “Người ấy, khi còn làm người, thường thường bố thí các thứ áo quần, chăn màn, đồ ăn thức uống, cho đến cả đèn đuốc, nên gọi tên là Phú lan đà la”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là Ma ha bà?”. Phật bảo: “Người ấy, khi còn làm người, tên là Ma già bà, tức là lấy quê quán đặt tên”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là Ta bà bà?”. Phật bảo: “Người ấy, khi còn làm người, lấy áo Bà săn của chính mình bố thí cúng dường, nên gọi là Ta bà bà”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là Kiêu thi ca?”. Phật bảo: “Vốn khi còn làm người, người ấy mang họ Kiêu thi ca, nên gọi tên như thế”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là Xá chi bát đê?”. Phật bảo: “Vị Xá chi ấy là hoàng hậu thứ nhất của Thiên Đế thích”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là Thiên nhãn?”. Phật bảo: “Vốn khi còn làm người, người ấy thông minh, trí tuệ. Vừa đặt mình ngồi xuống, đã suy nghĩ ra ngàn ý nghĩa khác nhau, quan sát thấu đáo, ước lượng chính xác, nên gọi tên như thế”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là Nhân đề lợi?”. Phật bảo: “Vì Thiên Đế thích là chúa tể của ba mươi hai chư Thiên”. Phật lại bảo Tỳ kheo ấy: “Nhưng Thích đề hoàn nhân ấy, khi còn làm người, đã thọ trì bảy điều, nên được trở thành Thiên Đế thích. Là những điều gì? Ấy là từ cúng dường cha mẹ cho đến bố thí rộng rãi khắp chúng sinh, như kinh kệ nói, nên được làm Thiên Đế thích”.

Thứ ba: PHẦN NGHIỆP NHÂN

Hỏi: “Tạo nghiệp nào sinh ra báo ứng ở Lục đạo?”. Trả lời rằng là theo luận Trí Độ nói: “Nghiệp báo của Lục đạo không ngoài phạm vi thiện ác. Mỗi thứ đều có ba phẩm là thượng, trung, hạ. Thượng phẩm sinh vào trời, trung phẩm inh vào người, hạ phẩm sinh vào bốn ác đạo”.

Nếu y theo nghĩa này, chỉ cần thượng phẩm thiện cũng đủ sinh vào cõi Trời, không phân chia Tán, Định riêng biệt hay sao? Nếu y theo trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt, thấy có nói cụ thể làm Thập thiện được sinh vào Thiên đạo, và có phân chia riêng biệt Định, Tán ở Tam giới. Kinh ấy nói: “Lại có Thập thiện, khiến chúng sinh thọ báo ứng ở Trời dục giới, tụ tập đầy đủ tăng thượng pháp Thập thiện thì thọ báo ứng được sinh vào Trời dục giới. Đó là tán Thiện nghiệp ở dục giới tán. Lại có bốn nghiệp, thường khiến chúng sinh thọ báo ứng ở Trời Vô sắc giới. Một là nghĩa vượt qua hết thảy sắc tưởng, diệt hết thảy hữu đối tưởng, nhập vào không xứ định. Hai nghĩa là vượt qua hết thảy không xứ định, nhập vào thức xứ định. Ba nghĩa là vượt qua hết thảy thức xứ định, nhập vào vô sở hữu xứ định. Bốn nghĩa là vượt qua hết thảy vô sở hữu xứ định, nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Nhờ bốn nghiệp nầy, thọ được báo ứng của vô sắc giới. Nếu thế, ở cõi vô sắc này, tại sao không nói đến Thập thiện nghiệp? Phải nói rằng ở cõi này là vô sắc báo ứng tạp sắc để tu phép xa lìa hai nghiệp thân khẩu. Thế nên, căn cứ vào địa vị, chỉ nói bốn nghiệp mà không nói đến Thập thiện. Tuy nhiên, những điều nói trên, đều do Phật phân biệt nghiệp báo nhân quả tương đương, không sai biệt.

Nếu theo kinh Thiện Giới nói, thì tăng giữ hai trăm năm mươi giới, ni giữ ba trăm bảy mươi tám giới, cũng chính là Thiện nghiệp để sinh vào cõi Trời. Thế nên kệ trong luật Tứ Phần nói:

“Người sáng thường giữ giới,

Thường được ba điều vui,

Danh dự và lợi lạc,

Chết được sinh lên Trời”.

Đó là căn cứ vào Trời Dục giới mà nói. Hơn nữa, theo kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Hoặc nhờ giữ giới, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, do ba Thiện nghiệp này, cũng được sinh vào cõi Trời”. Đó cũng là sinh vào cõi Trời Dục giới, Trời Sắc giới. Nói nhân ở thời khác nữa, nên không phải khư khư ôm vào ba Thiện nghiệp này liền được sinh vào cõi Trời. Như kinh Ôn Thất nói: “Có vị Tăng nát rượu, khi sạch nghiệp, cũng được sinh vào cõi Trời và hưởng phước báo ở Thượng giới”. Đây cũng ý nói còn có nhân ở thời khác nữa, chứ không đưa ra các vị Tăng nát rượu nhờ tán thiện, đều được sinh vào Thượng giới. Nhưng chỉ là báo ứng của Trời Dục giới. Lại nữa, như kinh Niết Bàn nói: “Có bà mẹ hiền, vì muốn cứu đứa con chết đuối trên sông Hằng, nên cả hai mẹ con đều chết, đượcsinh vào cõi Phạm Thiên”. Đấy cũng chỉ là lòng nhân từ của tán tâm, chẳng có chút định nào hỗ trợ cả, làm sao được sinh vào cõi Trời? Đấy chỉ nên căn cứ ở nhân xa xưa, chẳng phải chỉ khư khư ở lòng nhân từ của tán tâm liền được sinh vào cõi Trời. Lại như một lần nghe qua kinh Niết Bàn mà không đọa vào bốn ác đạo, thì cũng có ý nghĩa như trên. Bởi vậy kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Nếu thân không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, miệng không nói dối, thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói ác độc, giữ được bảy giới này, thì được sinh vào cõi Trời Tứ thiên vương. Nếu thường giữ được bảy giới thì được sinh vào Trời Hóa lạc. Sự báo ứng này có ba phẩm, đó là thượng, trung, hạ. Nếu giữ giới không sát sinh, thì được sinh vào Trời Tứ thiên vương. Nếu giữ giới không sát sinh, không trộm cắp, thì được sinh vào Trời Tam thập tam. Nếu giữ giới không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm thì được sinh vào Trời Dạ ma. Nếu giữ giới không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói ác độc, thì được sinh vào Trời Đâu suất đà. Thọ trì giới thế gian, tin tưởng phụng trì giới Phật. Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói ác độc, thì được sinh vào các Trời Hóa lạc, Trời Tha hóa tự tại”. Lại nữa, kinh Trường A hàm nói: “Từ trước ở nơi cửa Phật, thanh tịnh tu trì Phạm hạnh, ở đời này sau khi mệnh chung thì được sinh vào Trời Đao lợi, khiến cho các Trời ấy tăng thêm năm điều phước đức: một là Thiên thọ, hai là Thiên sắc, ba là Thiên danh xưng, bốn là Thiên lạc, năm là Thiên uy đức”. Kinh Tạp A hàm nói: “Bấy giờ, Phật bảo Tỳ kheo: vào thời quá khứ, ở nước Câu Tát La có người chơi đàn tên là Lộc Ngưu du hành trong nước Câu Tát La ấy và nghỉ ngơi giữa chỗ hoang vắng. Có sáu thiên nữ ở Thiên cung vĩ đại hiện xuống chỗ người chơi đàn và bảo rằng: “Ông ơi! Ông ơi! Đàn lên cho chúng tôi nghe, chúng tôi sẽ ca múa cho mà xem!”. Lộc Ngưu nói rằng: “Phải đấy, các tỉ muội! Tôi sẽ đàn cho các tỉ muội nghe, nhưng các tỉ muội phải nói tôi là ai, vì sao sinh xuống thế gian này”. Các Thiên nữ đáp rằng: “Xin ông cứ đàn lên, chúng tôi sẽ ca múa. Trong lời ca, sẽ nói lên vì sao ông sinh xuống thế gian này”. Người ấy liền chơi đàn. Sáu thiên nữ ấy lập tức ca múa theo tiếng đàn.

Thiên nữ thứ nhất ca bài kệ:

“Kẻ nam người nữ nào,
 Bố thí áo rất đẹp.
 Vì nhân duyên cho áo,
 Được sinh chỗ rất tốt.
 
Bố thí vật yêu thích,
Sinh vào Trời theo ý.
Xem ta ở cung điện,
Cưỡi hư không rong chơi.
 
Thân Trời như vàng đúc,
Đứng đầu trăm Thiên nữ.
Xem kỹ phước đức này,  
Đứng đầu mọi hồi hướng”.

 Thiên nữ thứ hai lại ca bài kệ tiếp theo:

“Kẻ nam người nữ nào,
 Bố thí hương rất thơm.
 Bố thí của yêu thích,
 Sinh vào Trời theo ý.
 Xem ta ở cung điện,
 Cưỡi hư không rong chơi.
 
Thân Trời như vàng đúc,
Đứng đầu trăm Thiên nữ.
Xem kỹ phước đức này,  
Đứng đầu mọi hồi hướng”.

Thiên nữ thứ ba lại ca bài kệ tiếp theo:

“Kẻ nam người nữ nào,
Đem thức ăn bố thí. 
Bố thí thứ yêu thích,
Sinh vào Trời tùy ý.
Xem ta ở cung điện,
Cưỡi hư không rong chơi.
 
Thân Trời như vàng đúc,
Đứng đầu trăm Thiên nữ.
Xem kỹ phước đức này,  
Đứng đầu mọi hồi hướng”.

Thiên nữ thứ tư lại ca bài kệ tiếp theo:

“Nhớ lại thuở tiền kiếp,
 Từng làm tôi tớ người.
 Không trộm cắp, tham lam,
 Tu hành không lười biếng.
 Nhịn ăn, tự dằn mình,
 Chia cơm, cứu kẻ khó. 
 Nay được ở cung điện,  
 Cưỡi hư không rong chơi. 
Thân Trời như vàng đúc,
 Đứng đầu trăm Thiên nữ.
 Xem kỹ phước đức này,  
 Đứng đầu mọi hồi hướng”.
 
Thiên nữ thứ năm lại ca bài kệ tiếp theo:

“Nhớ lại thưở tiền kiếp,
Sống làm vợ người ta.
Cha mẹ chồng tính ác,
Thường buông lời nặng nề.
Giữ trọn đạo làm vợ,
Khiêm cung ráng thuận hòa.
Nay được ở cung điện,
Cưỡi hư không rong chơi.
Thân Trời như vàng đúc,
Đứng đầu trăm Thiên nữ.
Xem kỹ phước đức này,
Đứng đầu mọi hồi hướng”.
 
Thiên nữ thứ sáu lại ca bài kệ tiếp theo:

"Nhớ xưa gặp bộ hành,
 Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
 Cận kề nghe thuyết pháp,
 Trai giới một ngày đêm.
 Nay được ở cung điện,
 Cưỡi hư không rong chơi.
Thân Trời như vàng đúc,
 Đứng đầu trăm Thiên nữ.
 Xem kỹ phước đức này,
 Đứng đầu mọi hồi hướng”.
 
Bấy giờ người chơi đàn Lộc Ngưu của nước Câu Tát La bèn hát bài kệ rằng:

“Tôi nay may đến đây,
 Trong rừng Câu tát la.
 Được gặp các Thiên nữ,
 Hiện đủ thiên thân đẹp.
 Đã gặp và đã nghe,
 Phải tu thêm Thiện nghiệp.
 Nhờ công tu từ nay,
 Cũng được sinh cõi Trời”.
 
Tiếng kệ vừa xong, các thiên nữ biến mất,  không thấy được nữa”.

Thứ tư: PHẦN THỌ SINH

Thứ nhất là Trời Tứ thiên vương thọ sinh: Theo các kinh Trường A hàm và luận Trí Độ, Trời Tứ thiên vương đều có hôn nhân, hành dục như người thường, nhưng sinh ra theo lối hóa sinh. Từ trên đầu gối sinh ra, đã lớn như trẻ con hai tuổi. Theo luận Thuận Chánh Lý nói: “Như trẻ con năm tuổi”. (Các kinh khác nói: “Nam sinh ngồi trên đầu gối phải của mẹ, nữ sinh trên đầu gối trái của mẹ”). Chẳng bao lâu, đã biết đói khát. Tự nhiên hiện ra các vật quý đựng đầy thức ăn, đủ mỹ vị. Nếu trời có nhiều phước đức, thức ăn toàn màu trắng tinh. Phước đức trung bình thì màu xanh. Phước đức kém thì màu đỏ. Nếu khát thì có vật quý đựng nước cam lồ. Cũng có ba màu khác nhau như của thức ăn. Uống vào miệng không lưu giữ như sữa mật ném vào lửa (tan ngay). Ăn uống xong, Trời trưởng thành như chư Thiên. Khi mới sinh ra, Trời nhớ lại được nghiệp tiền kiếp. Khi biết chơi đùa, khả năng này biến mất.

