Chàng Vương Phước Sơn là con út của cư sĩ Lâm Quý Ngọc (chủ nhiệm Bồ Đề Học Viện ở Tân Thành, tức Penang), rất hiền đức, hiếu thảo với mẹ. Gần đây, anh ta mắc bệnh nhiệt, sốt rất cao, thuốc thang vô hiệu. Cư sĩ Trí Hải do thấy cư sĩ Quý Ngọc nghe pháp bèn tận lực hành, đối với pháp vụ, thấy chuyện nghĩa bèn dũng mãnh làm, dẫu xông vào nơi nước sôi lửa bỏng, vẫn vui vẻ làm quên mệt, hết sức khâm phục, mà cũng hết sức thương xót cứu giúp. Ông tận lực khuyên con bà ta hãy quy y Địa Tạng đại sĩ, hòng cầu Ngài từ bi gia hộ để cởi gỡ oan khiên đời trước, lại còn thay bà báo tin cho lão pháp sư Hội Tuyền là bậc tinh thông y học. Ở chỗ pháp sư có loại Hầu Táo trị bệnh nhiệt rất hay, Sư bèn tặng cho dùng, liền thấy công hiệu. Uống ba thang, bệnh sốt cao khỏi hẳn, gia đình và thân thuộc của chàng Vương nghe tin, không ai chẳng hoan hỷ, cảm động. Một là cảm Địa Tạng đại sĩ phi thường cảm ứng, hai là cảm mộ ân đức phương tiện từ bi gia hộ của lão pháp sư và cư sĩ Trí Hải.
Bà Đường Nhược Lan tự thuật chuyện cảm ứng do khắc in kinh Địa Tạng Thập Luân
Năm Dân Quốc 10 (1921), mẹ tôi bị bệnh nguy kịch, nhằm lúc tôi đang làm việc tại trường sư phạm nữ giới Bắc Kinh. Trở về tỉnh nhà chưa được mười ngày, mẹ đã mất, gặp đúng lúc quê nhà loạn lạc, chưa thể cầu siêu được. Năm Dân Quốc 13 (1924), tôi ở trường Tiểu Học Sư Phạm dành cho nữ sinh tại Từ Châu, mộng thấy vì mẹ cúng chay mà buồn thương. Tính ra, vừa đúng ngày mẹ mất đã ba năm. Năm Dân Quốc 14 (1925), trở về trường Đông Đại chọn lựa kinh Phật để tu tập. Năm Dân Quốc 15 (1926), bèn trường kỳ trai giới. Năm Dân Quốc 16 (1927), tụng kinh Địa Tạng, mộng thấy mẹ bảo bà đã vào Địa Tạng Viện. Năm Dân Quốc 30 (1941), cha mất, tụng kinh [hồi hướng cho cha], lại mộng thấy cha được vào Địa Tạng Viện. Năm Dân Quốc 31 (1942), cha mẹ đều đã tám mươi [nếu còn sống], bèn tính cúng trai tăng, vâng theo lời dạy của pháp sư Chánh Cang, bỏ tiền khắc in hai quyển đầu của kinh Thập Luân.