Nghi thức tu tam muội theo Từ Vân sám chủ, hành giả phải kiến lập Đạo tràng, sắm đồ cúng dường, dự bị y phục giầy dép mới, giặt y tắm gội, kiết giới không cho ra vào, phương tiện chánh tu, thiền tụng sám lễ, các pháp tắc thanh tịnh đã nói đủ, ở đây không chép lại. Đúng ngày vào đạo tràng, phải trước đó 7 ngày, lo tất cả mọi việc chu tất, trước phải làm cho thân và tâm tịnh định, sám hối nội chướng cho đến khi thấy được hảo tướng. Bắt đầu vào đạo tràng nên dùng vào ngày lục trai, phát nguyện tu trì hoặc 3 hoặc 7 ngày. Ở trước Phật tiền phải cẩn thận cúng dường hương hoa tịnh thủy. Bởi vì ở trong đạo tràng có Phật trời giáng lâm, nên phải trang nghiêm cẩn thận để trừ các ma sự và các chướng uế ác, làm cho hành giả ở trong đạo tràng tam muội dễ thành tựu. Vì thế ở đạo tràng nên tưởng là Tịnh Độ, nên tưởng là nơi giải thoát, nên tưởng là nơi bảo sở, nên tưởng chắc chắn được vãng sanh, không được xem thường. Đồng thời phải xét thấy rõ cái khổ ở thế gian thật vô cùng, phải xem như oan gia cần phải xa lánh, vĩnh viễn không trở lại. Không được đem những việc khó cắt đứt, khó dứt bỏ, chứa giữ trong lòng, lo nhớ niệm khác làm lúc sám hối bị chướng ngại, chánh hạnh không thăng tiến, mất hết công phu, không giữ được chánh niệm liên tục, nên trong nghi nhập đạo tràng nói không được trong giây lát nhớ đến năm món dục lạc ở đời.
Trong đạo tràng, hành giả chừng 10 người trở lại, nhiền hơn thì không nhận, phải dự liệu chọn những người nào có thể tu tam muội được mới cho vào. Phải xét những hành động hằng ngày của hành giả, tánh ít thô tháo, lòng tin bền chắc, không có tánh bốc đồng nhất thời, tiếng nói phải hoà nhã, phẩm hạnh đoan trang, chấp nhận người chủ thất chỉ bảo, vì sanh tử mà vào đạo tràng, không sanh lòng hối hận buồn bực, tánh vui vẻ khiêm nhường, có thể cùng tu. Nếu không chọn được người như thế, chỉ cần 3 hay 4 người cũng đủ. Hoặc một mình cũng tốt, tránh nhiều người làm bại hoại quy tắc, rối loạn việc thanh tịnh tu hành. Lại ở trong chúng cần suy tôn một người có đức lớn, thực hành thuần thục, hoặc riêng thỉnh những bậc thầy sư phạm làm chủ phương đẳng đạo tràng. Sám chủ thực hành sám pháp, phải dạy cho mọi người hiểu rành nghi lễ, nghe lời sám chủ chỉ bày, khởi lòng y chỉ. Ở trong đạo tràng, hoặc gặp những tướng thuận nghịch, không được thấy lỗi người, phải xét lại lỗi mình, nhã nhặn hoặc tham dự hoặc lui đi.
Nghi thức lễ tụng hoặc lạy hoặc quì, hoặc ngồi hoặc đứng, chấp tay cung kính đi nhiểu, tất cả phải trang nghiêm nhã trọng, mắt thấy tai nghe đều nhiếp cảnh về tâm. Người chưa hiểu, phải hỏi bậc hiểu trước, cẩn thận đừng tự thị cho mình có đủ sức làm thân và tâm lay động cần phải cảnh sách.
