Home > Khai Thị Niệm Phật
Ý Nghĩa Và Giá Trị Tụng Niệm
Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan


Ý nghĩa tụng niệm đã được giải thích trong lời nói đầu Nghi Thức Tụng Niệm do Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam biên soạn dành cho hàng cư sĩ sử dụng với sự chứng minh của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Hoà Thượng Thích Thiện Hòa xin ghi lại như sau: 
 
 TỤNG là đọc tụng. NIỆM là suy nghĩ nhớ tưởng. TỤNG NIỆM là miệng đọc tụng tâm nhớ nghĩ, tâm và miệng hợp nhứt, chú định vào lời Kinh tiếng Pháp. Tụng niệm có nhiều ý nghĩa: 
 
  • Tụng niệm để giữ tâm hồn được trong sạch, giao cảm với các tâm niệm tối cao. Tụng niệm lại là cách huân tập tâm thức rất tốt, rất dễ dàng.   
  • Tụng niệm để ôn lại những lời Phật dạy, hầu lấy đó làm phương châm cho đời sống hằng ngày và gieo giống Bồ Đề giải thoát vào tâm thức.     
  • Tụng niệm để kềm chế thân khẩu trong khuôn khổ thanh tịnh, trang nghiêm, chính đáng, không cho nói năng, hàng động buông lung theo tập quán đê hèn tham dục.    
  • Tụng niệm để cầu an, để ngăn lòng tội lỗi, dứt trừ nghiệp chướng lâu đời hầu tránh khỏi tai họa do tội lỗi nghiệp chướng gây nên.   
  • Tụng niệm để cầu siêu, để chuyển tâm niệm của người khác, khiến họ xa lìa nghiệp nhân xấu ác, rời khỏi cảnh giới tối tăm, siêu sanh về lạc quốc.   
  • Tụng niệm để làm cho tiếng Pháp Âm lưu chuyển trong nhân gian, cảm hóa mọi người cải tà quy chánh.   
  • Tụng niệm để kích thích, nhắc nhở mình và người trên con đường làm lành, học đạo.   
  • Tụng niệm để hướng lòng bi nguyện đến tất cả chúng sanh, cầu cho chúng sanh an hòa vui vẻ.   
  • Tụng niệm để tỏ lòng sám hối tội lỗi trước ngôi Tam Bảo, là nơi hoàn toàn thanh tịnh, không chút tội lỗi nhiễm ô.   
Đây là ý nghĩa và giá trị tụng niệm trong giai đoạn tu học để thâm nhập được kinh tạng giúp cho trí tuệ nơi tự tâm khai mở rộng lớn như biển cả. Ngoài ý nghĩa và giá trị tụng niệm nói trên, người tu tập cần phải áp dụng ba phương pháp sau đây để chuyển đạt tâm nguyện của mình lên chư Phật trong mười phương và để tâm mình thể nhập tâm chư Phật trong thế giới Chân Như. Ba phương pháp tu tập gồm có Tụng Kinh, Trì Kinh và Trì Chú. 
  
A)- TỤNG KINH:  
 
Tụng kinh có chỗ gọi là đọc kinh. Đọc Kinh khác với Tụng Kinh. Đọc Kinh nghĩa là chúng ta cầm lấy quyển kinh nào mình muốn đọc để hiểu biết đạo lý trong kinh đó và đọc ở nơi bất cứ chỗ nào cảm thấy tiện lợi mà không cần đến hình thức nghi lễ trang nghiêm.  
 
Ngược lại Tụng Kinh nhằm mục đích tu tập cho nên chúng ta cần phải sử dụng nghi lễ và chọn chỗ trang nghiêm nơi trước bàn Phật đầy đủ hương đèn để hành trì. Nói cho dễ hiểu Đọc Kinh là để cầu hiểu biết đạo lý và Tụng Kinh là để cầu nguyện cảm ứng đạo giao. Ý nghĩa Đọc Kinh và Tụng Kinh đã giải thích rõ trong Yếu Chỉ Kinh Pháp Hoa, trang 80 và 81 cùng một tác giả được ghi lại như sau:  
 
1/- ĐỌC KINH:  đọc kinh nghĩa là đọc cái đạo lý sâu xa của kinh chứ không phải đọc lời văn trong kinh. Lời văn trong kinh không phải là đạo lý của kinh, mặc dù không có lời văn trong kinh thì đạo lý của kinh không biết nương tựa vào đâu để biểu lộ. Cho nên trong kinh đức Phật nói rằng:  Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết , nghĩa là căn cứ nơi kinh điển để giải nghĩa thì nói oan Phật ba đời và nếu như lìa kinh điển một chữ thì giống tà thuyết của ma quỷ.  Và  Kinh Phật thường nói:  đọc kinh cầu lý mà không phải đọc kinh để cầu hiểu biết.  Đạo lý của chư Phật hầu hết đều chứa đựng trong các kinh văn và các kinh văn theo lời Phật dạy là ngón tay chỉ mặt trăng và các kinh văn không phải đạo lý mà cũng không phải là mặt trăng. Người nào đọc kinh nắm được yếu chỉ của đạo lý trong các kinh thì người đó theo Phật giáo mới thật sự là kẻ biết đọc kinh.   
 