Thứ hai là Trời Đao lợi thọ sinh: Theo kinh Tỳ Da Bà Tiên Nhân Vấn Phật nói: “Các đại Tiên phải biết rằng Trời Tam thập tam đang đi rong chơi hưởng dục, bỗng gặp các thiên nam, thiên nữ trong rừng cây, cùng ngồi một chỗ, lòng thích lạc thú ái ân, liền sinh vào đấy. Như luồn dây xâu ngọc, rút dây thì ngọc chạy theo, Trời không sinh vào đường khác. Ngay khi thọ sinh, ở tay thiên nữ bỗng hiện ra đóa hoa. Thấy xong, thiên nữ biết mình đã có con, liền cầm đóa hoa đưa cho thiên nam và nói: “Nếu nay có con, thật đáng vui mừng!”. Thiên nam thấy xong, vui mừng tăng lên, biết rằng vợ mình có được đồng tử nhà Trời. Cả hai đều rất vui mừng. Đủ một tuần, đồng tử tóc dài phất phơ, trong trắng không bợn, có cả áo trời. Trong tuần đầu ấy, đồng tử nhớ lại được từ chỗ nào ta giáng sinh xuống cõi Trời này, ai là cha mẹ của ta, ta đã làm nghiệp thiện. Lòng rất vui mừng! Vui mừng xong, liền nao nức muốn đến ngay chỗ ấy, như voi hăng đi. Tay tựa vòi voi, tròn lớn thon dài. Bụng thật bằng phẳng, tay ánh sắc vàng. Thân trên thân dưới lớn, thân giữa thon thả. Bước đi cẩn trọng, nội tâm dũng mãnh. Eo như chuôi cung, lưng thật ngay thẳng. Hai đùi hồng hào tròn trịa như thân vây chuối. Theo đúng cốt cách nhà Trời, râu ria gọn mảnh, tỏa hương rất thơm. Móng vảy hồng, mỏng. Thân thể thơm tho tinh khiết. Trời không có ý điểm tô trang sức, chỉ cốt giữ gìn thân thể không sinh bệnh tật. Từ trong cung điện của Trời ấy, các Thiên nữ độc thân, các đồng tử tuần tự bước ra, tất cả đều đứng vây quanh Trời nầy và nói: “Đức Thánh đến thật là đúng lúc! Đây chính là cung điện của Ngài. Chúng tôi không có chồng, lâu nay xa lạ đường chồng. Ở đây chỉ toàn đồng tử. Chúng tôi nay còn thơ ngây, sắc đẹp đầy đủ, nguyên vẹn cúng dường. Ngực như bình vàng, mặt thắm tươi như hoa sen mới nở, sáng láng như tia chớp trong mây, đoan trang khả ái. Chúng tôi là Thiên nữ, xin dâng hiến cúng dường, vâng lời sai bảo ở chỗ vui chơi này”. Thế là các thiên nữ đều đến cận kề bên Trời ấy dâng hiến cúng dường. Cõi Trời Tam thập tam ấy có Thiện pháp đường làm nơi Thiên chúng tụ họp, gồm tám vạn bốn ngàn cây cột làm bằng các loại bảo vật. Người vào đó không bị tai hại do các loại muỗi mòng đốt phá, không gặp các tật xấu ngủ nghê trễ nãi, cau có khó khăn. Trái lại, ở đó có vô số trăm ngàn thiên nữ háo hức lòng dục cười đùa, không hề có các thói xấu ghen tuông, cãi vã. Các thiên nữ có đôi má trong sáng không bợn, như vầng gương trăng. Theo phép thiên nữ, dùng phấn hương nhiều màu tô điểm lên má để trang điểm mặt mày. Các thiên nữ cất tiếng ca hát, cùng nhau vui chơi”.

Kinh Khởi Thế nói: “Vị ấy ở trong cõi Trời, hoặc từ thiên nam, hoặc từ thiên nữ, hoặc từ chỗ ngồi, hoặc từ trong hai đầu gối, hoặc từ giữa hai đùi, bỗng nhiên sinh ra. Khi vừa lọt lòng, đã giống trẻ con ở nhân gian chừng 12 tuổi. Nếu là thiên nam, thì từ chỗ ngồi hay bên đầu gối của thiên tử, chọn một chỗ để sinh ra. Khi đã ra đời, vị thiên tử ấy liền gọi rằng: “Đây là con của ta!”. Từ lúc sơ sinh, nhờ ở nghiệp lực, vị ấy có được ba loại hoài niệm: một là biết được chỗ nào chết đi, hai là biết được nay sinh vào cõi Trời này, ba là do tiền kiếp ấy mà có nghiệp quả này, phước báo này. Nhớ lại như thế xong, liền muốn ăn uống. Lập tức, trước mặt có các vật quý tự nhiên đựng đầy mỹ vị Tu đà của trời với nhiều màu sắc khác nhau. Nếu phước báo nhiều, các vật quý đựng mỹ vị Tu đà có màu trắng tinh. Phước báo vừa, có màu hơi đỏ. Phước báo ít, có màu hơi đen. Vị thiên tử mới này lấy tay cầm mỹ vị Tu đà tự nhiên cho vào miệng, liền tiêu tan dần, như sữa bỏ vào lửa đỏ, thì sẽ tiêu tan mất, chẳng còn lại chút bóng dáng gì. Nếu có lúc khát, lập tức trước mặt hiện ra đồ đựng quý chứa đầy rượu Trời. Tùy theo ba phẩm phước báo thượng, trung, hạ mà có màu trắng, đỏ, đen khác nhau, nói gọn theo trên. Uống vào là tiêu mất, cũng như đã nói ở trên. Ăn uống xong xuôi, thân thể liền trưởng thành. Lớn, nhỏ, cao, thấp bằng các thiên nam, thiên nữ kỳ cựu, chẳng có gì khác biệt. Các thiên nam, thiên nữ mới này, thân thể đã sung mãn, mỗi người tùy theo sở thích, hoặc đến hoa viên xem cây cối. Tự nhiên, có nhiều loại y phục, chuỗi ngọc, tràng hoa, thức ăn, nhạc khí hạ xuống, vừa tầm tay lựa chọn, nhiều không kể xiết. Các thiên nữ vào trong vườn này, chưa từng thấy được cảnh tượng như thế, nhờ nghiệp lực quen, rạch ròi phân minh, nhớ lại chuyện kiếp trước, rõ ràng như xem chỉ tay. Do thấy các thiên nữ mê đắm vật sắc, chánh niệm giác trí này liền biến mất. Đã mất khả năng nhớ lại tiền kiếp, lại còn tiêm nhiễm thị dục hiện tại, các thiên nữ chỉ còn buông lời: “Ở đây đều là thiên nữ ngọc ngà, thiên nữ ngọc ngà! Đấy gọi là bị ái dục trói buộc”.

Luận Thuận Chánh Lý nói: “Chư Thiên khi mới ra đời, thân lượng ra sao? Thế này, chư Thiên cõi Lục dục, khi sơ sinh, lớn bằng trẻ con từ hai, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười tuổi. Sinh xong, thân lượng nhanh chóng tròn trịa đầy đặn. Thiên chúng ở Trời sắc giới, khi sơ sinh, thân lượng tròn trịa, đủ cả áo trời đep đẽ. Tất cả chư Thiên đều nói tiếng Thánh, vì tiếng ấy giống tiếng ở Trung Ấn, nhưng chư Thiên không cần học vẫn thông hiểu ngôn từ”.

Thứ năm: PHẦN GIỚI LƯỢNG

Theo kinh Lập Thế nói: “Dưới chân núi Tu di là chỗ ở của chư Thiên. Có ba cấp khác nhau: cấp thứ nhất, ngang dọc bằng nhau, rộng sáu mươi do tuần. Cấp thứ hai, ngang dọc bằng nhau, rộng bốn mươi do tuần. Cấp cao nhất, ngang dọc bằng nhau, rộng hai mươi do tuần. Mỗi cấp đều có bảy lớp tường rào chung quanh. Thậm chí có đủ các loại chim, mỗi loài đều cất tiếng hát tuyệt diệu, không thiếu âm hưởng nào. Trong ba cấp này đều có Dạ xoa cư trú. Giữa chừng núi Tu di, cao bốn vạn hai ngàn do tuần, có cung điện do Tứ thiên vương cư trú. Trên đỉnh núi Tu di có cung điện của Trời Tam thập tam, do Đế thích cư trú. Trên Trời Tam thập tam một đỗi (khoảng cách giữa chừng đến đỉnh núi Tu di), có Trời Dạ ma. Lại thêm một đỗi nữa, có Trời Đâu suất. Lại thêm một đỗi nữa, có Trời Hóa lạc. Lại thêm một đỗi nữa, có Trời Tha hóa tự tại. Trên Trời Tha hóa tự tại, lại thêm một đỗi nữa có Trời Phạm thân. Trong khoảng phía dưới của Trời nầy, có cung điện của Ba tuần La ma. Trên Trời Phạm thân một đỗi, có Trời Quang Âm. Trên Trời Quang Âm một đỗi nữa thì có Trời Biến tịnh. Trên Trời Biến tịnh một đỗi thì có Trời Quảng quả. Trên Trời Quảng quả một đỗi thì có Trời Bất thô. Dưới khoảng Trời Bất thô này, đặc biệt có cung điện do chư Thiên cư trú, tên là chúng sinh vô tưởng. Trên Trời Bất thô một đỗi thì có Trời Bất phiền. Trên Trời Bất phiền một đỗi thì có Trời Thiện kiến. Trên Trời Thiện kiến một đỗi thì có Trời Thiện hiện. Trên Trời Thiện hiện một đỗi thì có cung điện của Trời A ca nị tra. Trên Trời A ca nị tra, lại có các Trời khác tên là Vô biên không xứ, Vô biên thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Trên đây là đều nói tên chỗ cư trú của chư Thiên. Chứ Thiên cư trú trong giới phận này. Như đi lại, sinh diệt khắp mọi biên giới ở đấy. Tất cả chư Thiên đều sinh, già, bệnh, chết, đọa lạc vào trong đó, không vượt ra ngoài. Như thế, gọi là thế giới Ta bà. Vô lượng thế giới khắp mười phương cũng đều như thế”.

Luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Từ Diêm phù đề xuống hai vạn do tuần là địa ngục Vô gián. Từ Diêm phù đề xuống một vạn do tuần là địa ngục của Trời Diệm ma. Giữa hai địa ngục này là các địa ngục khác (cũng có chỗ xa gần, nhưng luận này không nói đến). Từ Diêm phù đề trở lên bốn vạn do tuần là chỗ cư trú của Tứ thiên vương; trở lên tám vạn do tuần là chỗ cư trú của Trời Tam thập tam. Từ đây trở lên mười sáu vạn do tuần là chỗ cư trú của Trời Dạ ma. Từ đây trở lên ba ức hai vạn do tuần là chỗ cư trú của Trời Đâu suất đà. Từ đây trở lên sáu ức bốn vạn do tuần là chỗ cư trú của Trời Hóa lạc. Từ đây trở lên mười hai ức tám vạn do tuần là chỗ cư trú của Trời Tha hóa tự tại.

Có Tỳ kheo hỏi Phật: “Bạch đức Thế tôn, từ Diêm phù đề đến Phạm xứ, gần xa bao nhiêu?”. Phật bảo: “Này, Tỳ kheo, từ Diêm phù đề đến Phạm xứ rất xa, rất cao. Thí dụ như vào Rằm tháng chín, lúc trăng tròn, nếu có người tại Phạm xứ, phóng một khối đá vuông vức một trăm trượng xuống hạ giới, nữa chừng không bị cản trở, thì đến Rằm tháng chín trăng tròn năm sau, mới rơi xuống đụng Diêm phù đề. Từ Diêm phù đề đến Trời Vô lượng quang lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Vô lượng quang đến Trời Biến thắng quang lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Biến thắng quang đến Trời Thiểu tịnh lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Thiểu tịnh đến Trời Vô lượng tịnh lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Vô lượng tịnh đến Trời Biến tịnh lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Biến tịnh đến Trời Vô vân lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Vô vân đến Trời Phước sinh lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Phước đến Trời Quảng quả lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Quảng quả đến Trời Vô tưởng lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Vô tưởng đến Trời Thiện hiện lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Thiện hiện đến Trời Thiện kiến lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Thiện kiến đến Trời Bất phiền lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Bất phiền đến Trời Bất thiêu lại xa một đỗi như thế. Từ Trời Bất thiêu đến Trời A ca nị tra lại xa một đỗi như thế. Phật bèn nói kệ rằng:

“Từ A ca nị tra

Đến đất Diêm phù đề,
Buông tảng đá núi lớn.
Hết sáu vạn năm ngàn
Năm trăm ba mươi lăm năm,
Giữa đó không ngăn chận,  
Mới đến Diêm phù đề”.

