Yếu nghĩa Bát Nhã
Định nghĩa về Bát Nhã chỉ là gắng gượng tạm thời, và có lẽ sự gượng ép tạm thời định nghĩa như vậy cho đến khi ngộ nhập chứng đạo mới thôi. Thật ra chúng sinh hễ còn đang trên đường học Phật thì chưa hiểu gì về Bát Nhã! Phải chứng đạo đắc quả, chừng ấy mới gọi là hiểu Bát Nhã, liễu ngộ Bát Nhã; và rồi sẽ không còn gì để gọi Bát Nhã hay không Bát Nhã, bởi vì hiểu biết thế gian trong dục giới chẳng thể luận bàn, chẳng thể nói được thế nào là trí Bát Nhã.
Tuy nhiên pháp Phật vi diệu, tâm Phật từ bi, trí Phật siêu việt, nên các pháp bất khả tư nghì hóa thành mọi thứ bình thường dung dị, khiến hàng phàm phu vô minh như chúng ta còn có cơ hội nhân duyên học hiểu; dù sự học hiểu chỉ sánh bằng một giọt nước trong biển pháp Như Lai.
Vậy chúng ta hiểu Bát Nhã như thế nào? Chúng ta hiểu Bát Nhã là trí huệ, một trí huệ không tìm được ở thế gian. Trí huệ đó không đưa đến khổ, cũng chẳng dao động khi vui mừng an lạc, trí huệ đó tự tại hết thảy trong đời sống; và trí huệ đó không bị bất cứ việc gì có thể làm trở ngại nghĩa là trí huệ sẽ hiểu hết tất cả thế gian và xuất thế gian. Tóm lại nói thế nào cũng không nói hết được trí huệ của bậc chứng đạo!
Nhưng thật buồn thay, phàm phu chúng ta chỉ hiểu như vậy chứ tuyệt đối chưa bao giờ kinh nghiệm! Cũng không phải đời này chưa kinh nghiệm, cả vô lượng kiếp đến nay cũng chưa từng có. Chắc chắn như vậy, nếu không chúng ta đã chẳng bàn luận gì ở đây!
Chư Bồ Tát, Thánh Tăng có kinh nghiệm Bát Nhã, cho nên chẳng nói nhiều, chẳng cần giải thích, vì làm như thế không lợi gì cho các Ngài, hơn nữa có nói chúng ta cũng chẳng hiểu. Nếu phương tiện mà nói thì các Ngài cũng phải tùy duyên tùy cảnh mà thôi.
Vậy thì những gì phàm phu hiểu về Bát Nhã, chỉ qua văn từ nghĩa lý nơi kinh điển, luận giải của Phật và chư Thánh Tăng. Chẳng hạn Kinh luận dạy có ba loại Bát Nhã: Một là Thật tướng Bát Nhã, hai Quán chiếu Bát Nhã và ba là Phương tiện Bát Nhã, hoặc Văn Tự Bát Nhã.
Thật tướng chỉ bản thể sáng suốt, là trí giác, là Phật tánh bên trong chúng sanh. Quán Chiếu Bát Nhã là do vốn sẵn có tánh giác, nên quán chiếu được đối tượng vạn pháp đạt đến trí Bát Nhã. Và Phương tiện Bát Nhã là với trí lực tương đối của phàm nhân phán đoán các pháp sai biệt để tìm học Bát Nhã. Riêng Văn Tự Bát Nhã là kinh văn giải thích Thật tướng và Quán Chiếu Bát Nhã nên chúng sinh có thể hành trì tu tập.
Thiết nghĩ phần thứ ba, Văn Tự Bát Nhã phải là phần quan trọng trong thời mạt pháp ngày nay, vì không có kinh văn làm sao con người có nhân duyên tìm học để biết Phật tánh nơi mỗi chúng sinh mà quán chiếu! Cho nên dù hiểu thế nào muốn nhập đạo giải thoát phải qua Kinh Văn.
