Home > Khai Thị Phật Học > Tam-Muoi-Va-Tam-Luan
Tam Muội Và Tam Luân
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


Thưa Sư Ông,

Con không hiểu ý nghĩa của tam muội và tam luân. Con tìm trên Google nhưng thông tin giải nghĩa nhiều quá. Càng đọc con càng không hiểu. Xin Sư Ông giúp con hiểu được ý nghĩa của “tam muội” và “tam luân”.

Đáp.

Thế nào là Tam muội?

Tam muội là phiên âm từ Phạn ngữ Samadhi, cũng được phiên âm là tam ma đề, dịch là chính định. Tam muội là đức tính thường trụ bất động của niết bàn, do định nên không có thay đổi, không thay đổi gọi là bất động, bất động không đổi là thường trụ.

Do thường trụ là niết bàn nên để đạt đến niết bàn, hành giả phải tu tập thường pháp, và thường pháp chính là tam muội hay chính định, trong tiến trình tu tập thường pháp chính là đang thực hiện "thường đạo", đó là một con đường tu tập không được gián đoạn, thối thất, nên mang tên Thường đạo. Để tiến bước trên thường đạo, hành nhân phải định tâm hành thiện không ngơi nghỉ, gọi đó là giới định, và càng đi sâu trên Thường đạo bằng hai phương tiện giới định thì càng phát triển trí huệ hiểu biết về niết bàn tứ đức. Vì vậy giới định huệ là ba pháp phương tiện dẫn đến niết bàn, ba pháp này gọi là tam vô lậu học. Giới là Bồ tát giới, định là không thối thất Bồ tát đạo, và huệ là chứng Bồ đề quả. Mỗi bước chân trên Thường đạo bằng tam vô lậu học (giới định huệ) là từng bước tiến đến niết bàn giải thoát, đồng nghĩa với từng bước ra khỏi thế gian mộng mị vô thường vô ngã, và đó chính là từng bước gieo duyên chân thật xuất (thế gian) gia, bởi đây là con đường duy nhất cho những ai muốn giác ngộ giải thoát.

Như vậy chúng ta đã hiểu sự trọng yếu của tam muội tức chính định trong sự tu hành. Niết bàn là thường trụ, nên các pháp liên quan đến niết bàn cũng đều thường trụ, vì vậy định tức tam muội là một trong tam vô lậu học, từ ngữ vô lậu ở đây hàm nghĩa không dứt tức định, vì ba học pháp này phải thường trụ mới thật sự là giới định huệ. Còn như giới lúc giữ lúc không, hay định lúc ngồi thiền thì định xả thì mất định, huệ thì pháp biết pháp không, giới định huệ như vậy gọi là tam hữu lậu học không liên quan gì đến niết bàn thường trụ nên không thể đạt được giải thoát.

Tu định để đạt được đức thường, tu giới để đạt được tính tịnh lạc, tu huệ để chứng được thật ngã, do vậy cần tu giới định huệ để chứng niết bàn. Tóm lại tam muội phải được hiểu là chính định, một thứ định vô tác tức không cần phải tạo tác để định mà nó tự định, như nói từ bi tam muội có nghĩa từ bi ấy không cần dựa vào các nhân duyên nghe hay nhìn thấy khổ mới sinh từ bi, mà hằng từ bi gọi là vô duyên từ bi, và vô duyên từ bi chính là từ bi tam muội. Nếu phải tạo tác như ngồi, tập trung và khởi niệm để kích hoạt sự hiện diện của định thì định đó không hề là tam muội. Khi nói từ bi tam muội của chư Phật và Bồ tát có nghĩa từ bi ấy luôn hiện hữu mà không cần đến bất kỳ duyên khởi từ bên ngoài hay tác động từ thân tâm nào cả., thật pháp vốn thường trụ, nên là tam muội pháp. Phật là thật pháp (tam muội) nên tự tại giải thoát.