Chúng tham dự vào đạo tràng, trước đó một ngày phải tắm gội, giặt dũ, thay đổi y phục giầy dép mới sạch, đồ đạt đầy đủ cho ngày dự tu theo lời sám chủ đã dặn. Khi vân tập sám chủ dẫn khánh, dẫn chúng vào đạo tràng, chỉ cho 2 người nội hộ vào, ngoài ra không cho bất cứ người nào không phận sự vào đạo tràng. Mọi người đốt nhang xong, y theo pháp sám hối, lạy Phật 3 lễ chí thành cầu Phật cảm ứng, lễ xong đứng dậy đi kinh hành trở về chỗ đứng. Sám chủ ra khỏi chúng đọc văn bạch một thiên, tán Phật, tán thuỷ, cầu xin Tam bảo gia hộ chứng minh, để trong lúc chánh tu khỏi bị ma chướng được sanh tịnh độ. Cầu nguyện xong cử bài tán Khứ Chánh Pháp Minh, niệm chú Đại Bi 7 biến, chú Như Ý Luân 7 biến, chú Tỳ Lô Quán Đảnh 7 biến. Sám chủ trong lúc tụng chú dùng tay cầm chén nước, tay dâng lò hương đến nửa thời dụng mới đưa cho người bên hữu cầm, kế đó dâng cát, dâng hương, dâng hoa cũng như vậy, rồi đứng dậy đi kinh hành lần lượt 3 vòng, ba phần chú đã xong, lại cử đại bi chú, rưới nước tẩy tịnh chung quanh và các chỗ mà mình sắp đi qua, trước đốt đèn sáng, chú ý đèn phải làm sáng con đường đi kế đó mới cầm chén rưới nước, kế đó rãi cát tán sa, kế đó cầm lư cúng hương, sau đó tuỳ theo mỗi chỗ tán hoa. Lãnh chúng từ sau Phật toà kinh hành, trước ở trong đạo tràng đi vòng bên hữu, đốt hương, tái tịnh đầy đủ 3 lần, làm cho cát và nước đều rải khắp. Kế đó từ phía ngoài đạo tràng, chỗ phóng sanh, trai đường cũng nhiểu một vòng. Kế đó tịnh trù chỗ tắm gội, vệ sinh, chỗ yên nghỉ, chỗ thiền hành. Phàm chỗ nào chúng đi qua hoặc phòng ốc cũng phải sái một vòng, vì sái các nơi chúng đến nên gọi là kiết giới. Kinh dạy: "Giới như vách thành bằng kim cương" tuân theo ý này nên phải vún sa, đổi thành tịnh địa gọi là kiết địa giới. Người dâng hương tưởng mây hương như lọng che trên hư không, kiết hư không giới. Người tán hoa biểu hiện sáng rở sạch sẽ trang nghiêm pháp giới. Như cách dùng tất cả pháp ở trên đều nhờ vào bậc đại bi thánh chủ gia trì và sức thần chú gia trì, nên cát nước đến chỗ nào là thành cõi đất báu của Phật. Nhờ vào nhân duyên này mà tà ma không thể vào, ngoại đạo không thể làm phá hoại, nên tam muội dễ thành.
Tướng của giới tràng này cẩn thận không thể phá hoại, nếu phá hư giới tướng là điềm chẳng lành làm cho đạo hạnh bị nhiều chướng ngại khó thành tựu. Vì sao gọi là giới tướng. Tướng giới có hai là nội tướng và ngoại tướng. Nội tướng là bốn góc trong của đạo tràng tu sám pháp. Ngoại tướng là những nơi ở ngoài đạo tràng mà ta kiết giới, chỗ ấy có cắm cọc đã đem nước và cát tưới đến chỗ ấy. Người ở trong đạo tràng chỉ đến nêu ngoại giới thì dừng không được ra ngoài, nếu bước ra ngoài nêu gọi là phá giới. Người ở ngoài đạo tràng vào đến nội giới phải dừng lại, vượt khỏi nội giới gọi là phá giới. Hoặc người lo công việc dùng tay chỉ, đi vào nội giới một phần cũng gọi là phá giới hoặc cho người xấu vào ngoại giới thời gian ngắn cũng gọi là phá giới. Nên biết pháp này không được tuỳ hỷ cho người khác vào. Dấu hiệu phá giới là một điềm không tốt. Như ý chỉ trong kinh nếu giới bị phá phải kiến lập lại đạo tràng, lại hành sám pháp trở lại mới được gọi là khỏi tướng phá giới, hành giả phải kiên dè đó.
Nếu người nào cảm thấy sức khoẻ thân tâm đối với pháp tu trong đạo tràng không thực hành đủ hết sáu thời, có thể tu năm thời, bốn thời, ba thời, hoặc hai thời, việc thực hành tuỳ ý lập lời phát nguyện. Sau khi đã lập chắc và phát nguyện rồi không cho sửa đổi, chỉ có tu tăng thêm, không cho sụt giảm, dù có bị bệnh hay việc quan, cũng phải tưởng niệm, đâu thể tuỳ ý siêng năng hay giải đải, hoặc hứng hoặc bỏ, sớm lập chiều sửa đổi, làm cho chánh hạnh không được thuần nhất.
Người muốn tu pháp này trước phải hiểu rõ phép tắc niệm Phật và các kinh điển tịnh độ và sám pháp, trì chú, bày bố trước sau, tùy ý nhiều ít, phải xét nghiệm kỹ lưỡng, xét đi xét lại ba lần, xem coi mình có thể thực hành nổi không? Như có người muốn lội qua sông, trước phải xem xét dòng nước lớn hay nhỏ, mình có đủ sức lội qua bên kia không? Người tu đạo tràng tam muội cũng vậy, quán pháp khó dễ, tự mình có làm đến nơi đến chốn hay không. Không nên vì hăng hái nhất thời mà lập ra, sau đó làm không nổi liền bỏ. Cũng không được khi tụng trì mà tâm không chuyên chú, như người bắn tên, tâm chuyên nhất thì trúng. Pháp môn niệm Phật cũng thế, nếu một lòng chuyên chú thực hành, niệm Phật chắc được vãng sanh, dạo chơi cõi Cực lạc trong mỗi niệm được công đức không thể nghĩ bàn.