Như vậy hiểu biết Bát Nhã là phải nhờ Kinh Văn, phương tiện, quán chiếu; và đạt được Bát Nhã nghĩa là thành tựu quán chiếu, thành tựu phương tiện liễu giải kinh điển. Nếu một người thành tựu quán chiếu Bát Nhã và phương tiện Bát Nhã, thì có nghĩa người này đã có trí Bát Nhã mà không cần phải giải thích thế này thế kia. Hay nói đúng hơn người này đã đi vào dòng Thánh ngay tại thế gian này.
Vậy thì ai có thể làm được? Ai có thể có được trí Bát Nhã? Câu trả lời tự mỗi người biết rõ hơn ai. Bao giờ một người còn tự thấy mình sống trong phiền não, sống trong hạnh phúc, người đó chẳng bao giờ có được Bát Nhã! Nói như vậy cũng khó hiểu, vì các vị Thánh Tăng chứng quả vẫn có một đời sống bình thường như bao nhiêu người; và nếu sống bình thường như chúng sanh, thì các Ngài phải biết khổ, biết vui. Như thế chứng Bát Nhã có khác gì, có lạ chi đâu?
Vâng, Bát Nhã chỉ có lạ chỉ có khác đối với phàm phu cầu học như chúng ta, chứ đối với chư vị Bồ Tát, chư Phật, tuyệt đối không phải. Chúng ta phiền não vô minh nên cầu Bát Nhã để được giải thoát, còn chư Bồ Tát, chư Phật mọi hành động ngôn từ đều giác tỉnh, an định rọi sáng hết thảy vạn pháp thế gian, thì còn gì để biết Bát Nhã hay không Bát Nhã. Sự xuất hiện của các Ngài là xuất hiện Bát Nhã. Nhưng vì không thể không phương tiện độ sanh, nên phải tác tạo bao hình ảnh ngôn ngữ thuyết minh cho chúng sinh hiểu, và Bát Nhã đã được bàn đến, cũng như miễn cưỡng so sánh đối chiếu với pháp thế gian, gọi là thế gian trí tương đối, và Bát Nhã là trí huệ tuyệt đối. Cho nên nếu muốn được Bát Nhã, không phải dứt hết tham sân si là được, mà dứt cả cái dứt hết tham sân si luôn mới được.
Hẳn chúng ta thường nghe kinh Kim Cang Phật dạy rõ vấn đề này, nếu vị Bồ Tát còn thấy mình chứng đắc, thì xem như chẳng có chứng đắc gì; và nếu chứng đắc mà không xem mình chứng đắc, đó mới thật là chứng đắc! Rõ ràng là như vậy, vì sao? Vì những gì chứng đắc đó vốn đã thanh tịnh vốn đã tự tại siêu việt trong thể tánh; còn hiện tượng các pháp, các duyên đối tượng nhận thức, cũng vốn là nhân duyên sinh không thật có, thế thì chứng đắc là chứng đắc cái chi? Không lẽ chứng cái hư không vắng lặng? Cho nên trong Tâm Kinh Bát Nhã có đoạn: …không có trí huệ, cũng không có chứng đắc…(…vô trí diệc vô đắc...).
Đó là một sự thật, nói theo yếu nghĩa Bát Nhã mà chư vị Bồ Tát đã tu đã kinh nghiệm qua, hoàn toàn khác với phàm phu sống chìm trong sinh tử, chỉ hiểu biết trên mặt lý thuyết, nên thường sinh phiền não, dù biết phiền não vốn rỗng không chẳng thật có! Như thế rõ ràng ta chưa từng đạt một tí gì kinh nghiệm Bát Nhã.
Tạm hiểu Bát Nhã như thế, đến đây thử nhìn vào thế gian qua đời sống thương yêu chưa đạt nghĩa Bát Nhã.
Yếu nghĩa thế gian trong thương yêu.