Luận Trí Độ nói: “Thí dụ như từ ranh giới đầu tiên của sắc giới, buông một tảng đá vuông vức một trượng thì trải qua một vạn tám ngàn ba trăm tám mươi ba năm mới rơi xuống tới mặt đất”.

Thứ sáu: PHẦN THÂN LƯỢNG

Theo luận Tạp Tâm nói: “Bảy cực vi trần thành một A nậu trì thượng trần. Trần ấy nhỏ nhất, chỉ có Thiên nhãn, Bồ tát, Luân vương mới có thể thấy được. Bảy A nậu trần là một Đồng thượng trần. Bảy Đồng thượng trần là một Thủy thượng trần. bảy thủy thượng trần là một Thố hào thượng trần. Bảy Thố hào thượng trần là một Dương mao thượng trần. Bảy Dương mao thượng trần là một Ngưu mao thượng trần. bảy Ngưu mao thượng trần thành một Hưởng du trần. Bảy hưởng du trần thành một con muỗi. Bảy con muỗi thành một con rận. Bảy con rận thành một hạt lúa lép. Bảy hạt lúa lép thành một chỉ. Hai mươi bốn chỉ thành một chửu. Bốn chửu là một cung. Cách làng năm trăm cung là một câu lũ xá. tám câu lũ xá là một do tuần. Nên kệ nói rằng: “Bảy trần thành A nậu, Bảy Nậu thành Đồng trần. Thủy, thố, ngưu mao trần, Đến từ bảy mà ra”.

Bởi vậy, trong luận dùng Câu lũ xá này để ước lượng thân của chư Thiên, từ thân của Tứ thiên vương đến thân của A ca ni tra. Vì thế, luận Bà sa nói: “Thân Tứ thiên vương cao một câu lưu xá một phần bốn. Nếu nói theo kinh Chánh Pháp Niệm thì thân của các Thiên vương cao thấp đều bằng nhau (luận Tỳ đàm cũng nói giống như vậy). Còn thân của Trời Tam thập tam cao nữa câu lưu xá. Thân Đế thích cao một câu lưu xá. Thân Trời Dạ ma cao một câu lưu xá ruỡi (nếu hỏi vì sao thân Đế thích cao hơn thân của Trời Dạ ma, thì kinh nói vào thời quá khứ, Đế thích chuyên tu hạnh cung kính, nên có thân cao lớn). Thân Trời Đâu suất cao một câu lưu xá, bằng thân Đế thích. Thân Trời Hóa lạc cao một câu lưu xá một phần bốn. Thân Trời Tha hóa tự tại cao một câu lưu xá rưỡi (chư Thiên Trời Dục giới đều cao như thế).

Thứ hai là Thân lượng chư Thiên cõi sắc giới: Theo luận Tỳ đàm nói: “Trời Phạm chúng cao nữa do diên. Trời Phạm phước lâu cao một do diên. Trời Đại phạm cao một do diên rưỡi. Trời Quang thiên cao hai do diên. Trời Vô lượng quang cao bốn do diên. Trời Quang Âm cao tám do diên. Trời Thiếu tĩnh cao mười sáu do diên. Trời Vô lượng tịnh cao ba mươi hai do diên. Trời Biến tịnh cao sáu mươi bốn do diên. Trời Phước khánh cao một trăm hai mươi lăm do diên. Trời Phước sinh cao hai trăm năm mươi do diên. Trời Quảng quả cao năm trăm do diên. Trời Vô tưởng cũng cao như thế. Trời Thiện kiến cao bốn ngàn do diên. Trời Thiện hiện cao tám ngàn do diên. Trời Sắc cứu cánh cao mười sáu ngàn do diên.

Thứ ba là Thân lượng chư Thiên cõi vô sắc giới: vì cõi này thuộc về vô hình, nên không thể nói được (theo Đại thừa thì cũng có sắc vi tế, nhưng kinh luận bỏ qua không nói đến).

Thứ bảy: PHẦN Y LƯỢNG

Hỏi: “Y phục của chư Thiên thì thế nào?”. Đáp: “Chư Thiên trong sáu Trời của cõi Lục dục đều không mặc áo trời, du hành tự tại. Xem ra như mặc lớp hào quang sống động, không thể đem vải vóc thế gian so sánh. Y phục của chư Thiên cõi sắc giới, tuy gọi là thiên y, nhưng thật ra cũng như là hào quang, càng biến chuyển, càng đẹp đẽ, không thể diễn tả nỗi. Còn kinh Khởi Thế nói: “Trời Tứ thiên vương thân cao nữa do tuần, áo dài một do tuần, rộng nữa do tuần, nặng nữa lượng. Trời Tam thập tam, thân cao một do tuần, áo dài hai do tuần, rộng một do tuần, nặng nữa lượng. Trời Dạ ma thân cao hai do tuần, áo dài bốn do tuần, rộng hai do tuần, nặng nữa lượng một phần bốn. Trời Đâu suất thân cao bốn do tuần, áo dài tám do tuần, rộng bốn do tuần, nặng nữa lượng một phần tám. Trời Hóa lạc thân cao tám do tuần, áo dài mười sáu do tuần, rộng tám do tuần, nặng nữa lượng một phần mười sáu. Trời Tha hóa tự tại thân cao mười sáu do tuần, áo dài ba mươi hai do tuần, rộng mười sáu do tuần, nặng nữa lượng một phần ba mươi hai. Chư Thiên Ma thân, thân cao ba mươi hai do tuần, áo dài sáu mươi bốn do tuần, rộng ba mươi hai do tuần, nặng nữa lượng một phần sáu mươi bốn. Từ đây trở lên, các Trời khác có thân lượng cao thấp và y phục dài ngắn đều bằng nhau, không khác biệt”. Kinh Khởi Thế còn nói: “Chư Thiên cõi Dục giới có nhiều loại áo quần trang nghiêm, không thể nói hết. Riêng hai Trời Hóa lạc và Tha hóa tự tại, áo quần ăn mặc đều tùy theo ý muốn mà thành lớn nhỏ, trọng lượng cũng thế. Chư Thiên cõi Sắc giới, không mặc y phục cũng như có mặc, chẳng có gì khác biệt. Trên đầu tuy không có tướng Đỉnh kế nhưng cũng giống như có đội mão Trời. Không phân biệt nam nữ, chỉ có một hình dáng giống nhau”. Kinh Trường A hàm nói: “Trời Đao lợi áo nặng một thù rưỡi. Trời Hóa lạc áo nặng một thù. Trời Tha hóa tự tại áo nặng nữa thù”. Luận Thuận Chánh Lý nói: “Thiên chúng cõi Sắc giới, khi sơ sinh, thể hình tròn trịa, áo quần đầy đủ”.

Thứ tám: PHẦN THỌ LƯỢNG

Theo luận A tỳ đàm nói: “Thọ lượng của chư Thiên như sau: nếu nhân gian sống năm mươi năm, thì Trời Tứ thiên vương là một ngày đêm. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của Trời Tứ thiên vương là năm trăm tuổi. Tính theo ngày tháng của nhân gian là chín trăm vạn năm, thì số bằng một ngày đêm ở địa ngục Đẳng hoạt. Cứ dùng số ngày tháng này mà tính, thọ lượng của địa ngục Đẳng hoạt là năm trăm tuổi. Kể nhân gian một trăm năm bằng một ngày đêm ở Trời Tam thập tam. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của Trời Tam thập tam là một ngàn tuổi. Tính theo ngày tháng của nhân gian là ba ức sáu trăm vạn năm thì số này bằng một ngày đêm ở địa ngục Hắc thằng. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của địa ngục Hắc thằng là một ngàn tuổi. Kể nhân gian hai trăm năm bằng một ngày đêm ở Trời Diệm ma. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của Trời Diệm ma là hai ngàn tuổi. Tính theo ngày tháng của nhân gian là mười bốn ức bốn trăm vạn năm. Số này bằng một ngày đêm ở đại địa ngục Chúng hợp. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của đại địa ngục Chúng hợp là hai ngàn tuổi. Kể nhân gian bốn trăm năm bằng một ngày đêm ở Trời Đâu suất đà. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của Trời Đâu suất đà là bốn ngàn tuổi. Tính theo ngày tháng của nhân gian là năm mươi bảy ức sáu trăm vạn năm. Số này bằng một ngày đêm ở Hô địa ngục. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của Hô địa ngục là bốn ngàn tuổi. Kể nhân gian tám trăm năm bằng một ngày đêm ở Trời Hóa lạc. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của Trời Hóa lạc là tám ngàn tuổi. Tính theo ngày tháng của nhân gian là hai trăm ba mươi ức năm. Số này bằng một ngày đêm ở địa ngục Đại hô. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của địa ngục Đại hô là tám ngàn tuổi. Kể nhân gian một ngàn sáu trăm năm bằng một ngày đêm ở Trời Tha hóa tự tại. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng của Trời Tha hóa tự tại là mười sáu ngàn tuổi. Tính theo ngày tháng của nhân gian là chín trăm hai mươi mốt ức sáu trăm vạn năm. Số này bằng một ngày đêm ở Nhiệt đại địa ngục. Cứ dùng số ngày tháng năm này mà tính, thọ lượng một kiếp của Nhiệt đại địa ngục là mười sáu ngàn tuổi. Các Nhiệt đại địa ngục khác có thọ lượng nữa kiếp trên. Đại địa ngục Vô trạch có thọ lượng một kiếp nói trên. Súc sinh thọ lâu nhất, cũng một kiếp nói trên. Như luận nói các loài Rồng Địa trì, ngạ quỷ thọ lâu nhất được năm trăm tuổi”.

Thứ hai là tính thọ lượng ở sắc giới thì dùng kiếp làm đơn vị. Trước tiên, thọ lượng của Trời Phạm chúng là nữa kiếp. Trời Phạm phước lâu một kiếp. Trời Đại phạm một kiếp rưỡi. Trời Thiểu quang bốn kiếp. Trời Quang Âm tám kiếp. Trời Thiểu tịnh 1sáu kiếp. Trời Vô lượng tịnh ba mươi hai kiếp. Trời Biến tịnh sáu mươi bốn kiếp. Trời Phước ái một trăm hai mươi lăm kiếp. Trời Phước quang hai trăm năm mươi kiếp. Trời Quảng quả năm trăm kiếp. Trời Vô tưởng cũng như thế. Trời Vô hy vọng một ngàn kiếp. Trời Vô nhiệt hai ngàn kiếp. Trời Thiện kiến bốn ngàn kiếp. Trời Sắc cứu cánh mười sáu ngàn kiếp.

