B2. Sau khi y chỉ, thứ tự tu tập như thế nào
C1. Đối với thân hạ mãn hiện đời, khuyên nắm lấy tâm yếu
D1. Nói rõ ý nghĩa hạ mãn
E1. Nói rõ ý nghĩa “nhàn hạ”
E2. Nói rõ ý nghĩa “viên mãn”
D2. Tư duy ý nghĩa quan trọng
D3. Tư duy về sự khó được
C2. Phương pháp nắm lấy tâm yếu như thế nào
D1. Sinh khởi quyết định đối với sự kiến lập tổng quát của đạo
E1. Ba con đường đạo bao quát tất cả Thánh giáo
E2. Chỉ rõ hành tướng dẫn đạo thứ tự của ba con đường đạo
F1. Ý nghĩa của sự phải do ba con đường đạo hướng dẫn
F2. Chỉ rõ hành tướng của sự dẫn đạo thứ tự G1. Nói rõ hành tướng
G2. Nói rõ yếu nghĩa
B2. Sau khi y chỉ, thứ tự tu tập như thế nào.
C1. Đối với thân hạ mãn hiện đời, khuyên nắm lấy tâm yếu.
D1. Nói rõ ý nghĩa hạ mãn.
E1. Nói rõ ý nghĩa “nhàn hạ”.
Nhiếp Công Đức Bảo nói: “Do trì giới mà đoạn trừ được sự thác sinh vào nẻo súc sanh thọ khổ, đoạn trừ được bát nạn, và đắc được thân người nhàn hạ.” Bát nạn, tức là (1) nơi không có bốn chúng vãng lai (biên địa), (2) câm, điếc, tàn phế, (3) tà kiến không tin nhơn quả, (4) không có Phật ra đời, không có giáo pháp của Phật. Bốn điều này là nạn trong cõi người. Lại còn ba ác đạo và cõi trời trường thọ là bốn nạn trong cõi không phải người (phi nhân). Thân Hữu Thư Chú cho rằng [trời trường thọ] là hai cõi trời Vô tưởng và Vô sắc. Cõi trời trước là một phần của trời Quảng Quả ở Tứ thiền, còn cõi trời sau là một dị sinh của trời Vô sắc. Bát Vô Hạ Luận cho rằng cõi trời Dục giới, thường bị lòng tham làm cho tán loạn, cũng được gọi là cõi trời trường thọ.
E2. Nói rõ về ý nghĩa “viên mãn”.
(a) Năm điều tự viên mãn: (1) được thân người, (2) sinh tại trung quốc, (3) đầy đủ các căn, (4) nghiệp không điên đảo, (5) có lòng tin đối với Phật pháp. Sinh tại trung quốc, nghĩa là sinh vào khu vực có Phật pháp lưu hành; đầy đủ các căn, nghĩa là không bị câm, ngọng, tàn tật, v.v...; nghiệp không điên đảo, nghĩa là tự mình không tạo, mà cũng không dạy người khác tạo nghiệp vô gián; có lòng tin đối với Phật pháp, nghĩa là tin rằng luật tạng là nơi sinh ra tất cả công đức thế gian và xuất thế gian. Ở đây, luật tạng bao hàm cả ba tạng (kinh, luật, luận). Năm điều này thuộc về tự thân cho nên gọi là năm điều tự viên mãn.
(b) Năm điều tha viên mãn: (1) Phật ra đời, (2) giảng nói chánh pháp, (3) giáo pháp trụ thế gian, (4) giáo pháp tùy chuyển, (5) được thí chủ hộ trì. Phật ra đời, nghĩa là sau ba đại a tăng kỳ kiếp tích tập tư lương, Đức Phật đến cõi Ta bà thị hiện thành Phật. Giảng nói chánh pháp, nghĩa là Đức Phật hoặc đệ tử Thanh văn của ngài thuyết pháp. Giáo pháp trụ thế gian, nghĩa là sau khi thành Phật liền nói chánh pháp, trước khi nhập Niết bàn, ngài tu các pháp hiện chứng thắng nghĩa. Giáo pháp tùy chuyển, nghĩa là Đức Phật dùng pháp mà mình tự chứng giảng dạy cho những chúng sanh có khả năng để họ có thể chứng đắc, Đức Phật tùy căn cơ của chúng sanh mà uyển chuyển giảng pháp. Được thí chủ hộ trì, nghĩa là được thí chủ bố thí y phục, ẩm thực, v.v… Năm điều này thuộc về pháp duyên với chúng sanh nên gọi là tha viên mãn.