Thử nói về tình thương yêu của chúng sinh chưa đạt Bát Nhã; ta sẽ thấy chỉ là đau khổ, vì yêu thương bằng phân biệt tham chấp. Phân biệt người trong gia đình, phân biệt người thân kẻ sơ, cho đến quốc gia chủng tộc. Vì phân biệt nên sinh tham chấp, vì tham chấp chiến tranh bùng nổ.
Căn bản đạo đức của người thế gian, cao quý nhất là tình thương yêu Cha Mẹ Ông Bà; và theo truyền thống Á Đông, người con có hiếu Cha Mẹ thường được ca ngợi kính trọng, xem là một người gương mẫu, đáng học theo. Người con hiếu thảo này sẽ được ca tụng hơn, khen ngợi hơn, nếu cung cách hiền hòa yêu mến đối với anh chị em trong nhà. Rồi người cao quý này sẽ được bà con cô bác láng giềng ca tụng, nếu cứ một phong thái cư xử dung hòa hiền lương với mọi người chung quanh lối xóm. Cuối cùng người cao quý này thể hiện được nghĩa vụ lương thiện cao quý với xã hội quốc gia, để trở thành một danh nhân đức độ, một người nhân đức lưu danh hậu thế.
Như thế, đó là yếu nghĩa yêu thương hoàn hảo của một cá nhân đại diện cho nhân loại trong thế gian pháp. Yếu nghĩa này trọn vẹn mang tính đạo đức nhân thiện luôn được đề cao; và thời đại không gian nào nhân loại cũng ao ước có được con người như vậy.
Tuy nhiên dù sao người học Phật cũng không quên chân lý duyên sinh Thành Trụ Hoại Không; do đó tình thương của một con người còn trong tương đối thế gian vẫn thường hạn cuộc, và bậc gọi là vĩ nhân của thế gian vẫn có kẻ thù; và nhất định không một ai ở thế gian này có thể hài lòng với một thời gian thật hạn hữu của một đời người. Thế thì phải cần học hiểu giáo lý duyên sinh giải thoát của bậc Toàn Giác, để tánh lương thiện càng được thăng hoa hơn nữa, và không chỉ giải khổ cho mọi người bằng tình thương thế gian, mà bằng giáo pháp giải thoát, cuối cùng đạt được chân hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh không phân biệt.
Chúng ta chỉ suy diễn đề cập đến một cá nhân cao thượng khó tìm trong thế gian, chứ nhìn chung đa số nhân loại sống trên địa cầu, chỉ toàn lo cho mình cho bản ngã, hay nhiều lắm là đất nước quốc gia của mình. Nhưng dù đa số có muốn lo cho nhân loại được hòa bình toàn diện, thì cũng không ngoài cơ bản phải lo chính mình trước; thấy được tính tham chấp sân giận nơi tâm, chừng đó mới có thể biết được thế giới làm sao dứt được chiến tranh, làm sao có được hòa bình yên ổn.
Chúng ta thử nói thêm về niềm thương yêu quý kính nhất của một con người khi được sinh ra; tất nhiên tình yêu thương đó sẽ là hình ảnh cha mẹ chúng ta; thế mà niềm thương kính quý nhất đó chỉ được thể hiện một cách tương đối!
Và dù ta có muốn thương yêu tuyệt đối cũng không được! Vậy nghĩa là sao? Bởi vì cha mẹ, hai người đều có thân thể tâm thức riêng biệt, ta không thể nào thay thế gánh bớt trao đổi được. Cha mẹ đến ngày già yếu bịnh hoạn sắp lìa đời, bấy giờ ta mới thấy thương yêu trở thành bất lực. Rõ ràng như vậy, vì chính ta vẫn còn bất lực khi đau yếu không khác gì cha mẹ.