Thứ ba là tính thọ lượng ở Vô sắc giới thì Trời Không xứ thọ hai vạn kiếp. Trời Thức xứ bốn vạn kiếp. Trời Vô sở hữu xứ sáu vạn kiếp. Trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ tám vạn kiếp. Tam giới đều có yểu nữa chừng, chỉ trừ Uất đơn việt, Bồ tát tối hậu thân ở Trời Đâu suất và Trời Vô tưởng đều có thọ lượng nhất định, không nói đến yểu nữa chừng. Các cõi còn lại đều có yểu nữa chừng. Luận Thuận Chánh Lý cũng nói như thế. Tuy vậy, người Bắc câu lô về đường Nhân đạo, vốn có phước lực mạnh nhất. Kẻ độn căn bạc trần quá ham thú khoái lạc, mang tội không biết nhiếp thọ, nhưng khi chết cũng được sinh vào thượng giới. Những người khác đều giống như đã nói trước đây. Hỏi: “Khi kiếp hỏa này nổi lên, đến cõi Sơ Thiền, tất cả đều bị thiêu rụi. Vì sao luận bảo rằng Thiên vương Đại phạm thọ được một kiếp rưỡi?”. Đáp: “Ở đây nói một kiếp rưỡi là căn cứ vào chỗ gộp sáu mươi Tiểu kiếp thành một kiếp rưỡi, chứ không căn cứ vào đại kiếp. Nếu căn cứ vào Đại kiếp thủy hỏa phong mà nói thì cũng như một kiếp hợp thành từ tám mươi Tiểu kiếp, trong đó còn thiếu hai mươi Tiểu kiếp. Đem so với lượng một kiếp rưỡi, ý nghĩa chẳng có gì sai”. “Làm thế nào biết được như thế?”. Theo luận Câu Xá cũ gọi là Biệt kiếp, luận Lật Thế A tỳ đàm gọi là tiểu kiếp, luận Câu Xá mới, luận Bà sa mới gọi là trung kiếp. Ba danh từ này tuy khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một, thì lượng cũng bằng nhau. Như kinh A hàm nói rằng: “Từ người thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, cứ một trăm năm giảm bớt một tuổi, đến khi chỉ còn thọ mười tuổi. Từ thọ mười tuổi lại tăng dần lên đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Trải qua một kiếp tăng, một kiếp giảm. Ngần ấy thời gian gọi là thời lượng một trung kiếp (Biệt kiếp và Tiểu kiếp cũng y thế)”. Nếu theo luận Câu Xá thì lại nói: “Khi hết một đại vận Tam tai, bắt đầu từ khởi thủy đến chung cục của thế gian mới gọi là một đại kiếp. Theo một đại hạn Tam tai thủy hỏa phong như thế, phải trải qua tám mươi trung kiếp. Như phải trải qua một trung kiếp hoại, một trung kiếp thành, mười chín trung kiếp chúng sinh lần lượt trụ, hai mươi trung kiếp đang trụ, mười chín trung kiếp lần lượt hoại rồi không. Đấy là một trung kiếp. Vừa gặp một đại hạn Tam tai thủy hỏa phong hủy hoại khí thế gian mười chín trung kiếp, liền gặp một tiểu hạn Tam tai đói kém, bệnh dịch, binh đao hủy hoai thế giới chúng sinh”. Vì hiểu theo nghĩa nầy, nên luận Tỳ đàm mới nói: “Cõi nào trụ sau cùng thì cõi ấy không trước tiên. Cõi chúng sinh trụ sau cùng là nói địa ngục A tỳ ở chỗ thấp nhất. Cõi nầy không sau cùng. Cõi chúng sinh trụ trước tiên không có quy tắc cố định. Nếu căn cứ vào kiếp hỏa, tức là cõi Sơ Thiền. Nếu căn cứ vào kiếp thủy, là cõi Nhị Thiền. Nếu căn cứ vào kiếp phong, là cõi Tam Thiền. Vì lập luận như thế, nên trong một đại kiếp có đủ sáu mươi trung kiếp ấy và hai mươi biệt kiếp trong không kiếp. Gộp đủ tám mươi Tiểu kiếp mới gọi là một đại kiếp. Biện luận về kiếp như thế, hiển nhiên không sai”.

Nay nói về Trời thứ nhất là Phạm chúng trong cõi Sơ Thiền có thọ lượng nữa kiếp thì phải biết dựa vào nữa kiếp gồm có hai mươi trung kiếp trong Biệt kiếp ấy mà bàn. Thứ hai là Trời Phạm phụ có thọ lượng một kiếp là điều căn cứ vào bốn mươi trung kiếp của Biệt kiếp ấy mà bàn. Theo đúng nghĩa này thì không sai được. Cõi Sơ Thiền đã như thế, từ cõi Nhị Thiền trở lên, phải biết đều căn cứ vào đại kiếp của Tam tai để minh định thọ lượng, chứ không dựa vào trung kiếp và Biệt kiếp nữa. Trong cõi Nhị Thiền thì thứ nhất là Trời Thiểu quang, có họ lượng hai kiếp. Thứ hai là Trời Vô lượng quang có thọ lượng tám kiếp. “Nếu nói thủy tai đã ngập đến cõi Nhị Thiền, chư Thiên Trời Quang Âm làm sao thọ được tám đại kiếp?”. “Nên biết rằng sau bảy trận hỏa tai ấy, mới có năm trận thủy tai nổi lên, ngập đến cõi Nhị Thiền. Vì thế, chư Thiên Trời Quang Âm thọ được tám đại kiếp”.

Trong cõi Tam Thiền thì thứ nhất là Trời Thiểu tịnh, có thọ lượng 1sáu kiếp. Thứ hai là Trời Vô lượng tịnh, có thọ lượng ba mươi hai kiếp.

Thứ ba là Trời Biến tịnh, có thọ lượng sáu mươi bốn kiếp. “Nếu bảo phong tai đã thổi đến cõi Tam Thiền, làm sao chư Thiên Trời Biến tịnh thọ được sáu mươi bốn kiếp?”. “Đây cũng là điều nên biết rằng sau đại vận sáu mươi ba trận thủy hỏa tai ấy, mới có một trận phong tai nổi lên. Thế nên chư Thiên Trời Biến tịnh có thọ lượng sáu mươi bốn kiếp. Làm thế nào biết được như thế?”. Điều này, trong luận Tỳ đàm có nói: “Sau bảy hỏa kiếp dồn dập nổi lên, mới có năm trận thủy tai nổi dậy. Như thế thì bảy bảy bốn mươi chín lượt hỏa tai nổi lên, mới có bảy trận thủy tai nổi dậy. Nói gộp lại thì có năm mươi sáu kiếp. Lại nữa, sau khi trải qua năm mươi sáu kiếp này, còn có bảy trận hỏa tai xảy đến.. Và sau bảy trận hỏa tai này, mới có năm trận phong tai nổi lên, hủy hoại tận cõi Tam Thiền. Gộp chung các kiếp nói trên thành ra sáu mươi bốn kiếp”. Theo ý nghĩa này, thì Trời Biến tịnh thọ được sáu mươi bốn kiếp. Thế nên luận Tỳ đàm nói kệ rằng:

“Bảy hỏa lần lượt qua, Sau đó mới một thủy.
Bốn chín hỏa, bảy thủy, Lại bảy hỏa, sau phong”.

Hỏi: “Trời Thức xứ, trong bốn cõi Trời ở vô sắc giới này, có thọ lượng gấp đôi Trời Không xứ. Chưa rõ vì sao thọ lượng của hai Trời ở sau không nhiều gấp đôi Trời Thức xứ ở trước?.

Đáp: Như trong luận Bà sa nói có ba Luận sư đều cùng giải thích về điều này. Thuyết của vị thứ nhất nói: “Hai coi Không xứ, Thức xứ ấy, mỗi cõi đều có vô lượng hạnh và các hạnh khác đều là xả tất cả Nhập v.v nên thọ lượng được gấp đôi. Không xứ, nhờ có vô lượng hạnh nên thọ được một vạn kiếp. Các hạnh khác được thọ thêm một vạn kiếp. Thế nên, gộp lại có thọ lượng hai vạn kiếp. Thức xứ, nhờ có vô lượng hạnh, nên thọ được hai vạn kiếp, các hạnh khác được thọ thêm hai vạn kiếp Nhờ số này nhiều gấp đôi lần số trước, nên thọ lượng bốn vạn kiếp. Rốt lại, hai Trời ở trên, vì không có vô lượng hạnh, nên thọ lượng không thể nhiều gấp đôi”. Thuyết thứ nhất là như thế. Thuyết của Luận sư thứ hai nói: “Hai Trời Không xứ, Thức xứ, vì mỗi trời đều có hai loại huệ hạnh và định hạnh, nên thọ lượng gấp đôi. Huệ hạnh thọ được một vạn kiếp, định hạnh thọ được một vạn kiếp. Thế nên gộp lại, có thọ lượng hai vạn kiếp. Trời Thức xứ, nhờ định hạnh thọ được hai vạn kiếp, lại nhờ huệ hạnh thọ được thêm hai vạn kiếp. Do số này nhiều gấp một lần số trước, nên có thọ lượng bốn vạn kiếp. Hai cõi trên này, vì chỉ có định hạnh mà không có huệ hạnh, nên thọ lượng không thể nhiều gấp bội”. Thuyết thứ hai là như thế. Thuyết của Luận sư thứ ba cũng nói: “Bốn cõi Vô sắc định, phần phước báo của mỗi cõi chỉ có hai vạn kiếp. Vì cớ ly dục, không ly dục nên có thọ lượng gấp đôi và không gấp đôi. Trong cõi Không xứ định, vì chưa lìa được dục của chính mình, nên chỉ thọ hai vạn kiếp. Trong cõi Thức xứ, thọ được hai vạn kiếp, chính là thọ lượng của định. Do lìa được dục của Không xứ cho nên thọ thêm được hai vạn kiếp. Nhờ số này nhiều gấp đôi số trước, nên có thọ lượng bốn vạn kiếp. Vô sở hữu xứ thọ được hai vạn kiếp, chính là thọ lượng của định. Do lìa được dục của hai cõi Không xứ, Thức xứ, nên được thọ thêm bốn vạn kiếp. Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thọ được hai vạn kiếp, chính là thọ lượng của định. Nhờ lìa được dục của ba cõi dưới, nên có thọ lượng tám vạn kiếp”. Thuyết thứ ba là như thế, nghĩa lý đã hiển hiện ở đấy rồi vậy.

Thứ chín: PHẦN TRỤ XỨ

Hỏi: Chỗ ở của chư Thiên có ý nghĩa như thế nào?”.

- Đáp: Theo như luận Bà sa nói: “Trời tuy có ba mươi hai, nhưng chỗ ở chỉ có hai mươi tám tầng. Vì bốn cõi Không xứ tuyệt đối xa lìa hình sắc, nên không có chỗ ở riêng mà ở khắp trong hai cõi Dục giới và Sắc giới. Chỉ tùy thuộc chúng sinh trong hai cõi Dục giới và Sắc giới thành tựu được quả Tứ không ở Vô sắc giới, theo chỗ mệnh chung mà thọ phước báo ở cõi Vô sắc ấy, nên không có chỗ ở riêng. Điều này không giống với quan điểm hữu sắc của Đại thừa.

Hai mươi tám tầng Trời ấy là kể từ mặt đất ở chân núi Tu di đi lên, cách bốn ngàn do tuần, vòng quanh núi ngang dọc rộng một vạn do tuần, trong đó là chỗ cư trú của Trời Kiên thủ. Lại đi lên một lần như thế, vòng quanh núi rộng tám ngàn do tuần, trong đó là chỗ cư trú của Trời Trì hoa man ấy. Lại đi lên một lần như thế, vòng quanh núi rộng bốn ngàn do tuần, trong đó là chỗ cứ trú của Trời Thường phóng dật. Lại đi lên một lần như thế, vòng quanh núi rộng bốn ngàn do tuần, trong đó là chỗ cư trú của Trời Nhật nguyệt tinh tú. Lại đi lên một lần như thế, vòng quanh núi rộng bốn ngàn do tuần, trong đó là chỗ cư trú của Trời Tứ thiên vương (trong này, do có bảy loại núi vàng, có thành trì, làng mạc của Tứ thiên vương đều tọa lạc ở đó). Lại đi lên bốn vạn do tuần là đến đỉnh núi Tu di, ngang dọc rộng bốn vạn do tuần, trong đó có thành Thiện kiến, ngang dọc rộng một vạn do tuần, đặc biệt có một ngàn cửa, trong đó là chỗ cư trú của Trời Tam thập tam. Từ đỉnh núi Tu di, lại bay lên giữ không trung bốn vạn do tuần, có chỗ như mây, do bảy loại bảo vật tạo thành, nhưng lại giống đất bằng, trong đó là chỗ cư trú của Trời Diệm ma. Lại bay lên một lần như thế, có chỗ như mây, do bảy loại bảo vật tạo thành, là Trời Đâu suất đà. Lại bay lên một lần như thế, có chỗ như mây, do bảy loại bảo vật tạo thành, là Trời Hóa lạc. Lại bay lên một lần như thế, có chỗ như mây, do bảy loại bảo vật tạo thành, là Trời Tha hóa tự tại. Cứ thế, bay lên đến Trời Sắc cứu cánh của sắc giới, đều có chỗ như mây, do bảy loại bảo vật tạo thành, cùng cách nhau một lần như thế, nên chẳng cần thuật đủ”. Theo luận Thuận Chánh Lý nói: “Trời Tam thập tam ở đỉnh núi Tô Mê Lô. Bốn mặt trên đỉnh núi, mỗi mặt rộng chừng hai mươi ngàn do tuần, nếu đo chu vi thì lên đến tám vạn do tuần. Thuyết của các Luận sư khác nói mỗi mặt rộng tám mươi ngàn do tuần, so với bốn mặt ở dưới, số lượng không khác. Ở bốn góc trên mặt đỉnh núi, mỗi góc đều có một ngọn núi, mỗi ngọn cao rộng chừng năm trăm do tuần. Có thần Dạ xoa gọi là Kim cương thủ ở trong núi này hộ vệ chư Thiên. Giữa đỉnh núi Tu di có cung điện gọi là Thiện kiến, bề mặt rộng hai ngàn năm trăm du thiện na, chu vi một vạn du thiện na. Kim thành cao một du thiện na rưởi. Mặt đất trong kim thành bằng phẳng, do vàng thật đúc nên, đều được trang trí bằng một trăm lẻ một loại bảo vật khác nhau. Chạm vào mặt đất, êm mềm như nệm bông Đố la. Mỗi lần dẫm lên, theo chân lún xuống rồi nhô lên. Đây là kinh thành của Trời Đế thích, thành có một ngàn cửa, trang sức tráng lệ, mỗi cửa có năm mươi Dạ xoa mặc áo xanh, dũng mãnh uy nghiêm, cao một du thiện na, trang bị đầy đủ áo giáp binh khí, lo việc phòng thủ cửa thành. Trong thành có điện Thù thắng, trang hoàng đầy đủ các loại bảo vật, ánh sáng chói lòa Thiên cung, nên mới gọi là Thù thắng. Điện rộng hai trăm năm mươi du thiện na, chu vi một ngàn du thiện na. Đây gọi là những sự kiện khả ái trong thành. Ngoài thành, có bốn vườn trang hoàng khắp bốn mặt, là chỗ chư Thiên ở đấy cùng đến du hí. Thứ nhất là vườn chúng xa (các xe), nghĩa là ở trong vườn này, tùy thọ phước lực của mình, có các loại xe hiện ra. Thứ hai là vườn Thô xấu, nghĩa là mỗi khi chư Thiên muốn chiến đấu, tùy theo nhu cầu của mình mà có các loại khí giới hiện ra. Thứ ba là vườn Tạp lâm (rừng tạp), có nghĩa là mỗi khi chư Thiên vào đó, các loại thưởng ngoạn đều có như nhau, sinh nhiều vui thích. Thứ tư là vườn Hỷ lâm (rừng vui), rất đẹp, phô bày đủ loại dục trần, xem hoài không chán. Cảnh tượng của bốn vườn này đều khác lạ. Mỗi một vườn có chu vi một ngàn du thiện na, trong mỗi vườn có một ao Như ý, diện tích rộng năm mươi du thiện na, chứa đầy nước tám công đức. Chiều theo ý muốn, các loài chim chóc, hương thơm trong bốn vườn hiện ra trang trí, khác nhau tùy theo nghiệp quả. Thật khó nghĩ bàn phước báo của chư Thiên. Ở góc Đông Nam ngoài thành, có đại Thiện pháp đường, là nơi chư Thiên Trời Tam thập tam hội họp bàn kỹ các việc chế phục A tố lạc hợp pháp và không hợp pháp Trời”.