D2. Tư duy ý nghĩa quan trọng.
Trong hiện đời, nếu không phát tâm tu pháp lành lợi ích rốt ráo (thành Phật độ chúng sanh), mà chỉ tu pháp tránh khổ cầu lạc, thì dù được sanh cõi lành, cũng chẳng khác gì loài cầm thú. Thế nhưng hành giả Đại thừa cần phải hội đủ điều kiện là có được thân người kham tu thiện pháp. Đệ Tử Thư nói:
Mong thành Phật đạo độ chúng sanh,
Chỉ có loài người tâm rộng lớn,
Trời rồng, tu la, kim xí điểu,
Thần tiên các loài đều không bằng.
Có một số trời cõi Dục, vì còn công đức tu tập sâu dầy trong đời quá khứ, cũng có thể đạt đến quả vị Kiến đạo. Thế nhưng, các cõi trời trên (Sắc, Vô sắc), không có vị nào mới phát tâm tu mà chứng được thánh quả. Các vị trời cõi Dục phần lớn đều đam mê trong việc hưởng lạc, thành thử chỉ có thân người là thù thắng nhất trong việc phát tâm tu tập chứng đắc thánh quả. Lại nữa, loài người ở châu Bắc Cu Lô không thể thọ trì giới luật, so ra không bằng loài người ở ba châu kia; mà trong ba châu này, loài người ở châu Nam Thiệm Bộ lại càng đáng khen ngợi. Bởi vậy, phải nên nhớ rằng chúng ta nay đã được tấm thân quý báu này, tại sao lại không tu tập để chứng thánh quả? Nếu không chứng đắc thánh quả, đây là tự khinh miệt, ruồng rẫy chính mình. Như vậy, còn có điều nào đáng hổ thẹn hơn không? Trong quá khứ bị đọa lạc, trôi lăn trong nẻo ác, đời này may được thoát ra một lần, nếu như không chịu tu hành, bỏ mặc cho thân này tiếp tục đọa lạc tam đồ, có phải là mình đã bị bùa chú làm cho mê hoặc mà thành vô tâm hay chăng? Bởi vậy chúng ta phải nên siêng năng tu tập không ngừng. Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Nay đã được thân người,
Nếu không chịu tu thiện, T
ự khinh không gì hơn,
Ngu si không ai bằng! (Phẩm Bốn, kệ 23)
Lại nói:
Tấm thân lợi ích này,
Khó được nay đã được,
Lại thêm đủ trí tuệ,
Nếu lại đọa địa ngục,
Chắc là bị bùa chú,
Làm tâm con mê hoặc,
Ai làm con thác loạn,
Quái nào trong tâm này? (Phẩm Bốn, kệ 26 27)
Không những quán sát thân này rốt ráo quan trọng như vậy, mà còn quán sát nhân duyên thân này được thọ dụng quyến thuộc viên mãn; nếu dùng thân này để tu tập các pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v…, ắt sẽ dễ thành tựu. Sau khi quán sát như thế, nếu như không chịu ngày đêm nỗ lực tu tập pháp lành giải thoát cho hai đời hiện tại và vị lai thì quả thật đáng tiếc, giống như người đến kho tàng châu báu mà rốt cuộc trở về tay không.
D3. Tư duy về sự khó được.
Giới Kinh nói: “Thân người này, sau khi chết đi, đầu thai vào ác đạo nhiều như đất trên địa cầu, còn đầu thai vào cõi lành thì ít như đất trên đầu móng tay.” Điều này muốn nói rằng trong nẻo luân hồi, sanh được thân người là điều cực kỳ hiếm có. Tại sao thân người khó được như vậy? Tứ Bách Tụng nói: “Trong cõi người, đa số đều làm ác, cho nên phần lớn chắc chắn bị đọa vào nẻo ác.” Loài người phần lớn vì tạo mười điều ác cho nên bị đọa vào nẻo ác. Lại nữa, nếu người nào khởi tâm sân hận đối với Bồ tát, cứ mỗi sát na sân hận sẽ bị đọa vào địa ngục Vô gián một kiếp. Tấm thân này đã từ lâu gây tạo bao nhiêu tội chướng, mà vẫn chưa thọ quả báo, lại cũng chưa tìm được phương cách diệt trừ phiền não, ắt phải đọa vào ác đạo nhận chịu khổ báo trong nhiều kiếp. Nếu có thể sám hối trừ diệt những nghiệp ác đã tạo, không tiếp tục làm ác, thì trong những đời sau được sanh về cõi lành sẽ không khó khăn gì. Thế nhưng những người làm được điều này cũng thật là hiếm có. Còn nếu không làm những điều này, thì một khi bị đọa vào ác đạo, không những không thể làm thiện mà còn thường làm những điều ác; và trong nhiều kiếp, ngay cả tên của cõi lành cũng không được nghe. Điều này Nhập Bồ Tát Hành Luận cũng đã đề cập đến.