2/- TỤNG KINH: người tụng kinh không phải là tụng văn chương trong kinh và cũng không phải là tụng theo ý nghĩa của kinh. Người tụng kinh đúng theo ý của Phật dạy là để phát huy năng lực trí tuệ mầu nhiệm của kinh. Mỗi quyển kinh của đức Phật nói đều có ẩn chứa năng lực trí tuệ mầu nhiệm ở trong. Năng lực trí tuệ mầu nhiệm đó có công đức vô biên hóa giải tận gốc rể tất cả phiền não của chúng sanh và khiến cho sáu căn nơi mỗi chúng sanh trở nên thanh tịnh. Người tụng kinh có căn bản thì năng lực trí tuệ mầu nhiệm của kinh tự nhiên phát sanh, cũng như người tu tập năm Căn ( ngũ Căn) có căn bản thì năm Lực (ngũ Lực) tự nhiên phát sanh  .. .. .. Người tụng kinh cũng thế, tụng đến khi nào thâm nhập kinh tạng thì năng lực trí tuệ mầu nhiệm tự nhiên phát sanh và nhờ năng lực trí tuệ đó tẩy trừ tất cả nghiệp căn phiền não, đồng thời khiến cho thân tâm trở nên thanh tịnh sáng suốt. Như vậy, mục đích của người tụnh kinh là cầu năng lực trí tuệ thể hiện mà không phải tụng kinh để thưởng thức ý nghĩa văn chương trong kinh điển.   
 
Trong giáo lý Phật Giáo, những Kinh của chính đức Phật giảng dạy gồm có hai loại: một loại thuộc về hiển giáo và một loại thuộc về mật giáo. Hai loại này theo Bát Nhã Tâm Kinh Qua Cái Nhìn Của Duy Thức, cùng một tác giả, trang 112 và 113 giải thích rằng:  
 
Hiển Giáo là giáo lý phương tiện, trong đó đức Phật tùy theo căn cơ và trình độ cao thấp của chúng sanh, trình bày những nguyên lý Tứ Đế, Nhân Quả, Luân Hồi, Thiện Ác, Nghiệp Báo, nguồn gốc sanh tử..v..v .... Đồng thời đức Phật còn đưa ra những phương pháp tu tập diệt khổ như giáo lý Bát Chánh Đạo, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Tức..v..v.... giúp cho chúng sanh sớm được giác ngộ và giải thoát.      
  
Mật Giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật, cũng gọi là Mật Ngôn hay Chân Ngôn, tức là Pháp Âm của Pháp Thân chư Phật. Mật Ngôn có quyền năng siêu việt, linh ứng phi phàm không thể nghĩ bàn. Mật Ngôn hay Chân Ngôn thường gọi là Thần Chú. Thần Chú của Mật Giáo không thể giải thích như giáo lý của Hiển Giáo. Thần Chú của Mật Giáo đòi hỏi nơi sự hành trì để tăng trưởng năng lực hơn là để hiểu biết.   
 
a)- Đặc biệt trong hai loại Hiển và Mật nói trên, có những Kinh Phật chỉ thuần tuý Hiển Giáo, như Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Bát Nhã,  Kinh Tiểu Bổn Di Đà, Kinh Bi Hoa, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ,..v..v... , nghĩa là những Kinh này chỉ chuyên phần lý giải mà trong đó không có thiết lập những câu Thần Chú ở trong cho nên đều thuộc về loại hiển giáo cả. Mặc dù trong những kinh đó, có những loại chuyên về lý giải, có những loại sau phần lý giải dạy cách tu quán và có những loại sau khi tán dương những công đức sâu dầy của chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương, dạy cách tu tập theo pháp môn đó. 
       
b)- Còn một số Kinh Phật thuộc về loại Hiển Mật Viên Thông của Mật Giáo, nghĩa là những Kinh này trong đó có phần Hiển Giáo và có phần Mật Giáo. Phần Hiển Giáo nhằm giải thích ý nghĩa, giá trị và diệu dụng của Kinh và phần Thần Chú là pháp môn hành trì tu tập của Kinh này, như Kinh Lăng Nghiêm là phần Hiển Giáo và Thần Chú Lăng Nghiêm là phần Mật Giáo, Bát Nhã Tâm Kinh là phần hiển giáo và Thần Chú Yết Đế là phần Mật Giáo, Kinh Dược Sư là phần Hiển Giáo và Thần Chú Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn là phần Mật Giáo, Kinh Pháp Hoa là Hiển Giáo và Phẩm Đà La Ni thứ hai mươi sáu nói lên Thần Chú:  An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, mamanễ, ........  là phần Mật Giáo ..v..v ... . Những kinh này sau phần lý giải ý nghĩa, giá trị và diệu dụng của Kinh có thiết lập Thần Chú để hành trì tu tập đều thuộc về Hiển Mật Viên Thông của Mật Giáo cả. 
 