Kinh Khởi Thế nói rằng Phật bảo Tỳ kheo: “Vì nhân duyên nào, chỗ chư Thiên hội họp gọi là Thiện pháp đường?”. “Vì khi chư Thiên Trời Tam thập tam cùng ngồi hội họp trong đó, chỉ bàn luận nghĩa lý sâu xa, cân nhắc xét xem những lời vi diệu tốt lành, vốn là chính lý chân thật của các pháp trọng yếu ở thế gian, nên chư Thiên mới gọi đây là Thiện pháp đường”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là vườn Ba lâu sa ca?” (đời Tùy dịch là Thô nhám). “Vì chư Thiên Trời Tam thập tam vào trong đó xong, cùng ngồi trên hai phiến đá hiền và thiện hiền, chỉ bàn luận những lời đùa bỡn thô thiển nhám nhúa, không tốt lành ở thế gian, nên gọi là vườn Ba lâu sa ca”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là vườn Xe tạp sắc?”. “Vì chư Thiên Trời Tam thập tam vào trong đó xong, cùng ngồi trên hai phiến đá tạp sắc và thiện tạp sắc, chỉ bàn luận những lời nói đủ mọi sắc tướng hỗn tạp của thế gian, nên gọi là vườn Xe tạp sắc”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là vườn Tạp loạn?”. “Vì chư Thiên Trời Tam thập tam thường chọn ngày mồng tám, ngày rằm hàng tháng, thả tất cả thể nữ trong cung vào vườn này, để cùng chư Thiên Trời Tam thập tam cùng nhau trà trộn chơi đùa, không sinh lòng ngăn cách, mặc sức hoan lạc, rong chơi mua vui, hưởng thụ đầy đủ phước báo ngũ dục của Thiên giới, nên chư Thiên cùng gọi vườn này là vườn Tạp loạn”. “Lại vì nhân duyên nào, Trời ấy có vườn gọi là Hoan hỷ?”. “Vì chư Thiên Trời Tam thập tam vào trong đó xong, cùng ngồi trên hai phiến đá hoan hỷ và thiên hoan hỷ, lòng được vui vẻ và rất an lạc, nên cùng gọi vườn này là vườn Hoan hỷ”. “Lại vì nhân duyên nào, gọi là cây Ba lợi dạ đát la câu tỳ đà la?”. “Vì dưới cây ấy có vị Thiên tử đến ở, ngày đêm thường đem các loại phước báo ngũ dục đầy đủ, hòa hợp của cõi Trời ấy để đùa giỡn mua vui, nên chư Thiên bèn gọi cây ấy là cây Ba lợi dạ đát la câu tỳ đà la”.

Thứ mười: PHẦN QUẢNG HIỆP

Hỏi: Hạn lượng rộng hẹp của các cõi Trời là như thế nào?.

Đáp: “Như luận Bà sa nói: “Riêng trên mặt núi Tu di, ngang dọc rộng tám do tuần, trong đó chỗ bằng phẳng có thể ở được chỉ rộng bốn vạn do tuần. Trời Viêm ma rộng hơn mặt núi Tu di nói trên bốn vạn do tuần, có lãnh thổ ngang dọc rộng tám vạn do tuần. Cứ thế, lần lượt đến Trời Tha hóa tự tại, rộng gấp đôi Trời trước, có lãnh thổ ngang dọc rộng sáu trăm bớn vạn do tuần. Lãnh thổ của cõi Tứ thiên rộng hẹp không cố định”.

Có hai thuyết nói về điều này:

Thuyết thứ nhất cho rằng cõi Sơ Thiền rộng bằng một quốc độ. Cõi Nhị Thiền rộng bằng một Tiểu thiên thế giới. Cõi Tam Thiền rộng bằng một Trung thiên thế giới. Cõi Tứ Thiền rộng bằng một đại thiên thế giới.

Thuyết thứ hai cho là cõi Sơ Thiền rộng bằng một Tiểu thiên thế giới. Cõi Nhị Thiền rộng bằng một Trung thiên thế giới. Cõi Tam Thiền rộng bằng một đại thiên thế giới. Cõi Tứ Thiền rộng lớn vô biên, không thể nói được giới hạn (các Luận sư bình luận điều này cho rằng thuyết thứ hai là đúng).

Hỏi: “Từ cõi Sơ Thiền rộng bằng một Tiểu thiên thế giới cho đến cõi Tứ Thiền rộng lớn vô biên, chưa rõ trên Đại thiên thế giới của cõi Tứ Thiền ấy, phải có chung Trời Phạm Thiên của cõi Sơ Thiền, thậm chí phải có chung Trời Sắc cứu cánh. Hay là trên từng mỗi một quốc độ, phải có riêng Trời Phạm Thiên của cõi Sơ Thiền, thậm chí phải có riêng Trời Sắc cứu cánh? Trả lời rằng là theo kinh Lâu Thán nói: “Trên từng mỗi một quốc độ, phải có riêng, hết thảy đều không có chung”. Bởi thế, kinh ấy nói: “Trong Tam thiên thế giới, có hằng trăm ức quốc độ, núi Tu di, biển lớn, núi Thiết vi, Trời Tứ thiên vương. Thậm chí trên từng mỗi một quốc độ, còn nói có hằng trăm ức Trời Sắc cứu cánh”. Kinh văn ấy đã hiển nhiên, khỏi nhọc công ngờ vực. Hơn nữa, như luận Thuận Chánh Lý có nói: “Nhỏ, nghĩa là dưới thấp, vì để đối lại với trên cao, cũng như trâu đất gãy sừng, do gom góp từ cục đất nhỏ bé mà thành lớn, nhưng cũng không ép đất vậy”. Hỏi: “Đã hay trên mỗi một quốc độ, thậm chí mỗi một quốc độ đều có Trời Sắc cứu cánh. Như thế, các Trời Sắc cứu cánh ấy đều ở riêng, há không gây trở ngại với nhau?”. Đáp: “Tuy mỗi một quốc độ đều có hàng trăm ức Trời Sắc cứu cánh, dù cùng ở chung một chỗ, cũng không hề gây trở ngại nhau. Điều ấy giống như ánh sáng cùng thấu nhập, cùng phổ biến khắp nhau, nên cũng không gây trở ngại với nhau. Các Trời Sắc cứu cánh ấy cũng như thế, vì nhờ vào sắc tướng vi diệu của mình. Thế nên, trong kinh mới nói: “Chư Thiên ở sắc giới hạ trần nghe thuyết pháp. Sáu chục vị Trời cùng ngồi trên đầu một mũi nhọn, không hề bị chật chội hay bị trở ngại đụng chạm gì”. Đem kinh văn ấy ra suy nghiệm, thì còn nghi ngờ vào đâu nữa!” (Thế nên, luận Nghĩa Thí nói: “Cõi Sơ Thiền giống như làng. Cõi Nhị Thiền giống như huyện. Cõi Tam Thiền giống như nước”).

Thứ mười một: PHẦN TRANG SỨC

Như luận Trí Độ nói: “Núi Tu di cao ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, do bốn loại bảo vật tạo thành. Mặt Đông bằng vàng, mặt Tây bằng bạc trắng, mặt Nam bằng lưu ly, mặt Bắc bằng pha lê. Vòng quanh nữa chừng núi, bốn phía có bốn ngọn núi Du Càn Đà, mỗi ngọn cao bốn vạn hai ngàn do tuần. Bốn Thiên vương, mỗi vị ở một ngọn núi này”. Kinh Trường A hàm nói: “Mặt Bắc làm bằng vàng thật, soi sáng phương Bắc. Mặt Tây làm bằng thủy tinh, soi sáng phương Tây. Mặt Đông làm bằng bạc trời, soi sáng phương Đông. Mặt Nam làm bằng lưu ly, soi sáng phương Nam”. Luận Trí Độ nói: “Bốn Thiên vương, mỗi vị ở trong thành của mình. Thành phương Đông gọi là Thượng hiền. Thành phương Nam gọi là Thiện kiến. Thành phương Tây gọi là Châu la. Thành phương Bắc có ba tên: một là Khả úy, hai là Thiên kính, ba là Chúng quy”.

Lại nữa, kinh Trường A hàm nói: “Bát già dực bạch đức Thế tôn: “Một thưở nọ, chư Thiên Trời Đao lợi tụ họp ở Thiện pháp đường, có việc bàn luận. Bấy giờ, bốn Thiên vương, tùy theo địa vị của mình, mỗi vị đều an tọa. Thiên vương Đề Đầu Lại Tra ngồi tại phía Đông, mặt hướng về phương Tây, Đế thích ngự phía trước. Thiên vương Tỳ Lâu Lặc Xoa ngồi tại phía Nam, mặt hướng về phương Bắc, Đế thích ngự phía trước. Thiên vương Tỳ Lâu Ba Xoa ngồi tại phía Tây, mặt hướng về phương Đông, Đế thích ngự phía trước. Thiên vương Tỳ sa môn ngồi tại phía Bắc, mặt hướng về phương Nam, Đế thích ngự phía trước. Khi bốn Thiên vương đã an tọa xong, con mới ngồi vào chỗ của mình”.

Hơn nữa, luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Như Đại thành Thiện kiến ở Trời Đao lợi có chu vi bốn vạn mười ngàn do tuần, thành được bao bọc bằng vàng ròng, cao mười do tuần, có tường ẩn nấp cao nữa do tuần, cửa thành cao hai do tuần, cửa đôi phía ngoài cao một do tuần rưỡi, cách chừng mười do tuần lại có một cửa. Ở bốn mặt thành là lầu Thiên môn. Các cửa thành này làm bằng nhiều loại bảo vật, được trang trí bằng các loại châu ngọc quý hiếm. Phần Kim thành ở trung tâm có diện tích bằng một phần tư của Đại thành, là chỗ cư trú của Đế thích, cách mười hai do tuần thì có hai cửa, khắp bốn mặt Kim thành có bốn trăm chín mươi chín cửa, lại có thêm một cửa nhỏ, cả thảy là năm trăm cửa. Việc canh phòng thành này được giao phó cho bốn cánh quân. Mọi thứ hào lũy, ao hồ cây cảnh, tạp lâm, cung điện ca kỹ hát xướng, các trò vui xa lạ, các loại hình trang trí quý giá, nhiều không thể nói hết. Tòa Bảo lầu Bảo các nhiều tầng ở trung tâm của Kim thành này tên là lầu Bì Thiền

Diên Đa, dài năm trăm do tuần, rộng hai trăm năm mươi do tuần. Bốn phía tòa Bảo các của thành này đều có Bảo lầu lùi địch. Phía Đông có hai mươi sáu sở, ba phía còn lại mỗi phía có hai mươi lăm sở, tổng cộng có một trăm lẻ một sở. Mỗi một Bảo lầu lùi địch rộng vuông vức hai do tuần, chu vi tám do tuần. Trên Bảo lầu lùi địch lại có một Bảo lầu nhỏ, cao nữa do tuần để làm nơi quan sát. Mỗi một Bảo lầu lùi địch có bảy Thiên nữ, mỗi một Thiên nữ này có bảy thể nữ theo hầu. Trong tòa Bảo lầu nhiều tầng này, có một vạn bảy trăm gian phòng, trong mỗi một gian phòng lại có bảy Thiên nữ, mỗi một Thiên nữ lại có bảy thể nữ theo hầu. Tất cả các Thiên nữ này đều là Chánh phi của Đế thích. Trong các Bảo lầu lùi địch phía ngoài và trong các gian phòng, có tất cả bốn ức chín vạn bốn ngàn chín trăm Chánh phi, ba mươi bốn ức sáu vạn bốn ngàn ba trăm thể nữ. Chánh phi và thể nữ gộp thì lại lên đến ba mươi chín ức năm vạn chín ngàn hai trăm vị. Trên tận cùng tòa Bảo lầu Bì Thiền Diên Đa, có Viên thất nằm chính giữa, rộng ba mươi do tuần, chu vi chín mươi do tuần, cao bốn mươi lăm do tuần, là chỗ cư trú của Đế thích, tất cả đều làm bằng pha lê, có nhiều loại bảo vật trang trí xen đầy”.