Ngài Bác Đóa Ngõa nói: “Xưa tại một xứ, có một thành quách tráng lệ tên Ma Khước Khạ bị bọn cướp chiếm cứ, lâu ngày trở nên điêu tàn. Một cụ già trong vùng nghe tin ấy cảm thấy rất bi thương. Một thời gian sau, nghe tin bọn cướp đã bị tảo trừ, cụ cảm thấy vui mừng hớn hở, tuy tuổi già sức yếu, cũng cố gắng chống gậy lần mò đến xem, lòng hân hoan nói: “Hôm nay lấy lại được Ma Khước Khạ, đây có phải là giấc mộng hay chăng?” Chúng ta nay được thân người tốt đẹp như vầy, cũng phải nên như cụ già ấy, sanh tâm vui mừng mà tinh tiến tu hành, còn nếu chưa sanh khởi được tâm cầu tu học thì phải nên trui luyện khiến cho phát sanh. Hơn nữa, nếu muốn sanh khởi một niệm cầu thọ tâm yếu đầy đủ phải tư duy bốn pháp: 1) cần phải tu pháp: suy ngẫm tất cả chúng sanh chỉ mong được vui thoát khổ, thế nhưng, muốn thực sự làm được điều này chỉ có tu hành chánh pháp mới được toại nguyện; 2) mình có thể tu: nếu đầy đủ ngoại duyên, gặp được thiện tri thức, lại đầy đủ nội duyên, đã được thân người đầy đủ; 3) trong đời này cần phải tu: đời này nếu không tu, đời sau khó sanh trở lại làm người; 4) phải tu ngay trong lúc này: vì không biết lúc nào sẽ chết. Trong đây, điều thứ ba là diệt trừ sự giải đãi cho rằng trong đời sau sẽ tiếp tục tu hành; điều thứ tư là diệt trừ sự giải đãi cho rằng tương lai vẫn còn thời gian để tu. Nếu đem hai điều ba và bốn phân làm ba pháp cũng được. Còn việc quán sự chết tuy cũng có quan hệ ở đây, nhưng e phiền toái nên không đề cập. Phần sau sẽ bàn đến.
Như vậy, nếu muốn chuyển đổi tâm mình, phải dùng nhiều phương cách để suy ngẫm. Nếu vẫn chưa chuyển đổi được, thì phải nên quán sát tự tánh của thân người tốt đẹp này, cùng quán sát những ý nghĩa lợi ích to lớn của nó. Lại từ pháp môn “nhân quả”, tư duy về sự khó được, rồi tùy pháp môn thích nghi mà tu tập. Pháp môn “nhân” về sự khó được là nói tổng quát rằng muốn sanh về cõi lành cần phải giữ gìn giới luật, còn như muốn được thân người hoàn hảo, ngoài việc dùng sự giữ giới làm căn bổn, cần phải dùng sự bố thí, v.v…, làm trợ duyên, lại còn phải phát nguyện thanh tịnh để kết hợp những thiện căn đó lại với nhau. Nhưng tu được như vậy cũng rất hiếm có. Sự thực rõ ràng như thế, do sự quán sát mà biết rằng muốn được thân người quả thật là khó khăn. Pháp môn “quả” về sự khó được là quán sát chúng sanh trong những nẻo ác thì sẽ biết rằng sanh về cõi lành đã hiếm, huống chi lại được thân người hoàn hảo thì lại càng hiếm hơn. Ngài Đa Ba nói: “Nếu tu tập pháp môn này một cách siêng năng, thì các pháp khác đều do pháp này sanh ra.” Cho nên phải cố gắng nỗ lực tu hành. C2. Phương pháp nắm lấy tâm yếu như thế nào.