Thương yêu người thân nhứt, mà chẳng cứu được, suy ra bà con, láng giềng, rồi cứ thế mà nghĩ đến cả nhân loại làm sao cứu đây? Nhưng giả dụ ta có thể cứu được cha mẹ đi nữa, thì bấy giờ làm sao có đủ thời gian cứu hết mọi người. Đó là ta tự cho mình là người hiếu thảo; và mong ước rằng trên thế gian này ai cũng hiếu thảo như ta thì họ sẽ cứu hết được cha mẹ họ. Nhưng đó là giả thuyết không tưởng, vì làm gì có ai sống hoài không chết, chân lý Sinh Trụ Dị Diệt không cho phép chuyện đó xảy ra.
Ta lại bất lực nhìn cha mẹ qua đời mà không cách nào khác hơn.
Yếu nghĩa thương yêu đền đáp của thế gian, qua hình ảnh cao quý của hai đấng sinh thành đủ để chứng minh là không chắc thật, không có gì bền vững kiên cố; như thế mà từ xưa đến nay đời sống thương yêu phải chịu mãi trong vòng lẫn quẩn vọng giả này. Đó chỉ lấy mặt thiện, tích cực luận bàn, không dám nói đến tiêu cực khổ đau, chứ thật sự thế gian có bao nhiêu người hiếu thảo cha mẹ, thương yêu anh chị em, trọn vẹn nghĩa vợ chồng… Hầu như tình thương chỉ trao đổi lợi hại mà thôi; hãy nhìn vào mỗi gia đình sẽ biết, tiếng khóc tiếng cười, tiếng nào nhiều hơn? Tuyệt đối tiếng khóc thật nhiều, nhiều như nước biển mà Phật đã từng dạy.
Cho nên chúng sinh lấy trí thế gian, trí phân biệt để sống, kết quả tất nhiên là nước mắt phải nhiều, vì từ ban đầu không biết bao nhiêu kiếp, do trí phân biệt tham chấp thế gian mới được hình thành, hình thành trong đau khổ.
Sau đây ta thử tìm hiểu thương yêu theo tinh thần Bát Nhã của người học Phật.
Ý nghĩa Bát Nhã trong thương yêu thế gian.
Tất nhiên như đã thưa, chúng ta chưa từng kinh nghiệm Bát Nhã, thì làm sao hiểu để thương yêu thế nào là thương yêu trong tinh thần Bát Nhã.
Xin thưa căn cứ lời Phật dạy, dựa theo luận giải chư Thánh Tăng, phàm phu chúng ta có thể hiểu biết phần nào phiền não, và ngược lại phần nào dứt trừ phiền nào; dứt phiền não là an lạc định tâm, có thể so sánh tạm thấy nghĩa lý Bát Nhã.
Thật ra ngay cả phiền não chúng ta cũng chưa lãnh hội, chưa thấm nhuần nghĩa lý, nếu thấm nhuần hiểu biết phiền não, ta đã sợ, đã lo tu tập từ lâu; vì không sợ nên chỉ sợ quả không sợ nhân, ngược với chư Bồ Tát sợ nhân không sợ quả. Phiền não còn không hiểu thấu, lại đi nói Bát Nhã có phải là hý luận hay không?
Chúng ta phải sám hối, phải thường tàm quý khi tự xưng là người Phật tử mà khó hành theo lời Phật dạy; cho nên phải dè dặt chẳng vội bàn luận cao xa, huống chi Bát Nhã là kết quả của hành đạo giải thoát, không phải lý thuyết luận bàn, nếu để bàn luận, thì tuyệt đối không biết gì là Bát Nhã.
Tuy nhiên cũng hiểu, sự bàn luận về Bát Nhã dù không đi đến đâu, vẫn là phương tiện thúc đẩy việc thực hành tu niệm, còn hơn là bàn luận vấn đề ngược lại Chánh Pháp. Nhưng lại biết người cầu Bát Nhã không chấp vào đâu cả, và hết thảy hình ảnh việc làm thế gian, dù có ngược chiều Chánh Pháp cũng là pháp học cho sự quan sát, quán chiếu các pháp là nhân duyên, nhân quả giúp ta nỗ lực tu hành.