Lại nữa, kinh Tạp A hàm nói: “Trong cung điện của Đế thích, có nhà Tỳ xà diên, có hằng trăm lầu quán, có bảy lớp tầng lầu, có bảy lớp gian phòng, có bảy Thiên hậu. Mỗi vị có bảy thị nữ theo hầu. Tôn giả Đại Mục kiền liên du hành khắp Tiểu thiên thế giới nhưng chưa thấy ở đâu có lầu quán trang nghiêm như nhà Tỳ xà diên này vậy”.

Theo kinh Khởi Thế nói: “Vẻ chạm trổ trang trí, lối hưởng thụ hoan lạc ở Thiên cung trong Kim thành của Đế thích, không thể nào nói hết. Mô tả như thế, cảnh trí như thế là nơi Thích đề hoàn Nhân và Nữ A tu la Xá chi cùng ở, còn hóa thân của Đế thích lại ở cùng với các Chánh phi khác. Tất cả các Chánh phi đều suy nghĩ như thế này: “Hóa thân của Đế thích ở cùng chúng ta, còn chân thân ở cùng Xá chi”. Nhà cửa bốn phía trong thành này, đường xá chợ búa tất cả đều xây đắp ngay hàng thẳng lối. Thiên chúng trong thành này, tùy theo phước báo, có nhà cửa nhiều ít, đều làm bằng các loại bảo vật bằng phẳng, sắp xếp ngay ngắn chỉnh tề. Đường sá trong thành này lên đến năm trăm, bốn ngã thông nhau, hàng lối phân minh, rộng bằng đường chính, đổ ra bốn cửa, Đông Tây quang đãng, cùng nhìn thấy nhau, phố sá chợ búa chất đầy hàng hóa quý hiếm. Trên nữa tầng không có bảy khu chợ. Thứ nhất là chợ lúa gạo. Thứ hai là chợ y phục. Thứ ba là chợ hương phẩm. Thứ tư là chợ ăn uống. Thứ năm là chợ tràng hoa. Thứ sáu là chợ thủ công. Thứ bảy là chợ kỹ nữ. Các chợ đều có quan chợ trông coi. Trong các chợ này, thiên nam, thiên nữ cùng tới lui mua bán, thương lượng mắc rẻ, trả giá thêm bớt, cân lường đo đạc, đủ các phép chợ, tuy rằng làm thế, cốt để vui đùa. Thật tâm Thiên chúng, không lấy không cho, không giành phần riêng. Thấy có nhu cầu, có thể cầm lấy mang về. Nếu thấy ưng ý, tùy thích lựa chọn mà lấy. Nếu không ưng ý, liền nói thế này: “Vật này quý hiếm không thuộc về nhu cầu của ta”. Đường sá trong chợ, êm ái dễ đi, trang hoàng đầy bảo vật, treo đầy áo trời, dựng đầy cờ xí, đủ loại âm nhạc, ca hát không lúc nào ngừng. Lại có tiếng nói: “Đến đây, đến đây! Mọi thứ ăn uống, xin đem cúng dường!” Kinh thành Thiện kiến do Đế thích cư trú này, còn có châu Trời, quận Trời, huyện Trời, thôn Trời bao bọc khắp chung quanh (ngoài ra, chỗ ở của chư Thiên này được trang hoàng bằng hương thơm, âm nhạc đầy đủ khắp nơi. Hưởng thụ phước báo hoan lạc đến mức không thể sách nào chép hết). Từ phía ngoài cửa Bắc của thành Thiện kiến, đi hết 20 dặm, có một vườn lớn tên là Hoan hỷ, chu vi một ngàn do tuần, trong đó có ao cũng tên là Hoan hỷ, vuông vức một trăm do tuần, sâu cũng một trăm do tuần, chứa đầy nước Trời. Các thứ gạch đá xây cất bờ ao và đáy ao làm bằng bốn loại bảo vật. Phía ngoài cửa Đông của thành này có vườn tên là Chúng xa, trong đó có ao tên là Chất đa la. Phía ngoài cửa Nam của thành có vườn tên là Tạp viên, trong đó có ao cùng tên. Các vườn và ao này lớn nhỏ cũng giống như đã nói ở trên. Trong bốn khu vườn này, có đủ loại hoa quả thơm tho, chim rừng bay lượn ca hót, điểm tô cảnh sắc thêm đẹp đẽ, không thể nào nói hết được”.

Thứ mười hai: PHẦN TẤU THỈNH

Như luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Bấy giờ, Đế thích dẫn các Thiên chúng vào dục viên chơi rồi đến Thiện pháp đường. Chư Thiên đứng chung quanh, cung nghinh Đế thích vào vườn. Bên cạnh cột trong cùng của Thiện pháp đường có sư tử tọa. Đế thích đến ngự trên bảo tọa ấy. Hai bên tả hữu, mỗi bên mười sáu Thiên vương xếp hàng ngồi xuống. Chư Thiên khác tùy theo địa vị cao thấp, xếp hàng cùng ngồi. Bấy giờ, Đế thích có hai vị thái tử: vị thứ nhất tên là Chiên Đàn, vị thứ hai tên là Tu tỳ la, là hai đại tướng của Trời Đao lợi, cùng ngồi xuống hai bên tả hữu của Trời Tam thập tam. Bấy giờ, Thiên vương Đề Đầu Lại Tra đang ngồi theo cửa Đông, cùng các đại thần và quân lính, cung kính xin chư Thiên được vào ngồi phía trong. Bấy giờ, Thiên vương Tỳ Lưu Lặc Xoa đang ngồi theo cửa Nam, cùng các đại thần và quân lính, cung kính xin chư Thiên được vào ngồi phía trong. Bấy giờ, Thiên vương Tỳ Lưu Bác Xoa đang ngồi theo cửa Tây, Thiên vương Tỳ sa môn đang ngồi theo cửa Bắc (đều hành lễ như thế, xin được ngồi phía trong).

Tại Thiện pháp đường, bốn Thiên vương này đem tâu lên các việc thiện ác của thế gian với Đế thích và Trời Đao lợi. Khi ấy, đức Thế tôn bảo thế này: “Vào ngày mồng tám hằng tháng bốn Thiên vương du hành khắp thế gian, lần lượt quan sát vào đúng ngày này, nhiều ngần nào, ít ngần nào, kẻ giữ gìn tám giới. Nhiều ngần nào, ít ngần nào, kẻ làm bố thí. Nhiều ngần nào, ít ngần nào, kẻ tu hạnh phước đức. Nhiều ngần nào, ít ngần nào, kẻ kính trọng cha mẹ, Sa môn, Bà la môn, các vị tôn trưởng trong nhà. Vào ngày mười bốn và rằm hằng tháng, cũng làm như thế. Nếu không có kẻ gìn giữ tám giới, bố thí, tôn trọng, bấy giờ, bốn Thiên vương Thiện pháp đường, đem mọi việc ấy tâu lên cùng Đế thích. Bấy giờ, Đế thích và chư Thiên nghe xong, sinh lòng áo não, phán thế này: “Việc này không tốt, trong nhà lỗi đạo, các tôn trưởng của chư Thiên ắt phải hao tổn, bè bạn A tu la ắt ngày càng nhiều hơn”. Nếu có kẻ giữ gìn tám giới, bố thí tu phước, kính lễ các vị Sa môn, tôn trưởng. Bốn Thiên vương đem tâu lên xong, Đế thích và chư Thiên nghe xong sẽ sinh lòng hoan hỷ, nói thế này: “Việc này rất tốt, quyến thuộc của chư Thiên theo chánh pháp ngày càng đông đảo, bạn bè A tu la dần dần giảm bớt”. Thế nên, trùng tụng dẫn chứng lời kệ của Phật như sau:

“Bốn đại thần Thiên vương,
Mồng tám xét thiên hạ.
Thái tử của Thiên vương,
Mười bốn xem thế gian.
Ngày rằm là tốt nhất,

Nghe đồn danh Thiên vương, Du hành khắp thế gian, Xem xét việc thiện ác. Cho hay ý thế gian, Cùng hợp với Thiên đạo. Tôn trưởng có nhiều vị, Bố thí thành Bồ tát.

Trừ sân, thường tu đạo,
Nam nữ phước đức tăng.
Bấy giờ Trời Đao lợi,
Hay tin, rất hoan hỷ,
Thường đem lòng tán thán.
Thiên vương tâu việc tốt,
Quyến thuộc của chư Thiên,
Dần dần đông đúc hơn.
Cầu xin bạn tu la,
Ngày càng giảm bớt dần.
Thường tâm niệm chánh giác,
Phật bảo cùng Thánh chúng,
Được an lạc trên Trời.
Tâm thường sinh hoan hỷ,

Chứng thế, xuất thế quả,
Được sinh vào Nhân đạo.
Tốt với Phật, Pháp, Tăng,
Được ở cùng Tam bảo.
Ta nay vì các người,
Nói ba điều hiền thiện.
Nếu ai tìm chân thật,
Bỏ ác, tu hạnh thiện.
Có được của báu này,
Từ ít sẽ thành nhiều. 
Các Trời Đao lợi kia,
Nhờ thiện nhỏ, sinh Thiên.
Các vị Trời Đế thích,  
Nhờ phước đức nổi danh,
Họp ở Thiện pháp đường,
Và ở các nơi khác. 
Nam nữ nào làm thiện,  
Được Thiên vương tâu lên,
Trời đem lòng yêu mến,
Huân tập khắp chư Thiên”. 

Thứ mười ba: PHẦN THÔNG LỰC

Theo kinh Lâu Thán nói: “Trong khoảng giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới, có riêng Ma cung. Ma ấy chất chứa lòng ganh tỵ như đá mài, mài tan công đức. Ma cung ngang dọc rộng sáu ngàn do tuần, có bảy lớp tường thành, đều rất nghiêm trang, như ở cõi Trời phía dưới. Bảy cõi Trời phía trên có đủ mười phép: Một là bay đi không hạn chế số lần. Hai là bay đến không hạn chế số lần. Ba là đi không trở ngại. Bốn là đến không trở ngại. Năm là thân Trời không có da dẻ, xương tủy, gân cốt, huyết thịt. Sáu là thân không có đại tiện, tiểu tiện dơ uế. Bảy là thân không gầy gò quá mức. Tám là Thiên nữ không sinh sản. Chín là mắt Trời không biết nháy. Mười là thân tùy theo ý muốn, thích xanh thì hóa xanh, thích vàng thì hóa vàng. Thích các màu sắc khác, cũng đều được như thế. Lại có thêm mười sự kiện: Một là phi hành không cùng. Hai là đi về không cùng. Ba là Trời không trộm cắp. Bốn là không kể cho nhau chuyện tốt xấu của bản thân. Năm là không lấn chiếm nhau. Sáu là răng cửa chư Thiên đều đặn và suôn. Bảy là tóc màu hoe xanh, óng ả, dài tám thước. Tám là người Trời màu xanh, tóc cũng màu xanh. Chín là nếu muốn thành trắng, thân liền thành trắng. Mười là nếu muốn thành đen, thân liền thành đen”.