D1. Sanh khởi quyết định đối với sự kiến lập tổng quát của Đạo.
E1. Ba con đường Đạo bao quát tất cả thánh giáo.
Tất cả chư Phật từ khi mới phát tâm, khoảng giữa tích tập tư lương, cho đến lúc cuối chứng đắc quả vị Chánh biến tri giác, đều là vì lợi ích chúng sanh. Các ngài thuyết pháp cũng đều là muốn thành tựu sự lợi lạc cho tất cả hữu tình. Những việc lợi ích chúng sanh được phân làm hai loại tức là các pháp thượng thiện thế gian hiện tiền tương đối và các pháp thượng thiện xuất thế gian cứu cánh quyết định. Loại thứ nhất (hiện tiền tương đối thiện) bao gồm hai hạng là chánh hạ sĩ và cộng hạ sĩ. Điểm đặc biệt của hạng hạ sĩ là không tìm cầu sự an lạc đời này mà là tu tập nhân duyên để đời sau được hưởng quả báo tốt đẹp ở cõi trời cõi người. Bồ Đề Đạo Đăng Luận nói:
Nếu tu tập phương tiện,
Mong quả vui trời người,
Vì chỉ cầu tự lợi,
Đó là bậc hạ sĩ.
Loại thứ hai (Cứu cánh quyết định thiện) có hai hạng:
(1) tu tập cầu giải thoát sinh tử (thành A la hán, Bích chi phật), (2) tu tập cầu nhất thiết chủng trí (thành Phật). (1) Ở đây căn cứ vào hai thừa Thanh văn và Độc giác, bao gồm hai hạng chánh trung sĩ và cộng trung sĩ. Bậc trung sĩ là những hành giả khởi tâm nhàm chán tất cả những cảnh giới hữu vi, chuyên cầu tự lợi, chuyên tâm tu tập giới định tuệ, mong cầu giải thoát sinh tử. Bồ Đề Đạo Đăng Luận nói:
Nhàm chán cõi sinh tử,
Tu tập các công đức,
Cầu tự chứng Niết bàn,
Đó là bậc trung sĩ.
(2) Tu tập cầu nhất thiết chủng trí, cũng có hai hạng là Ba la mật Đại thừa và Kim cang thừa. Hai hạng này được bao gồm trong bậc thượng sĩ. Bậc thượng sĩ là những hành giả dùng tâm đại bi, mong cầu cứu độ tất cả hữu tình, mong cầu thành tựu quả vị Phật đà, và dùng Lục độ vạn hạnh làm phương tiện tu tập. Bồ Đề Đạo Đăng Luận nói:
Từ sự khổ của mình,
Hiểu nỗi khổ chúng sinh,
Mong diệt tất cả khổ,
Đó là bậc thượng sĩ.
Phần dưới sẽ nói về phương tiện tu tập của Hiển giáo (Ba la mật Đại thừa) và Mật giáo (Kim cang thừa). Tên gọi của ba bậc thượng trung hạ sĩ, trong Nhiếp Quyết Trạch Phần, Câu Xá Luận, v.v…, đều có nói rõ. Bậc hạ sĩ tuy có hai hạng khác nhau là cầu quả báo hiện đời và cầu quả báo đời sau, nhưng ở đây chúng ta chỉ bàn đến hạng thứ hai, và đặc biệt chỉ đề cập đến những hành giả tu tập pháp thiện chính đáng.
E2. Chỉ rõ hành tướng dẫn đạo thứ tự của ba con đường đạo.
F1. Ý nghĩa của sự phải do ba đường đạo hướng dẫn.
Tuy nói có ba bậc thượng, trung, hạ sĩ, nhưng con đường tu tập của bậc thượng sĩ bao hàm hai bậc trung, hạ sĩ, bởi vì sự tu tập của hai bậc trung, hạ sĩ là một phần của con đường tu tập Đại thừa. Đây là điều mà Bồ tát Mã Minh đã từng đề cập đến. Thế nhưng, ở đây không có nghĩa là Đại thừa chỉ hướng dẫn bậc hạ sĩ chuyên tu quả báo khoái lạc thế gian, hoặc chỉ hướng dẫn bậc trung sĩ chuyên cầu thoát ly khỏi sự ràng buộc thế gian, mà là hướng dẫn hai bậc này tu tập pháp sơ khởi làm nền tảng cho sự tu tập Đại thừa, cho nên gọi con đường đạo của hai bậc trung, hạ sĩ là một phần của con đường tu tập của bậc thượng sĩ.