Đạo Phật vì từ bi, dùng nhiều phương tiện hóa độ chúng sinh; vậy ta thử phương tiện hiểu đời sống tinh thần tình thương qua Bát Nhã.
Lấy lại hình ảnh Cha Mẹ để suy diễn qua cách hiếu thảo của người con. Người hiểu Bát Nhã, là người thấy được vạn pháp do duyên sinh, có sinh tất có diệt. Thấy tình thương cha mẹ không phải chỉ đơn thuần có công sinh dưỡng nuôi nấng; mà tình thương cha mẹ đã có từ quá khứ trước khi sinh ra ta. Trong quá khứ đó ta đã cùng đi với cha mẹ không biết bao nhiêu lần, và không biết bao nhiêu vai tuồng cùng đóng chung với cha mẹ có khi làm anh em, chị em, vợ chồng, con cháu… Mỗi lần đóng vai như vậy, cha mẹ và ta đã khóc và cười không biết bao nhiêu kể được, nhưng tuyệt đối khóc vẫn nhiều hơn. Khóc nhiều vì tham sân si, vì chưa hiểu luân hồi, cho nên tạo thành ân oán cứ tìm nhau mãi.
Nói riêng với cha mẹ là vậy, còn anh chị em, bà con cũng chẳng khác gì; bởi vì như đã nói, nếu ta đóng đủ vai trò trong vô vàn kiếp sống, thì những người bà con lại có khác gì cha mẹ ta? Thế là ta không chỉ có liên hệ với cha mẹ trong đời sống này, mà ta đã liên hệ tất cả người thân trong gia đình thân tộc. Cứ như vậy hiểu thêm cả làng ấp phố phường, và hết thảy người trong đất nước, ta cũng từng qua lại với nhau; và cuối cùng tất cả mọi người trên thế gian, ta vẫn có nhân duyên cùng nhau chung sống, cụ thể là sống chung nơi qua địa cầu này.
Vậy thì tình thương cha mẹ cũng là tình thương đất nước nhân loại, vì một sự nhân duyên liên hệ ràng buộc với nhau; nếu không có liên hệ che chở ta sẽ không thể được sinh ra, hay không thể sống được khi chào đời. Thử nghĩ nếu cha mẹ sống trong một xã hội đất nước đang chịu chiến tranh tàn khốc, hay bị bịnh dịch nguy hiểm hoành hành, thì ta có chịu ảnh hưởng không? Cho nên ta phải mang ơn tất cả, và hễ hiếu thảo cha mẹ bao nhiêu, ta cũng tư duy suy niệm hiếu sinh, hiếu dưỡng đến tất cả mọi người không phân biệt. Đó là tinh thần hiếu hạnh Bát Nhã của chư Bồ Tát; và nếu áp dụng thực hành theo, thì không những hòa bình thế giới được thực hiện, mà giải thoát luân hồi chắc chắn sẽ đến trong kiếp tương lai.
Tóm lại thương yêu trong tinh thần Bát Nhã là không phân biệt, không có dục lạc vị kỷ cá nhân, không tham, sân, si ái, mà thấy rõ tất cả là một dòng nhân duyên nhân quả trong định luật Thành Trụ Hoại Không. Như thế tình thương trí huệ (Bát Nhã) sẽ đem lại giải thoát chứ không chấp thủ khổ đau.
Qua việc tìm hiểu quan sát tình thương yêu hiếu thảo thế gian, và thương yêu của người học cầu Bát Nhã, chúng ta thấy rằng, chỉ có tình thương Bát Nhã chỉ có nhận ra tánh giác Phật tánh ở mỗi con người, thì mọi tình thương sẽ trở thành bất tử, không sinh cũng không diệt.
Cầu nguyện ánh sáng giải thoát tình thương Bát Nhã sẽ được chan hòa khắp cõi nhân gian, xóa đi bóng tối vô minh, hóa thành tịnh cảnh.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Thích Phổ Huân
11/08/2009