Kinh Khởi Thế cũng nói: “Tất cả chư Thiên đều có mười phép riêng. Là mười phép gì? Một là khi chư Thiên đi, thì đi lại không cùng. Hai là khi chư Thiên đi, thì đi lại vô ngại. Ba là khi chư Thiên đi, thì không nhanh chậm. Bốn là khi chư Thiên đi, thì chân không có dấu. Năm là thể lực của chư Thiên không sợ mệt nhọc. Sáu là thân của chư Thiên có hình không có bóng. Bảy là chư Thiên không có đại tiện, tiểu tiện. Tám là tất cả chư Thiên không hỉ mũi, nhổ nước bọt. Chín là thân của chư Thiên thanh tịnh tốt đẹp, không có da thịt, gân mạch, khí huyết, cốt tủy. Mười là thân của chư Thiên muốn hiện thành cao thấp, xanh vàng, đỏ trắng, lớn nhỏ, tinh thô, tùy theo ý muốn liền được. Tất cả đều tuyệt đẹp, trang nghiêm lạ lùng, khiến người yêu thích. Tất cả chư Thiên đều có đủ mười loại phép riêng không thể nghĩ bàn này. Hơn nữa thân của chư Thiên sung mãn, đầy đặn. Răng trắng, vuông vức khít khao. Tóc xanh ngay ngắn, mềm mại, óng ả. Thân có hào quang và có thần lực. Cưỡi hư không ngao du. Mắt nhìn không chớp. Có chuỗi ngọc tự nhiên, y phục không cáu bẩn.

Như luận Thuận Chánh Lý nói: “Bốn Thiên vương bay lên Trời Tam thập tam, không thấy được Trời Tam thập tam ấy. Bay lên gặp chư Thiên Dạ ma, cũng thế. Nếu bốn Thiên vương ấy có được thần thông phát huy từ định lực, thì đã có thể bay lên gặp được tất cả chư Thiên trên các cõi ấy. Hoặc nhờ Tha lực, thì đã có thể bay lên gặp chư Thiên trên các cõi ấy. Nghĩa là có được thần thông và sự tiếp dẫn của Thiên chúng trên ấy, thì có thể bay lên được các cõi ấy, tùy theo ý muốn. Hoặc chư Thiên trên ấy giáng hạ, thì có thể thấy được. Nếu khi chư Thiên trên ấy giáng hạ, không có hóa thân của cõi dưới, thì mắt của kẻ dưới không thể thấy được, vì khác cảnh giới, nên không biết được xúc trần của cõi trên ấy. Khi cõi trên giáng hạ xuống cõi dưới, cần phải hóa thành thân cõi dưới, khiến chúng sinh cõi dưới có thể thấy được Trời của cõi trên”.

Luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Người Diêm phù đề, nếu lìa thần thông và tha lực, thì không thể thấy được các sắc trần cản trở bên ngoài. Người ba châu còn lại, nếu lìa tha lực, thì không thể thấy được các sắc trần cản trở bên ngoài. Chư Thiên cõi Lục dục, nếu rời thần thông và tha lực, dù ngay ở cõi mình, không thể thấy rõ được các sắc trần cản trở bên ngoài. Nếu khi nhìn ra xa, chỉ thấy được phía trong núi Thiết Vi, không thể thấy được các sắc tướng phía ngoài núi ấy. Thiên vương Đại phạm, ở trong cung điện của mình, nếu lìa thần thông và tha lực, thì không thể thấy được các sắc trần cản trở bên ngoài. Nếu nhìn ra xa, chỉ thấy được trong phạm vi một ngàn thế giới”.

Thứ mười bốn: PHẦN THÂN QUANG

Theo luận Trí Độ nói: “Phước báo của chư Thiên làm thân sinh ra hào quang, nghĩa là thân của chư Thiên ở Dục giới thường phát hào quang, sánh kịp các loại đèn đuốc, minh châu. Nhờ các phép giữ giới, Thiền định được thanh tịnh, nên thân có hào quang, không cần mặt trời mặt trăng soi sáng. Chư Thiên ở Sắc giới hành Thiền lìa dục, tu tập được lửa Tam muội, nên thân thường phát hào quang vi diệu, hơn cả mặt trời mặt trăng và hơn cả chư Thiên lìa dục ở dục giới, được phước báo thân có hào quang. Nói tóm lại, chủ yếu, các hào quang này đều do tâm thanh tịnh mà có. Như các luận giải thích, trên mặt Phật thường có hào quang chiếu sáng, mỗi đạo dài hằng trượng. Hào quang ở thân chư Thiên rất lớn lao, dù đến vô lượng do tuần, nhưng để bên hào quang hằng trượng trên mặt Phật thì lại bị che mất, không thấy hiện ra”. Lại nữa, kinh Ưu bà di Tịnh hạnh nói rằng Phật bảo Tỳ kheo: “Như Lai có sáu loại hào quang. Là sáu loại nào? Một là hào quang xanh. Hai là hào quang vàng. Ba là hào quang đỏ. Bốn là hào quang trắng. Năm là hào quang hồng. Sáu là hào quang tím. Tất cả đều chiếu sáng. Đấy gọi là hào quang của Như Lai”. Lại nữa, kinh Trường A hàm nói: “Phật bảo các Tỳ kheo: “Ánh sáng của đom đóm không bằng ánh sáng của đèn đuốc. Ánh sáng của đèn đuốc không bằng ánh sáng của đuốc lớn. Ánh sáng của đuốc lớn không bằng ánh sáng của đống lửa. Ánh sáng của đống lửa không bằng ánh sáng của bốn Thiên vương. Ánh sáng của cung điện, y phục, hào quang trên thân của bốn Thiên vương gộp lại không bằng ánh sáng của Trời Tam thập tam. Lần lượt cho đến ánh sáng của Trời Sắc cứu cánh không bằng ánh sáng của Trời Tha hóa tự tại. Ánh sáng của Trời Tha hóa tự tại không bằng ánh sáng của Phật.

Nếu đem gộp lại tất cả mọi chỗ ánh sáng ấy, từ ánh sáng của đom đóm đến ánh sáng của Phật, cũng không bằng được ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Thế nên, các Tỳ kheo muốn tìm ánh sáng, thì phải tìm ánh sáng của Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Vả lại, con người có bảy sắc. Là bảy sắc nào? Có người có sắc vàng của vàng, có người có sắc lửa, có người có sắc xanh, có người có sắc đỏ, có người có sắc đen. Đôi lúc chư Thiên và A tu la cũng có bảy sắc như thế”. Hơn nữa, luận Lập Thế A tỳ đàm nói: “Màu sắc trên thân chúng sinh ở Nam Diêm phù đề có nhiều loại, không giống chúng sinh ở Đông Phất bà đề. Người Tây Cù da ni, trừ màu đen ra, các màu khác đều giống người Nam Diêm phù đề. Tất cả người Bắc Uất đơn việt chỉ có thuần một màu trắng. Bốn Thiên vương có bốn loại màu: Có xanh hoe, có đỏ, có vàng, có trắng. Tất cả chư Thiên ở dục giới cũng đều như thế”. Tại sao bảo màu sắc của chư Thiên này có bốn loại? Bởi vì khi mới thọ sinh, nếu thấy màu xanh hoe rực rỡ thì có màu xanh hoe. Các màu còn lại cũng đều như thế”.

Thứ mười lăm: PHẦN THỊ DỊCH

Theo kinh Khởi Thế nói: “Người Diêm phù đề có việc mua bán, hoặc dùng tiền bạc, bảo vật, hoặc dùng lúa gạo, vải lụa, hoặc dùng chúng sinh. Người Cù da ni có việc mua bán, hoặc dùng trâu dê, hoặc dùng châu ngọc quý hiếm. Người Phất bà đề có việc mua bán, hoặc dùng hàng hóa vải lụa, hoặc dùng ngũ cốc, hoặc dùng châu ngọc quý hiếm. Người Uất đơn việt không dùng đến việc mua bán, vì nhu cầu tự nhiên có sẵn”.

Như kinh Khởi Thế nói: “Chư Thiên ở cõi Dục giới, như Trời Tứ thiên vương, Trời Tam thập tam đều có việc mua bán, đi tham quan, song chỉ cốt cho vui vẻ tinh thần. Thật sự khác hẳn với người thế gian, như trước đây đã nói”.

Thứ mười sáu: PHẦN HÔN LỄ

Như kinh Khởi Thế nói: “Ba châu còn lại đều có phép tắc hôn lễ giữa nam nữ. Người Uất đơn việt không có chỗ riêng. Nếu cây cong xuống che kín, nam nữ liền giao hợp, không dùng đến hôn lễ. Các loại Rồng, chim Kim sí, A tu la đều có phép tắc hôn lễ giữa nam nữ, hơi giống người thế gian. Chư Thiên cõi Lục dục và Thiên ma đều có hôn lễ, như trên đã nói qua. Từ đây trở lên các Trời còn lại, đều không có chuyện hôn lễ, vì không có sự khác biệt về nam nữ. Người ở bốn châu, nếu mỗi lần muốn hành dục, thì hai vật âm dương cùng đến, chất dơ tiết ra. Tất cả các loại Rồng, chim Kim sí, nếu mỗi lần muốn hành dục, thì hai vật âm dương cùng đến, chỉ có làn khí tỏa ra, liền được khoái lạc, không có chất dơ. Trời Tam thập tam, mỗi lần muốn hành dục, thì hai vật âm dương cùng đến, liền được khoái lạc, cũng tỏa ra làn khí, như các loài Rồng, chim Kim sí ở trước, không khác chút nào. Trời Dạ ma cùng nắm tay nhau thành ra hành dục. Trời Đâu suất đà cùng tưởng nhớ đến nhau thành ra hành dục. Trời Hóa lạc cùng nhìn nhau say đắm thành ra hành dục. Trời Tha hóa tự tại cùng tâm sự với nhau thành ra hành dục. Các Trời Ma thân cùng trông nhau thành ra hành dục. Tất cả đều được khoái lạc, thỏa nguyện chuyện dục”.

Hơn nữa, luận Lập Thế nói: “Trời Tứ thiên vương nếu đi hỏi Thiên nữ, khi nhà Thiên nữ hứa gã xong xuôi, mới được rước dâu, hoặc bán chác, hoặc trao đổi. Chư Thiên cõi Dục giới cũng đều như thế. Người Diêm phù đề và ba châu còn lại, các Trời Tứ thiên vương, Trời Đao lợi đều phải cùng nhau hòa hợp mới thành dục. Trời Dạ ma cùng ôm ấp nhau thành ra hành dục. Trời Đâu suất cùng nắm tay nhau thành ra hành dục. Trời Hóa lạc cùng cười với nhau thành ra hành dục. Trời Tha hóa tự tại cùng nhìn nhau thành ra hành dục. Người Tây Cù da ni hưởng thụ khoái lạc nhiều gấp đôi người Diêm phù đề. Cứ thế, lần lượt lên đến Trời Tha hóa tự tại hưởng thụ khoái lạc nhiều gấp đôi Trời Hóa lạc. Người bốn châu còn lại đều có kẻ kén ăn, đều có kẻ mang thai, các Thiên nữ ở cõi Trời Tứ thiên vương không ăn rỡ, không mang thai, không sinh con, không ẳm con. Khi nam nữ sinh con, hoặc trên đầu gối, hoặc ở chỗ ngủ, đều có thể sinh được. Nếu sinh ở chỗ người nữ, Thiên nữ nghĩ rằng: “Đây là con ta”. Thiên nam cũng nói là: “Đây là con ta”. Thế là con của một cha một mẹ. Nếu sinh trên đầu gối, ở chỗ ngủ của người cha thì con chỉ có một cha, nhưng các thê thiếp khác đều được làm mẹ. Cũng có người tu hành đến chết, không hành dục. Chuyện sinh con, hành dục của Trời Tứ thiên vương nhiều vô số lượng, nhưng cũng có người tu hành đến chết, không hành dục. Tất cả chư Thiên ở cõi Dục giới cũng đều như thế. Hết thảy người nữ đều lấy sự đụng chạm làm khoái lạc. Tất cả người nam, khi tiết ra chất dơ, đều lấy làm khoái lạc. Chư Thiên ở dục giới lấy việc tỏa ra chất khí làm khoái lạc”.

Lại nữa, luận Tân Bà sa nói: “Dẫn chứng lời Khế kinh bảo: “Lúc kiếp mới bắt đầu, người không có vật âm dương, hình tướng không khác nhau. Sau khi ăn vị đất, liền sinh ra vật âm dương, do đó mới có hình tướng nam nữ khác nhau. Vì cõi Sắc giới xa lìa Đoạn thực, nên không có hai vật âm dương”. Có người bảo: “Hai vật âm dương, cõi Dục giới dùng đến, cõi Sắc giới không dùng. Thế nên, cõi Sắc giới ấy không có hai vật này. Hai căn mũi lưỡi, cõi Dục giới dùng đến, cõi Sắc giới không dùng. Thế nên, cõi Sắc giới ấy không có hai căn này”. Hỏi: “Thiên chúng ở sắc giới là nữ hay nam?”. Đáp: “Nên nói thế này: “Cõi ấy đều là nam. Tuy không có nam căn, nhưng tướng còn lại đều tướng trượng phu, lại thường xa lìa dục nhiễm, nên mới nói đều là nam”.