Tóm lại tam muội là chính định và không cần dựa vào bất kì nhân duyên nào để sinh, đó là đặc tính tự tại vô ngại giải thoát của tam muội. Lại nữa tam muội bất biến nên sự tự tại cũng luôn thường trụ không bị ngoại duyên thay đổi, nên an lạc vĩnh hằng. Do đó tam muội là đặc tính của thật pháp tựa như vô thường là đặc tính của huyễn pháp. Thật pháp vốn thường trụ, nên là tam muội pháp. Phật là thật pháp (tam muội) nên đầy đủ tính tự tại giải thoát. Cần phải nắm rõ các đặc tính đó để tu học thật pháp, tránh rơi vào vực huyễn pháp.

Tam luân thể không là gì?

Tam luân thể không cũng đồng nghĩa với Tam luân không tịch. Đây là chân lý của pháp bố thí, khi bố thí bằng tam luân thể không thì mới thành tựu công đức.

Tam luân là mối liên hệ vòng quanh giữa ba đối tượng là người cho, kẻ nhận và vật cho. Thể không là thể bố thí của cả ba vốn không tức không tịch, ở đây có nghĩa thể của sự cho (bố thí) vốn không thực sự trụ ở đối tượng nào song đồng thời cũng trụ ở cả ba đối tượng, trụ mà không trụ, không trụ nhưng trụ khắp hết đó là nghĩa không tịch.

Vì sao sự cho không trụ (thuộc) vào đối tượng nào, bởi khi một người đi bố thí cũng chính là đang đi xin phúc, cho tài vật để nhận lại phúc báu, sở dĩ nói phúc là do phúc là thứ tài vật tuy không thấy được nhưng có giá trị cao hơn tài vật. Khi ấy nếu nói sự cho thuộc về người cho thì không hẳn bởi khi người nhận lãnh thọ thì lập tức sự cho lại thuộc về người nhận, vì khi ấy người cho đã đang nhận lại phúc quả từ người nhận, thế nên kẻ cho người nhận không quyết định được ai chỉ cho và ai chỉ nhận, bởi cả hai đều cho và nhận bình đẳng, còn quà cho cũng là quà nhận, vì khi nhận thì quà nhận cũng trở lại thành quà cho, quà là vật chủ yếu cấu thành sự bố thí, nên nó đóng cả hai vai trò vừa cho vừa nhận. Do cả ba đối tượng đều đồng là cả cho lẫn nhận, cả ba bình đẳng, vừa đều là vừa là không là, nên gọi đó là ba thể đều không (tam luân thể không).

Phật giáo đồ hiểu rõ pháp tam luân thể không sẽ hành đúng pháp bố thí và thành tựu công đức lợi mình lợi người. Nhờ hiểu rõ "thể không", người bố thí luôn tri ân người nhận, nên không thấy mình là người ban ơn để kể công. Chúng sinh thường thích nhận hơn dạy "khi hành thiện hồi hướng cho bản thân thì có phúc ba đời, nếu hồi hướng đến mọi người thì có phúc rất nhiều đời, nhưng nếu hồi hướng đến quả vô thượng bồ đề thì công đức vô tận". Như vậy khi hồi hướng đến nhân bao gồm bản thân và mọi người thì chỉ có phúc đức hữu lậu, còn khi hồi hướng đến pháp tức quả vô thượng bồ đề thì công đức vô lậu.

Do tam luân thể không nên pháp bố thí là pháp lợi mình lợi người bậc nhất khiến bố thí trở thành pháp tu hành của Bồ tát đạo dẫn đến quả vô thượng bồ đề. Tuy nhiên tùy theo sự hồi hướng mà người bố thí nhận về quả hữu lậu hay vô lậu theo ý mình, ví dụ như thí chủ mong được quả báo phúc đức thế gian thì nhận được phúc báo, nếu hồi hướng cho pháp bố thí thì sẽ được tiếp tục bố thí và nhờ vậy thành tựu công đức vô lậu, lợi mình lợi người. Chính xác thì nếu hồi hướng cho ngã sẽ thành phúc báo nhân thiên, còn hồi hướng cho pháp thì thành công đức vô lậu. Vì sao? bởi hồi hướng cho pháp sẽ giúp pháp tăng trưởng, pháp tăng trưởng tất nhiên công đức theo đó tăng thượng, nếu luôn hồi hướng cho pháp thì công đức sẽ vô cùng và bất tận, vì nếu pháp luôn vận hành và thành tựu tam muội thì ta và người đồng thành tựu công đức vô lậu.