F2. Nêu rõ hành tướng của sự dẫn đạo thứ tự.
G1. Nêu rõ hành tướng.
Ngưỡng cửa bước vào Đại thừa là sự phát Bồ đề tâm Vô thượng. Nếu phát được tâm này, như Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Kẻ tù ngục sinh tử
Nếu phát Bồ đề tâm
Tức khắc tên Phật tử (Phẩm Một, kệ 9)
Hành giả vừa phát tâm Bồ đề thì liền được gọi là Bồ tát (Phật tử), và lập tức được gia nhập vào hàng ngũ hành giả Đại thừa. Nếu thoái thất tâm Bồ đề sẽ không còn được gọi là Bồ tát, vì vậy những hành giả muốn gia nhập hàng ngũ Đại thừa, phải nên dùng nhiều phương tiện tu tập phát khởi tâm Bồ đề. Thế nhưng, muốn phát khởi tâm này thì trước tiên phải tu tập phát tâm làm lợi ích, hăng hái thực hiện sự lợi ích, và hơn nữa, cũng phải thực hành đầy đủ bảy hạnh nguyện Phổ Hiền và thọ trì pháp quy y. Tập Bồ Tát Học Luận và Nhập Bồ Tát Hành Luận đều đề cập đến điều này. Nói về sự lợi ích, có hai loại là sự lợi ích tạm thời và sự lợi ích cứu cánh. (1) Sự lợi ích tạm thời chia làm hai loại là (a) không bị đọa ác đạo và (b) được sinh về cõi lành. Nếu phát tâm Bồ đề, thì những nghiệp ác đã tích tập trong đời quá khứ đều được diệt trừ, lại còn đoạn trừ sự tương tục của những nghiệp ác này trong đời vị lai. Hơn nữa, những nghiệp lành đời quá khứ, do sự chấp trì của tâm Bồ đề, được tăng trưởng rộng lớn, còn các nghiệp lành vừa tạo tác cũng được duy trì miên viễn đến cùng tận đời vị lai. (2) Sự lợi ích cứu cánh, chia làm hai loại là (a) giải thoát khỏi sinh tử và (b) thành tựu Phật quả, cũng y cứ vào tâm Bồ đề mà được thành tựu nhanh chóng. Nếu trước tiên không chịu nỗ lực thành tựu sự lợi ích tạm thời và lợi ích cứu cánh mà chỉ cho rằng những sự lợi ích đều từ tâm Bồ đề phát sinh và phải nên cố gắng phát khởi tâm Bồ đề, thì đây cũng là lời nói không thực tế. Nếu chịu khó nhận xét thì sẽ thấy rõ điều này. Hành giả phải nên sanh khởi tâm mong cầu thành tựu hai sự lợi ích tạm thời và cứu cánh. Khi tu tập thành tựu tâm mong cầu hai sự lợi ích này, nên tu tập thêm tâm từ và tâm bi là pháp căn bản cho tâm mong cầu. Nếu như nghĩ đến sự khổ bức của chính mình thì dững dưng (không chịu cầu thoát khổ), nhưng lại cho rằng mình không thể nhẫn chịu nỗi khổ của người khác (cầu thoát khổ cho người khác), thì đây quả là điều phi lý. Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Bọn họ chưa từng nghĩ,
Giải thoát cho chính mình,
Huống khởi tâm lợi ích,
Giải thoát cho chúng sinh. (Phẩm Một, kệ 24)
Lúc tu tập bậc hạ sĩ, phải nên quán tưởng tự thân đang bị sự khổ bức trong ba đường ác; lúc tu tập bậc trung sĩ, phải nên quán tưởng các cõi lành (trời người) cũng chỉ là khổ, không có sự vui tịch diệt (Niết bàn). Sau khi quán tưởng sự khổ, tư duy những người thân thuộc cùng tất cả chúng sinh cũng đang bị khổ bức mà phát tâm tu tập, và như vậy, sẽ phát khởi được tâm từ bi, và từ đây phát khởi tâm Bồ đề. Điều này chứng tỏ pháp tu chung với hai bậc hạ sĩ và trung sĩ là phương tiện dẫn phát tâm Bồ đề chân thực. Các bậc sư trưởng có bổn phận phải giảng rõ pháp tu tập của hai bậc hạ sĩ và trung sĩ là phương tiện dẫn phát Bồ đề tâm, và hàng đệ tử cũng phải sinh khởi sự quyết định đối với những điều giảng dạy này. Mỗi khi tu tập, phải nên nhớ nghĩ đến những ý nghĩa vừa nêu trên mà gắng sức dụng công. Đây là điều vô cùng quan trọng. Nếu không, pháp tu của bậc thượng sĩ sẽ không có sự tương quan với pháp tu của hai bậc hạ sĩ và trung sĩ. Trên lộ trình tiến tu, vì tâm Bồ đề chưa được vững chãi, đối với pháp tu của bậc thượng sĩ, hoặc bị chướng ngại trong sự phát tâm, hoặc bị mất mát nhiều nghĩa lợi rộng lớn. Vì vậy, hành giả đối với sự kiện này phải nên đặc biệt chú ý.
