Đương lai tốt đẹp nhất của đời người là đương lai thành Phật. Phật đương lai là bậc cứu khổ chủ tối thắng và hy hữu nhất mà người may mắn nhất trên đời mới được gặp trong đương lai. Thế nhưng làm thế nào để có thể đương lai thành Phật hay gặp được Phật đương lai.
Ba đời chư Phật thường nối tiếp nhau đản sinh, thành đạo, chuyển pháp luân và niết bàn, bốn pháp này là quá trình độ sinh của hóa thân Phật. Sự vận hành ba đời đó không thuần là một "ba đời" mà là vô lượng ba đời lưu chuyển bất tận. Nói như thế có nghĩa là chẳng có đời nào trong ba đời mà không có Phật và tứ tướng thị hiện độ sinh.
Ba đời nghĩa thô là ba kiếp sống, vi tế là mỗi một sát na. Trong thô và tế đó đều có bốn tướng thị hiện, và như vậy đều có Phật trong mỗi sát na gian. Nói khác hơn đối với chư Phật bốn tướng này nhiếp hết mọi thời không, song do thức phân biệt có giới hạn nên chúng sinh chỉ thấy sự hữu hạn của bốn tướng và do đó thấy Phật cũng hữu hạn. Vì vậy mọi thời không trong ba đời của chúng sinh, chỗ thì có Phật chỗ lại không có Phật, lúc có Phật, lúc không có Phật tất đầy phiền não và cấu nhiễm, đồng nghĩa với khổ và bất tịnh. Chỗ nào và khi nào có Phật và tứ tướng thì nơi ấy tạm thời có giới định huệ. Vì vậy giới định huệ của chúng sinh bất định không thường hằng nên không thể tự tại giải thoát được.
Nếu mỗi một sát na trong ba đời đều hiển bày tứ tướng, tất nhất thiết thời không trong ba đời đều nhiếp trong tứ tướng và như vậy không chỗ nào, không lúc nào mà không có Phật, nói chính xác hơn mọi thời không đều là tứ tướng, như vậy quá khứ đã thành Phật, hiện tại đang thành và đương lai sẽ thành. Do đó khi hiện tại thành Phật tất sẽ thành trong ba đời, và thành ở mười phương. Thành Phật là quang minh, phổ chiếu là Phật biến khắp. Thành Phật tất biến khắp mười phương ba đời (quang minh phổ chiếu, biến nhất thiết xứ là nghĩa của Tỳ Lô Giá Na).
Hơn nữa giác vốn là tính bản lai, nên khi giác tất nhiên không phải là thành tựu cái gì mới từ bên ngoài, mà chỉ là phục hồi tính giác bản lai xưa nay sẵn có, cho nên ngay khi thành đạo liền nhận ra không hề có giác bởi giác từ lâu xa rồi, Thai tông gọi sự kiện này là "cửu viễn thật thành", có nghĩa sự thành Phật chân chính đã có từ lâu rồi, quá khứ vẫn giác, hiện tại và đương lai vẫn tiếp tục giác. Nếu cho rằng hiện tại mới giác còn quá khứ u mê, như thế là nhìn nhận sự u mê là thật có, bản giác là phi chân. Nếu giác không có sẵn trong mê thì có trải qua ngàn kiếp tu hành vẫn không thể giác được. Tính bản lai giác này nhiếp hết ba đời mười phương, nếu giác từ bên ngoài thành, tất chỉ giác từ đời hiện tại trở đi, như thế giác và giới định huệ mới phát sinh, mà hễ có sinh tất có diệt, bởi mọi thứ sinh đều do duyên khởi. Còn nếu do duyên khởi giác, giác liền lìa duyên, tùy duyên mà tâm không trụ như lời dậy của ngài Khuê Phong "giác chư tướng không, tâm tự vô niệm. Khởi niệm tức giác, giác chi tức vô. Tu hành diệu môn, duy tại thử xứ" có nghĩa giác các tướng là không, thì tâm tự vô niệm, vì hễ khởi niệm liền giác các tướng vốn không nên vẫn vô niệm không phan duyên vào ngoại tướng, tu hành diệu môn, chỉ ở chỗ này. Bấy giờ tự tại với duyên khởi pháp mang tính y tha khởi mà không gây chướng ngại đến tính viên thành thật, và cũng vẫn tự tại không lìa tính viên thành thật mà không cần xả bỏ các pháp y tha khởi, đó là do lìa được tính biến kế sở chấp của huyễn tâm. Gọi đó là "tức không tức gỉa thị danh trung đạo", nhờ vậy tuy "Bất trừ vọng tưởng, bất cầu chân" mà mới thật là chứng chân, có vậy mới là nhàn đạo nhân thỏng tay vào chốn trợ triền.
Để chúng sinh có thể nhận ra được thật Phật và thật pháp bằng thức phân biệt, từ một pháp giác ngộ duy nhất gọi là thành đạo, chư Phật phương tiện thị hiện phân thành bốn giai đoạn gồm đản sinh, thành đạo, chuyển pháp luân và niết bàn. Kì thật bốn pháp này chỉ là tùy duyên biến hiện từ nơi thật pháp bất động là giác ngộ. Tuy nhiên chúng sinh chấp quyền làm thật, nhận tứ tướng là đạo, ngoài tứ tướng tất không phải đạo, mà quên rằng bất động mới thực là thật đạo, tứ tướng chỉ là quyền đạo, như ngón tay chỉ ánh trăng. Cần lìa ngón tay quyền pháp mới thấy được ánh trăng thật pháp. Nếu chấp chặt vào quyền pháp ắt vĩnh viễn không thể chứng thật đạo tức quả vị vô thượng bồ đề. Chứng được bất động tức bình đẳng thì ba đời mười phương không còn phân giới nữa, nên nói bất khả đắc.