Vì vậy Bồ tát bố thí không vì nhân mà vì pháp, nếu vì nhân mà không vì pháp thì Bồ tát và nhân không thành công đức, do Bồ tát chỉ bố thí cho người cùng khổ nhất thời, và cả hai nhận được chút phúc hữu lậu, vì pháp bố thí đó chỉ sản sinh khi bị tác động bởi các yếu tố ngoại vi như người và cảnh khổ, nên chỉ là pháp bố thí hữu lậu mà không phải bố thí tam muội, do đó quả báo cũng hữu lậu. Nếu bố thí vì pháp thì sẽ thường hành mà không cần dựa vào lòng trắc ẩn, nhờ thường hành bố thí khiến ta và chúng sinh thường luôn thành tựu công đức, do lẽ này vì pháp bố thí là Bồ tát, vì nhân bố thí là phàm phu, nói cách khác vì pháp bố thí là Bồ tát đạo.

Vì pháp bố thí cũng bao quát vì nhân, do pháp bố thí khiến ta và muôn loài đều được công đức, nếu vì nhân bố thí thì chỉ có chút phúc hữu lậu mà thôi. Vì vậy người hành bố thí nên luôn hồi hướng đến pháp bố thí để thành tựu công đức cho ta và đối tượng nhận, bởi nếu người cho chỉ cầu phúc thì người nhận cũng chỉ được phúc, song nếu người cho cầu công đức thì người nhận cũng được công đức.

Do tinh thần tam luân thể không mà dù đức Phật bố thí pháp giác ngộ cho chúng sinh và chúng sinh phải chịu ân, nhưng ngài vẫn tri ân chúng sinh và nguyện báo ân bằng lời nguyện thệ độ nhất thiết chúng sinh, như vậy đức Phật và chúng sinh cùng chịu ân nhau qua tinh thần tam luân không tịch.

Bồ tát khi hành Bồ tát đạo lấy bố thí làm phương tiện hàng đầu để độ sinh, bất kỳ ai nhận bố thí hoặc bố thí cho Bồ tát đều được Bồ tát hồi hướng cho họ cùng ngài thành tựu bố thí tam muội qua pháp tam luân thể không, nhờ vậy những người thọ nhận cùng người bố thí cho ngài đều kết thành nhân duyên với thật pháp giác ngộ, và sau khi Bồ tát thành quả bồ đề, những người này sẽ xuất hiện tại các pháp hội của ngài, được thọ ký tương lai thành Phật và ngài giải thích vì họ là những người đã gieo trồng công đức hoặc đã cúng dường chư Phật trong quá khứ khi các ngài còn tu Bồ tát đạo.

Người xuất gia không hiểu biết về tam luân thể không dễ sinh ngạo mạn coi thường người tại gia, tự cho mình là phúc điền, những kẻ tại gia kia muốn có phúc thì hãy lại cúng dường, còn mình thì chỉ có một trách nhiệm duy nhất là thu mà không chi, vì vậy nhân duyên bố thí giữa các vị này cùng tín đồ chỉ là phúc hèn, không hề đạt được công đức, nên Lục tổ Huệ Năng mới dạy "bố thí cúng dường, xây chùa tạo tượng chỉ là phúc đức mà không phải công đức". Lẽ ra chúng sinh cũng có quyền nói rằng "này các vị xuất gia, vị nào muốn có công đức hãy lại cứu khổ cứu nạn chúng tôi, vì chúng tôi là công đức điền của chư Phật lẫn quý vị".

Tựu chung, chúng sinh muốn có phúc báo hãy cúng dường Tam bảo. Người xuất gia muốn thành quả bồ đề hãy phụng sự chúng sinh. Cả hai đều cần nhau để thành tựu phúc báo và công đức, nhờ vào tinh thần "tam luân thể không".

VTA 14.8.2023