B)- TRÌ KINH:  
 
Trì Kinh thì khác hơn tụng kinh. Tụng kinh là tụng theo nhu cầu theo sở nguyện, như cầu an, cầu tai qua nạn khỏi, cầu bệnh, cầu sám hối nghiệp chướng tội khiên..v..v...... và người tụng kinh, họ tụng rất nhiều kinh mà họ thích, tụng hết kinh này đến kinh khác, không có phát tâm chuyên tụng duy nhất vào một quyển kinh nào cho thuộc lòng nhuần nhuyễn, cho được thuần thục để đạt đạo cả. 
 
Còn Trì Kinh là tu tập bằng cách hành trì duy nhất vào một quyển kinh cho được thuần thục, nhằm mục đích phát khởi Đạo lực (Phật lực hay Thần lực) của kinh chú, tức là Vô Tác Diệu Lực, nghĩa là năng lực mầu nhiệm không tác dụng hiện đang nằm ẩn sâu phía trong kinh tụng khiến cho nó hiển lộ để thâm nhập vào tâm người tụng, nhờ Đạo lực của kinh tụng này trước hết khai thông trí tuệ của mình mở rộng như biển cả Thâm nhập Kinh tạng trí huệ như biển và sau đó tẩy trừ cho sạch hết tất cả tội chướng từ vô lượng kiếp đến nay trong tâm của người trì tụng khiến được giải thoát thanh tịnh, sớm chứng thành Phật quả. Người trì kinh, họ tụng chỉ một quyển kinh mà họ phát nguyện hành trì, tụng ngày đêm sáu thời, tụng hết ngày này đến ngày nọ, hết năm này đến năm khác và tụng đến khi nào đạt được đạo mới thôi. 
 
Những người trì kinh thông thường đều chọn những Kinh mà mình muốn gởi tâm hồn vào đó để nhờ Đạo lực của Kinh chuyển tâm nguyện của mình lên đức Phật mà mình tôn kính và tin tưởng nhất. Người tin tưởng và tôn kính đức Phật A Di Đà liền trì kinh Tiểu Bản A Di Đà để chuyển lời tâm nguyện của mình cầu được vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ, người tin tưởng và tôn kính đức Phật Thích Ca liền trì tụng Kinh Pháp Hoa để chuyển lời tâm nguyện của mình cầu được vào thế giới Niết Bàn Thanh Tịnh nơi Pháp Thân Thích Ca Bổn Môn, người tin tưởng và tôn kính  đức Phật Dược Sư liền trì tụng Kinh Dược Sư để chuyển lời tâm nguyện của mình cầu Phật gia hộ sớm gặp được lương y và và pháp dược để giải trừ tâm bệnh và thân bệnh của mình, người tin tưởng và tôn kính đức Quán Thế Âm liền trì tụng kinh Phổ Môn để chuyển lời tâm nguyện của mình cầu Bồ Tát cứu khổ cho cuộc đời sớm tai qua nạn khỏi..v..v....... Còn những kinh khác tùy theo sở nguyện của người hành trì chọn theo nhu cầu, nhưng không ngoài mục đích dâng trọn niềm tin lên đức Phật. 
 
C)-TRÌ CHÚ:  
 
Trì Chú cũng giống như trì kinh là tu tập bằng cách hành trì duy nhất vào một câu Thần Chú cho được thuần thục nhằm mục đích phát khởi thần lực của câu chú để tiêu trừ thiên tai ách nạn, bệnh tật, ma chiêu, hoá giải nghiệp chướng oan khiên lâu đời cho chúng sanh. Thần Chú, theo Phật Học Tự Điển của Đoàn Trung Còn, trang 329, tiếng Phạn (Sanscrit) gọi Dhàrani (Đà La Ni), Trung Hoa dịch là Tổng Trì, là những mật ngữ  của chư Phật có sức linh ứng gia hộ người tu hành. Những mật ngữ đây có tánh cách ký hiệu, như những Mật Mã truyền tin, như những Code truyền âm do chư Phật chư Bồ Tát đặt ra để làm phương tiện nối kết tâm nguyện của chúng sanh với tâm lực của chư Phật chư Bồ Tát trong mười phương. Theo Kinh Bát Nhã, những năng lực phi phàm của Thần Chú được kể như:  Linh Chú Đại Thần, Linh Chú Đại Minh, Linh Chú Vô Thượng, Linh Chú Tuyệt Đỉnh, chân lý bất vọng có năng lực phi phàm tiêu trừ tất cả khổ nạn. Có Thần Chú của Phật, của Bồ Tát, của chư Thiên, của chư Thần. Ai hành trì Thần Chú của vị nào thì được sức gia hộ của vị đó. Có một số người không thích hành trì Kinh Hiển Mật Viên Thông của Mật Giáo mà chỉ thích hành trì riêng Thần Chú của Mật Giáo mà thôi và cũng từ đó trở thành phong trào tu tập tạo thành một phái riêng gọi là Mật Tông. 
 
Trích từ: Nghĩa Lý Tụng Niệm