Do vậy khi thành đạo tức thành trong cả ba đời mười phương, không còn có lúc thành lúc không, nơi thành nơi không, đó là nghĩa bất động, vì thế mới biết Phật thân vô trụ ở cả mọi thời không. Ta không thể nói Phật trụ ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, hoặc ở cõi này hay cõi nọ được, vì nếu thực sự như thế, tất chư Phật đều là hữu trụ, hữu tướng, hữu thời hữu không, tức là hữu hạn. Pháp thân Phật biến nhất thiết xứ tất vô hạn nên vô trụ, vô tướng và biến khắp thời không. Chính vậy mà Phật Phật tiếp nối bất tận, nên luôn có Phật đương lai và đương lai thành Phật, song ba đời chư phật chỉ là quyền pháp mà "bất động Phật" mới là chân thật pháp thân.
Pháp thân Phật thường trụ vô sinh diệt bất động đối với vô phân biệt trí tức thật trí. Chúng sinh vô trí chỉ biết dùng thức phân biệt các pháp để nhận ra mọi hóa Phật qua bốn tướng.
Tứ tướng nêu lên ý nghĩa từ sinh đến diệt của một hóa thân Phật chỉ thực hiện hai điều là thành Phật (thành đạo) và độ sinh (chuyển pháp luân). Thành đạo là thượng cầu, chuyển pháp luân là hạ hóa. Thượng cầu và hạ hóa hợp nhất là tâm vô thượng bồ đề. Thành Phật là khởi lòng tin cho chúng sinh, hạ hóa là khai mở trí huệ cho hữu tình. Do khởi tín mới thượng cầu, và thượng cầu mới phát tâm vô thượng, hạ hóa mới năng sinh trí huệ đưa ta và chúng sinh đồng thành đạo quả, đồng chứng niết bàn. Nói cách khác đản sinh của một hóa thân đồng với sự xuất hiện nơi đời của tâm vô thượng bồ đề, tâm này chỉ dẫn cho chúng sinh con đường thành đạo độ sinh đến cảnh giới niết bàn. Bốn tướng này chính là ý nghĩa lời đức Thế Tôn khai thị trong kinh Pháp Hoa "Như lai thị hiện nơi đời vì một đại sự nhân duyên, đó là mở bày cho chúng sinh ngộ nhập vào Phật tri kiến". Phật tri kiến ở đây cần được hiểu là Phật tri kiến của bản thân vốn có, còn gọi là tính giác của bản tâm hay giác tâm, hễ ngộ nhập được Phật tri kiến tức bản tâm thì thành đạo, và chuyển pháp luân độ sinh hoàn nhập niết bàn sẵn có của chúng sinh, đó là bản tâm. Bản tâm bao gồm nhị báo thanh tịnh, Phật là chính báo, niết bàn là y báo.
Không có một đương lai nào tốt đẹp cho bằng đương lai thành Phật, không một người nào ta gặp ở đương lai có lợi lạc bằng Phật đương lai. Cái đương lai thành Phật và vị Phật đương lai đó chẳng ở chốn xa xôi nào mà ở ngay trong bồ đề tâm của chúng ta và nhất thiết chúng sinh.
Thế mới hay là chúng ta có hai vị Phật đương lai để gặp, một là Phật đương lai với ta là hai, đó là hóa Phật. Hai là Phật đương lai với ta là một, đó là chân thân Phật, tất nhiên gặp vị Phật với ta là một mới thật sự là viên mãn giải thoát và thành tựu công đức tối thượng. Vị Phật tương lai này chưa hề rời ta trong giây lát hay ở bất cứ nơi đâu và ngài cũng chính là Phật quá khứ, hiện tại, vị lai nói đúng hơn là Phật ba đời mười phương của ta.
Như vậy ngay từ bây giờ chúng ta hãy bắt tay thực hiện một đương lai thành Phật cho vị Phật đương lai đó như lời dạy của Liên tông Thập tam tổ Thật Hiền "Ba mươi hai tướng tốt và trăm phúc trang nghiêm sau này chẳng khởi đầu từ sự phát tâm lập nguyện trong ngày hôm nay sao". Quả vậy mọi tướng trang nghiêm, công đức thanh tịnh cho đến thành Phật trong tương lai đều lấy hiện tại hành bồ tát đạo làm chính nhân.
Ngưỡng nguyện mười phương ba đời hết thẩy chư Phật từ bi chứng minh gia hộ cho đệ tử chúng con cùng nhất thiết chúng sinh ngay từ bây giờ đến thành đạo quả đồng phát bồ đề tâm, đồng hành bồ tát đạo, đồng độ chúng sinh, đồng thành Phật đạo.
Nam Mô Hiện trú Đâu suất thiên cung, đương sinh Diêm phù thế giới. Long Hoa giáo chủ Di Lặc Tôn Phật tác đại chứng minh.
ĐT 30.1.22
PVVT