Thứ mười bảy: PHẦN ẨM THỰC

Như kinh Khởi Thế nói: “Tất cả chúng sinh có bốn loại thức ăn để nuôi dưỡng các đại dược duy trì. Là bốn loại nào? Thứ nhất là Thô đoạn và vi tế thực, thứ hai là Xúc thực, thứ ba là Ý tứ thực, thứ tư là Thức thực. Loại chúng sinh nào cần ăn Thô đoạn vi tế thực? Như các người Diêm phù đề ăn các thứ bột ngũ cốc, đậu, thịt, gọi là Thô đoạn thực. Xoa bóp, tắm rửa, chùi sáp thơm gọi là Vi tế thực. Ngoài ra, người ba châu và chư Thiên cõi Lục dục đều dùng đến Thô đoạn và Vi tế thực. Từ đây trở lên các Trời Sắc giới, Vô sắc giới đều lấy Thiền duyệt, Pháp hỷ làm thức ăn, không dùng đến Thô đoạn và vi tế thực”.

Hỏi: “Loại chúng sinh nào lấy Xúc làm thức ăn?”.

Đáp: “Tất cả các loài noãn sinh, vì có thân nên đều lấy Xúc làm thức ăn”.

Loại chúng sinh nào lấy Ý tứ làm thức ăn?. “Nếu có chúng sinh nào lấy ý tứ nuôi dưỡng các ăn tăng trưởng như các loài cá, ba ba, rắn, ểnh ương, Già la cù đà và các chúng sinh khác đều lấy ý tứ nuôi dưỡng mạng sống các căn, thì các chúng ấy đều dùng ý tứ làm thức ăn”.

Loại chúng sinh nào lấy Thức làm thức ăn?. “Nghĩa là các loại chúng sinh ở địa ngục và các Trời Vô biên thức xứ đều lấy ý thức làm thức ăn. Trời Tứ thiên vương đều ăn vị Tu đà. Sáng ăn một nắm, chiều ăn một nắm. Ăn vào cơ thể xong liền biến đổi thành thân mạng. Vị Tu đà nầy ở vườn tược, ao hồ, vườn cảnh đều có mọc tự nhiên. Vị Tu đà nầy cũng có thể biến thành tám món ăn uống như Khư đà ni. Tất cả chư Thiên ở Dục giới cũng đều ăn như thế. Chư Thiên ở Sắc giới, từ cõi Sơ Thiền đến cõi Biến tịnh, đều lấy niềm vui làm thức ăn. Chư Thiên từ cõi Vô sắc giới trở lên, đều lấy ý thức làm thức ăn”.

Hỏi: Chư Thiên ăn uống như thế nào?.

Đáp: Như kinh nói: “Chư Thiên ở Dục giới, tùy theo phẩm bậc sang hèn, có thức ăn tốt xấu không giống nhau. Kẻ phước dày, tùy theo ý nghĩ, đều được cung ứng đầy đủ, uống thì nước cam lồ đầy ly, ăn thì trăm món cùng hiện đến. Kẻ phước mỏng, tuy có ăn uống nhưng thường không vừa ý lắm, vì không được no đủ, nên còn xuống các cõi dưới kiếm ăn”. Bởi thế, kinh có nói: “Thí dụ như chư Thiên cùng thức ăn đựng trong đồ quý giá, tùy theo phước đức, thức ăn có màu sắc khác nhau, bậc thượng phẩm thì thấy màu trắng, bậc trung phẩm thì thấy màu vàng, bậc hạ phẩm thì thấy màu đỏ. Chư Thiên ở Sắc giới lấy Thiền duyệt làm thức ăn. Nếu luận theo Tứ thực chỉ có lối Xúc thực”.

Thứ mười tám: PHẦN BỘC THỪA

Hỏi: “Chuyện tùy tùng xe ngựa của chư Thiên thì thế nào?”. Đáp rằng như kinh nói: “Sáu Trời Dục giới đều có tùy tùng xe ngựa. Bộc là tùy tùng, thừa là cưỡi đi. Vì sáu Trời Dục giới đều có phép tắc tôn ti, thượng hạ của vua tôi, thê thiếp, nên kẻ hèn mọn phải phục tùng bậc tôn nghiêm, kẻ phận dưới phải phục tùng đấng bề trên. Cưỡi đi là vì sáu Trời Dục giới đều có nhiều loại súc vật. Chư Thiên muốn du hành, tùy ý cưỡi đi. Hoặc cưỡi voi ngựa, hoặc cưỡi khổng tước, hoặc cưỡi loài Rồng.

Nếu theo luận Bà sa nói thì từ Trời Đao lợi trở xuống, có đủ các loài voi ngựa, le nhạn, uyên ương, khổng tước, rồng. Từ Trời Diệm ma trở lên, đều không còn các chúng sinh voi ngựa bốn chân, mà chỉ có loài chim Giáo phóng dật, Thật ngữ, Xích thủy trách mắng chư Thiên, dạy đừng phóng túng”. Hỏi: “Nếu không có loài chúng sinh voi ngựa bốn chân, chư Thiên ở đấy muốn đi đâu, thì cưỡi cái gì?”.

Đáp: “Theo như luận tự nói rồi tự giải thích, thì tuy không có voi ngựa, nhưng chư Thiên muốn đi đâu, nhờ vào phước lực, liền có voi ngựa, theo tâm hóa thành, tùy ý cỡi đi. Cưỡi xong liền hóa mất. Loài chim Giáo phóng dật này, khắp sáu Trời Dục giới đều có, thường làm thấy cho chư Thiên để trách mắng lỗi phóng túng, không riêng gì Trời Diệm ma trở lên mới có”.

Hỏi: “Chim này vốn là loài vật, tại sao lại có thể làm thầy cho Chư Thiên?”.

Đáp: Theo kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Khi chim nầy còn làm người, vốn là thầy dạy ở ba châu. Chư Thiên vốn là chúng sinh được giáo hóa. Do tín thọ giáo hóa, nên đã bố thí, giữ giới, nay được sinh lên Trời. Khi chim này còn làm thầy, vì danh lợi, đã phá giới, lòng lại không chân thật, nay được làm chim trên Trời, nhưng nhờ có chút thiện lực của giáo hóa nên nay được sinh lên Trời. Do gốc là thầy giáo hóa, nên được làm thầy cho chư Thiên. Nếu thấy chư Thiên phóng túng, lập tức đến trách mắng. Chư Thiên nghe thấy xong đều sinh lòng hỗ thẹn, bèn đổi thay, không phóng túng nữa”.

Thứ mười chín: PHẦN QUYẾN THUỘC

Hỏi: “Quyến thuộc của chư Thiên nhiều ít thế nào?”.

Đáp: Theo luận nói: “Chư Thiên ở Sắc giới, không thể nói quyến thuộc, có số lượng rất đông đúc. Nghĩa là chư Thiên ở đấy không phải nam, cũng chẳng phải nữ, không phối hợp với nhau. Sinh thì hóa sinh ra, tử lại hóa diệt mất đi. Nhờ hai loại y báo, chánh báo, cung điện tự nhiên hiện ra theo. Lấy Thiền định làm nguồn vui, nên không thể nói quyến thuộc của chư Thiên ở đây có số lượng nhiều ít như thế nào được.

Chư Thiên ở Dục giới có nam nữ cùng phối hợp với nhau, nên kinh Đại Cát Nghĩa Chú nói: “Bốn Thiên vương hộ thế thống lãnh bốn phương. Thiên vương Đề Đầu Lại Tra thống lãnh đám Càn thát bà. Thiên vương Tỳ Lưu Bác Xoa thống lãnh đám Cứu bàn trà. Thiên vương Tỳ Lưu Lặc Xoa thống lãnh loài Rồng. Thiên vương Tỳ sa môn thống lãnh đám Dạ xoa. Bốn Thiên vương này, mỗi vị có chín mươi mốt người con trai, dung mạo đoan trang, có uy lực lớn, đều gọi là Đế. Bốn Thiên vương này gồm có ba trăm sáu mươi bốn người con trai, thường hộ vệ khắp cả mười phương. Có Thích đề hoàn Nhân thống lãnh tất cả thế giới bốn phương. Thiên vương Đại phạm thống lãnh trên cõi Trời”. Lại nữa, luận Trí Độ nói: “Tất cả sơn hà, thảo mộc, đất đai, thành quách, tất cả quỷ thần đều lệ thuộc vào sự thống lãnh của bốn Thiên vương. Thế nên, tất cả đều cùng nhau tháp tùng bốn Thiên vương mà đến. Trong đám quỷ thần này, có kẻ không có được quyển kinh Bát Nhã Ba la mật, nên kẻ ấy đi đến chỗ Bát nhã ba la mật, hành lễ, cúng dường, thì cũng được lợi ích”. Từ Trời Đao lợi của Dục giới trở lên, quyến thuộc của chư Thiên trở thành đông đúc không thể xác định số lượng. Như Đế thích có đủ chín mươi ức Na do tha Thiên nữ và có hàng ngàn người con cùng vô số quần thần họp thành quyến thuộc”.

Thế nên, kinh ấy có kệ rằng:

“Đế thích hiện khắp chư Thiên nữ,
Chín mươi hai ức Na do tha. 
Thiên nữ người người đều tự bảo
Thiên vương chỉ cùng ta vui chơi!”

Thứ hai mươi: PHẦN QUÝ TIỆN

Hỏi: Sự sang hèn của chư Thiên thì thế nào?.

Đáp: Trước tiên, sáu Trời ở Dục giới có sự sang hèn khác nhau, vì có sự phân biệt giữa vua tôi, dân chúng và thê thiếp. Như trong Trời Đế thích thì Đế thích là vua, ba mươi hai Trời là quần thần. Các Thiên chúng còn lại là dân chúng. Phu nhân làm đẹp lòng trong hàng Thiên nữ là Thiên hậu. Các Thiên nữ còn lại là thứ thiếp. Năm Trời kia đều giống như thế. Trong Sắc giới, chỉ riêng ba cõi Sơ Thiền là có sang hèn, Đại phạm là vua, Phạm phụ là quần thần, Phạm chúng là dân chúng. Từ đây trở lên, chư Thiên hưởng phước báo như nhau, nên lại không còn phân biệt sang hèn nữa”.

Thứ hai mươi mốt: PHẦN BẦN PHÚ

Hỏi: Sự giàu nghèo của chư Thiên là thế nào?.

Đáp: Như kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Từ Trời Diệm ma trở lên cho đến hết tất cả chư Thiên ở sắc giới, sự giàu nghèo đều giống nhau. Từ Trời Đao lợi trở xuống, tùy theo phước báo dày mỏng mà có sự phân biệt giàu nghèo. Vị có phước dày, tất cả đều đầy đủ, hưởng thụ dư thừa. Vị có phước mỏng, tuy có y phục, cung điện làm bằng bảy loại bảo vật, nhưng ăn uống thường không no đủ”. Thế nên, kinh ấy có nói: “Đã từng có chư Thiên mỏng bề phước đức, vì bị nạn đói, phải hành hạ xuống cõi người Diêm phù đề, hái táo chua để ăn. Người ở đây thấy hình thù dị thường, sợ sệt xúm đến hỏi han. Vị ấy đáp rằng: “Ta thật không phải là người mà chính là Trời bạc phước. Tuy có cung điện, y phục tuyệt đẹp, nhưng ăn uống thường không no đủ, nên phải xuống đây hái táo để ăn. Các người chớ nên sợ sệt!”. Kinh điển hay phổ biến chuyện này”, (do kiếp trước tu hành giữ giới, nhẫn nhục, nhưng không làm bố thí).

Thứ hai mươi hai: PHẦN TỐNG CHUNG

Như từ Trời Tứ thiên vương đến Trời A ca ni tra, nếu trong gia quyến có người chết thì không đưa tiễn, không hỏa thiêu, không vứt thây, không chôn cất. Vừa khi thân quang vụt tắt thì sẽ không còn hình hài, vì được hóa sinh ra. Trời Tứ thiên vương hoặc tự mình sát sinh, hoặc khiến vị khác sát sinh. Sinh vật đã chết không ăn thịt. Chư Thiên Trời Đao lợi cũng như thế. Từ Trời Dạ ma trở lên Trời A ca ni tra, đều không tự mình sát sinh, cũng không khiến người khác sát sinh. Sinh vật đã chết không ăn thịt. Vì do hóa sinh ra, nên khi chết đi, không còn thi hài.

Tụng rằng:

“Tam giới rối loạn,
Lục đạo mênh mông.
Đi về không dứt,
Chịu khổ vô cùng.
Quả báo siết chặt,
Đau đớn giăng hàng.
Thật do nghiệp ác,
Đành phải nguy vong.
Đâu hay chết đuối!
Nào biết bè sang!
Chồng chất gánh nặng,
Chưa bay nhẹ nhàng.
Nguyện thoát cõi tục,
Về nghỉ tịnh bang.
Một niềm quy chánh,
Vạn thọ vô cương!”.



Từ Ngữ Phật Học Trong: Tam Giới