Khi tu tập, phải phát tâm Bồ đề chân thật. Vì muốn tâm Bồ đề kiên cố, trước hết, dùng pháp quy y Đại thừa làm nền tảng để thọ nghi quỹ phát tâm Bồ đề. Sau khi thọ xong, nên bắt đầu tu tập các học xứ của Bồ tát. Kế đến, phải phát tâm mong cầu tu tập Sáu ba la mật, tứ nhiếp. Sau khi phát tâm mong cầu, kế đến phải thọ trì giới tướng thanh tịnh của Bồ tát. Đối với các giới trọng căn bản phải hết sức giữ gìn không cho vi phạm. Ngay cả những phiền não bậc trung, bậc hạ và các giới khinh (nhẹ), cũng phải cố gắng không được vi phạm. Giả như lỡ phạm, phải nên y theo những nghi quỹ sám hối để trừ diệt tội chướng khiến cho thanh tịnh, sau đó tu tập sáu pháp Ba la mật.
Đặc biệt vì muốn tâm có thể khéo an trụ vào cảnh giới tu tập cho nên phải tu tập pháp thiền chỉ (samatha). Bồ Đề Đạo Đăng Luận cho rằng nếu vì muốn được thần thông nên tu pháp thiền chỉ, thì đó chỉ là một phần nhỏ công năng của sự tu tập pháp thiền này, giống như ngài Atisha cũng đã cho rằng muốn dẫn phát pháp quán thù thắng cũng phải nên tu tập pháp thiền chỉ. Kế đến, vì muốn đoạn trừ sự trói buộc của ngã chấp và pháp chấp, sau khi đã hiểu rõ ý nghĩa Tánh không, nên tu tập một pháp quán thù thắng (tuệ thể thắng quán). Như thế, ngoại trừ pháp tu chỉ quán, từ sự hành trì giới học trở xuống đều là giới học, còn xa ma tha (thiền chỉ) là tâm học, và tỳ bát xá na (thiền quán) là tuệ học. Điều này trong Bồ Đề Đạo Đăng Luận đã nói rõ.
Hơn nữa, từ xa ma tha trở xuống là phần phương tiện và tư lương phước đức, y vào thế tục đế, thứ lớp của con đường rộng lớn (quảng hành); còn ba loại trí tuệ thù thắng là phần bát nhã và tư lương trí tuệ, y vào thắng nghĩa đế, thứ lớp của con đường thâm sâu (thâm quán). Hành giả đối với thứ lớp tu học phải nên sanh khởi tâm quyết định, bởi vì nếu phế bỏ một trong hai phần (trí tuệ hoặc phương tiện) thì không thể chứng thành Vô thượng Bồ đề. Sau khi dùng con đường chung để tu tập, hành giả nên chuyển qua tu tập Mật thừa để mau thành tựu tư lương phước đức trí tuệ. Giả như đối với Mật thừa chưa thể tu tập, hoặc căn cơ chưa thích hợp, thì nên tu tập theo con đường Đại thừa Ba la mật, dần dần đạt đến quả vị rộng lớn. Còn những hành giả muốn tu tập Kim cang thừa (Mật thừa) đều phải nên trịnh trọng y chỉ vào pháp của các bậc thiện tri thức. Sau khi thọ pháp quán đảnh của các Mật bộ khiến thân tâm thanh tịnh, đối với Mật giới và Tam muội da phải nên tận lực hộ trì, đặc biệt không nên vi phạm các điều tội căn bản. Trên nguyên tắc, tuy có thể thọ giới lại, nhưng nếu hủy hoại giới thân, thì công đức cũng khó mà sinh trưởng. Đối với các điều tội nhẹ cũng chớ nên vi phạm, giả như có lỡ vi phạm, cũng không nên tùy tiện phớt lờ. Phải nên sám hối trừ diệt tội chướng khiến cho thanh tịnh.
Sau đó, đối với pháp Hữu tướng Du già bậc thấp, hoặc pháp Sinh khởi Du già bậc cao, tùy theo sở thích mà tu tập. Kế đến, đối với pháp Vô tướng Du già bậc thấp, hoặc pháp Mãn thứ Du già bậc cao, tùy theo sở thích mà tu tập. Những pháp tu thứ tự này, trong Bồ Đề Đạo Đăng Luận có đề cập, vì vậy quyển Bồ Đề Đạo Thứ Đệ này cũng theo đó mà dẫn đạo hành giả.
G2. Nói rõ yếu nghĩa.
Hỏi: Nếu các pháp tu của hai bậc hạ sĩ và trung sĩ là tiền phương tiện của pháp tu của bậc thượng sĩ, thì chúng cũng là những tầng bậc đầu tiên của pháp tu này, tại sao lại còn đặt tên “tầng bậc tu tập chung với hai bậc hạ sĩ và trung sĩ”?
Đáp: Lý do dẫn đạo ba bậc thượng trung hạ riêng biệt có hai ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất là muốn chiết phục những hành giả chưa hiểu rõ hai bậc hạ sĩ và trung sĩ là pháp tu chung, đã vội sinh tâm ngạo mạn cho rằng mình là bậc thượng sĩ (mà xem thường hai bậc kia), thứ hai là muốn làm lợi ích lớn cho cả ba loại căn cơ. Lợi ích lớn, nghĩa là hai bậc trung sĩ và thượng sĩ cũng cần thác sanh về cõi lành, cho nên đối với hai loại hành giả này, phải đem những ý nguyện bậc trung hạ khiến cho họ tu tập. Điều này không phải sai lầm, mà còn tăng trưởng công đức cho họ. Những hành giả căn cơ thấp, tuy tu tập pháp bậc thượng cũng chưa chắc phát sinh ý nguyện bậc thượng; nhưng nếu họ bỏ phế pháp tu bậc hạ, thì họ sẽ mất hết những công đức tu tập của ba bậc. Hơn nữa, đối với hành giả căn cơ cao, chỉ cho họ con đường chung của ba bậc để họ tu tập, thì đối với những công đức phải tu tập, nếu đã phát sinh thì sẽ giữ gìn không mất, nếu chưa phát sinh thì cũng sẽ phát sinh nhanh chóng, từ thấp lên cao, mà sự tu tập của họ cũng không bị trễ nải. Tổng Trì Tự Tại Vương Sở Vấn Kinh đã dùng trường hợp ngài Hiệt Tuệ Bảo tu tập pháp Tịnh Ma Ni Bảo làm thí dụ điển hình để chỉ bảo người phát tâm tu tập theo thứ tự này. Ngài Long Thọ cũng từng nói:
Trước tu pháp tăng thượng,
Sau phát quyết định thắng,
Vì đã được tăng thượng,
Nên được quyết định thắng.
Điều này muốn nói hành giả nên theo thứ tự mà tu tập các pháp công đức thế gian và xuất thế gian. Ngài Vô Trước cũng nói: “Bồ tát đối với các chúng sinh, trước tiên phải quán sát căn cơ của họ, đối với chúng sinh căn cơ thấp, đem những pháp môn dễ hiểu giảng dạy cho họ, đối với chúng sinh căn cơ vừa, đem những pháp môn trung bình giảng dạy cho họ, đối với chúng sinh căn cơ cao, đem những pháp môn thâm sâu giảng dạy cho họ. Khiến cho tất cả đều theo thứ lớp mà tu tập pháp lành. Đây gọi là Bồ tát tùy theo trình độ mà làm lợi ích chúng sinh.” Ngài Đề Bà, trong Nhiếp Hành Cự Luận, cũng thành lập thứ tự tu tập, trước tiên tu tập Đại thừa Ba la mật, sau đó chuyển sang tu tập Mật thừa. Kệ nói:
Các hành giả sơ cơ,
Muốn tu pháp thâm sâu,
Phật giảng nói phương tiện,
Tuần tự mà tu học.